Thành Cát Tư Hãn
Mông Cổ: Soyombo và Ngựa gió Lungta
Mông Cổ là quốc gia thưa dân nhất trên thế giới với dân số khoảng 3 triệu người trên diện tích khoảng hơn 1,500,000 km2. Đây cũng là quốc gia nội lục lớn thứ 2 thế giới, sau Kazakhstan. Mông Cổ có rất ít đất canh tác do hầu hết diện tích do thảo nguyên bao phủ, Ulaanbaatar là thủ đô và thành phố lớn nhất của Mông Cổ, là nơi cư trú của khoảng 45% dân số toàn quốc. Khoảng 30% dân số Mông Cổ ngày nay là dân du mục hoặc bán du mục; văn hóa ngựa vẫn còn nguyên vẹn. Đa số cư dân là tín đồ Phật giáo và thuộc dân tộc Mông Cổ.
Khu vực nay là Mông Cổ từng nằm dưới quyền cai trị của nhiều đế quốc du mục, như Hung Nô, Tiên Ti, Nhu Nhiên. Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn lập ra Đế quốc Mông Cổ, sau đó nó phát triển thành đế quốc lục địa liền kề lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Tài lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã làm cho Mông Cổ đạt được nhiều quyền lực, đội quân Mông CỔ sống trên lưng ngựa, thần tốc, hung bạo và có kỉ luật tốt. Họ tự cung tự cấp bằng sự cướp bóc, nhận chìm các nền văn minh khác bằng sự tàn nhẫn, giết bất kỳ ai phản bội hoặc không chấp nhận đầu hàng. Cháu nội của ông là Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên và chinh phục miền Nam Trung Quốc. Sau khi nhà Nguyên sụp đổ, người Mông Cổ triệt thoái về Mông Cổ và lại tiếp tục xung đột phe phái như trước.
Thành Cát Tư Hãn
Đến thế kỷ 16, Phật giáo Tây Tạng bắt đầu truyền đến Mông Cổ. Nhà Thanh do người Mãn lập ra sáp nhập Mông Cổ trong thế kỷ 17. Đến đầu thập niên 1900, khoảng 1/3 nam giới trưởng thành tại Mông Cổ là tăng nhân. Sau khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1911, Ngoại Mông Cổ tuyên bố độc lập từ nhà Thanh, và đến năm 1921 thiết lập nền độc lập thực tế từ Trung Hoa Dân Quốc. Ngay sau đó, quốc gia nằm dưới quyền kiểm soát của Liên Xô, là thế lực giúp đỡ họ độc lập khỏi Trung Quốc. Năm 1924, Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ được tuyên bố thành lập, trở thành một quốc gia vệ tinh của Liên Xô. Trước biến động tại Liên Xô và Đông Âu, Mông Cổ tiến hành cách mạng dân chủ hòa bình vào đầu năm 1990. Kết quả là một hệ thống đa đảng, một bản hiến pháp mới năm 1992, và chuyển đổi sang kinh tế thị trường như ngày nay.
Biểu tượng quốc gia của Mông Cổ là một biểu tượng rất nổi tiếng trên thế giới, được thể hiện nổi bật trên cả quốc kỳ lẫn quốc huy Mông Cổ, gọi là biểu tượng Soyombo. Trên quốc huy Mông Cổ thì vòng tròn màu vàng bên ngoài được trang trí bằng hoa văn tumen nasan, tượng trưng cho sự vĩnh cửu bao bọc lấy một nền màu xanh tượng trưng cho bầu trời. Ở vị trí trung tâm là 1 sự kết hợp của biểu tượng Soyombo và hình ảnh Ngựa gió, tượng trưng cho sự độc lập, chủ quyền và tinh thần của Mông Cổ. Bên trên là một viên đá quý huyền thoại Cintamani, tượng trưng cho sự quy y Tam bảo của nhà Phật và cũng là vật biến điều ước thành hiện thực trong truyện dân gian Mông Cổ. Bên dưới là một dãy núi màu xanh với biểu tượng Bánh xe Dharma ở chính giữa và chiếc khăn choàng hành lễ khadag.
Quốc huy Mông Cổ
1. Biểu tượng Soyombo
2 phiên bản của biểu tượng Soyombo
Biểu tượng Soyombo là một chữ cái đặc biệt trong bảng chữ cái Soyombo được phát minh bởi Jebtsundamba Khutughtu (Lạt Ma hàng cao nhất trong Phật giáo Tây Tạng) đầu tiên của Mông Cổ là Zanabazar vào năm 1686. Cái tên ‘Soyombo’ có nguồn gốc từ tiếng Phạn ‘svayambhu’ nghĩa là ‘tư tạo’. Trong bảng chữ cái Soyombo, 2 phiên bản của biểu tượng Soyombo được sử dụng để dánh dấu phần mở dầu và kết thúc. Biểu tượng này có thể còn có trước bảng chữ cái Soyombo.
Lạt ma Zanabazar
Biểu tượng này bao gồm 10 thành tốtrừu tượng, hình học và hoa văn được sắp xếp thành hình cột, chúng gồm có:
- Biểu tượng Soyombo
-
Ngọn lửa: một biểu tượng chung cho sự phát triển, thịnh vượng và thành công vĩnh hằng. 3 đầu ngọn lửa tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và tương lai với ý nghĩa Mông Cổ sẽ phát triển cả trong 3 thì thời gian nàyMặt trời và mặt trăng thể hiện rằng đất nước Mông Cổ sẽ tồn tại mãi mãinhư màu xanh của bầu trời. Những biểu tượng này có từ thời của người Hung Nô. 2 hình tam giác chỉ xuống thành hình của một mũi tên hoặc ngọn giáo, tuyên bố sự thất bại của kẻ thù của Mông Cổ. 2 hình chữ nhật nằm ngang đem lại sự cân bằng cho hình tròn ở giữa. Hình chữ nhật tượng trưng cho sự thật thà và công bằng của nhân dân Mông Cổ, dù cho họ có là tầng lớp đứng đầu hoặc dưới đáy xã hội. Biểu tượng Thái cực đồ minh họa cho sự cân bằng, bổ sung lẫn nhau giữa âm và dương, sự sinh sôi nảy nở của vạn vật. 2 hình chữ nhật đứng thẳng có thể được hiểu như những bức tường thành của 1 pháo đài, thể hiện sự đoàn kết, sức mạnh, liên quan đến 1 câu thành ngữ Mông Cổ:’Tình bạn mạnh hơn tường thành.’
Biểu tượng Soyombo là biểu tượng quốc gia chính thức của Mông Cổ, đã xuất hiện trên quốc kỳ Mông Cổ kể từ năm 1911 và là một biểu tượng rất phổ biến tại đất nước này, có thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi.
2. Ngựa gió Lungta
Ngựa gió
Ngựa gió hay Phong mã là một con vật tượng trưng cho linh hồn con người trong niềm tin truyền thống ở Đông và Trung Á. Trong Phật giáo, ngựa gió là biểu tượng của tâm. Tâm có phương tiện đi lại của nó là gió, và nó có thể được cưỡi đi. Điều đó muốn nói rằng chúng ta có khả năng kiểm soát tâm và gió và hướng dẫn chúng theo bất kỳ chiều hướng nào và ở bất kỳ tốc độ nào mà chúng ta muốn.
Ngựa gió trong tiếng Tây Tạng là ‘lungta’, cũng là tên gọi của lá cờ cầu nguyện lunga, một lá cờ hình chữ nhật bàng vải nhiều màu sắc, thường được tìm thấy xâu dây lại với nhau ở các các đỉnh núi cao trong dãy Himalya. Trong quan niệm từ lâu đời của cư dân thảo nguyên mênh mông bạt ngàn thì ngựa và gió giống nư những người vận chuyền, vừa mang lời cầu nguyên từ nhân gian lên trời, vừa mang những điều tốt lành từ trời xuống nhân gian. Cờ lungta được dùng để phù hộ cho các khu vực xung quanh, trên cờ hay được trang trí bởi các hình ảnh, thần chú Mật tông và lời cầu nguyện.
Cờ lungta phấp phới trên dãy Himalaya
Thông thường, ở chính giữa cờ lungta chính là ngựa gió tượng trưng cho khí và gió, đại diện cho Tam bảo của Phật giáo. Ở 4 góc cờ là 4 linh thú: đại bàng Garuda tượng trưng cho lửa, rồng tượng trưng cho trời, hổ tượng trưng cho đất và sư tử tuyết (biểu tượng của Tây Tạng) tượng trưng cho nước. 4 linh thú này đại diện cho: Trí tuệ, quyền năng, sự tự tin và vô úy. Người Tây Tạng tin rằng, khi gió thổi đến, những lời cầu nguyện và minh chú được ghi trên lá cờ sẽ mang những thiện ý và sự từ bi lan tỏa khắp không gian. Vì vậy, cờ Lungta được tin là đem lại lợi lạc cho tất cả muôn loài. Ngựa gió đóng vai trò trung tâm ở giữa 4 loài linh thú kia, là biểu tượng của sự khỏe mạnh, hạnh phúc và may mắn, mang lại hòa bình, sự giàu có và hòa hợp.
Chogyam Trungpa
Vào cuối thế kỷ 20, cao tăng Chogyam Trungpa tổng hợp tất cả những yếu tố của Phật giáo Tây Tạng trong đó có ngựa gió lungta, 4 linh vật drala và các khái niệm khác thành một chương trình dạy học thiền gọi là Chương trình huấn luyện Shambhala. Nhờ vào khóa huấn luyện này mà các khái niệm khó hiểu trong Phật giáo Tây Tạng dần dần trở nên quen thuộc hơn với phương Tây.
Ngựa gió rất hiếm được sử dụng trong các huy hiệu. Nó được thể hiện bằng hình ảnh cách điệu con ngựa đang bay với đôi cánh trên quốc huy của Mông Cổ.
3. Hình tượng ngựa Mông Cổ
Ngựa Mông Cổ là giống ngựa chiến nổi tiếng sinh ra trên các vùng thảo nguyên Mông Gobi thời đế quốc Nguyên Mông thế kỷ 7 – 13. Chúng có tầm vóc cỡ trung bình, thậm chí là có tầm thấp, chúng chỉ cao khoảng 140m, toàn thân có màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm. Chúng có thân hình cân đối, ngực nở, bụng thon, chân to, 4 chân chắc khỏe, chân to, lông dày, cổ nở. Giống ngựa này có tốc độ chạy tối đa 40 km/h đặc biệt rất dai sức, có thể phi nước kiệu trong 10 giờ liền nên từ xưa ngựa Mông Cổ đã được mệnh danh là thiên lý mã.
Ngựa Mông Cổ trên thảo nguyên
Trong lịch sử, người Mông Cổ cưỡi ngựa thì họ phi ngựa như bay không cần cầm cương, 2 tay đều rảnh để cầm vũ khí. Ngựa Mông Cổ được huấn luyện sao cho kỵ sĩ có thể bắn cung đủ mọi hướng trong khi chạy nhanh và sao cho thật ổn định khiến cho xạ thủ không bị trở ngại. Một ưu điểm của tư thế đó là khi chạy nhanh con ngựa bao giờ cũng nhoài đầu về trước khiến cho cung thủ không bị vướng víu, có thể quay ngang quay dọc, trái phải một cách tự do. Ngựa phải được hoàn toàn tự do, không yên cương, không ràng mõm, không chở đồ nặng và chỉ được thắng vào giờ phút cuối cùng trước khi xung trận. Khi hành quân, nếu cần có thể rạch một mạch máu ngay trên cổ con ngựa đang cưỡi để hút máu. Những con ngựa đó được các chiến sĩ Mông Cổ nuôi dưỡng trực tiếp từ khi còn nhỏ, ngoan ngoãn và thân cận. Trước đây, ngựa đực đều bị thiến để khi hành quân không nổi cơn khi thấy ngựa cái và chỉ những con đực khỏe mạnh nhất mới được giữ lại làm giống.
Xạ thủ thoải mái ngồi trên lưng ngựa
Giống ngựa này hầu như không hề thay đổi kể từ thời kỳ Thành Cát Tư Hãn. Đế quốc này đã từng có một đội kỵ binh lớn và dũng mãnh vào bậc nhất thế giới. Chúng gắn liền với sự kiện quan trọng trong lịch sử thế giới đó là sự hình thành và bành trướng của Đế chế Mông Cổ. Thuật ngữ vó ngựa Mông Cổ gây khiếp đảm cho những giống dân bản xứ nhất là ở châu Âu với câu nói ‘Vó ngựa Mông Cổ đến đâu thì ở đó cỏ không mọc được.’
Mỗi chiến sĩ Mông Cổ thường mang theo một đàn có khi đến 18 con để thay đổi khi cần nên tốc độ di chuyển của họ rất nhanh khiến cho nhiều nơi thấy họ ào ào kéo tới tưởng như thiên binh thần tướng trên trời đổ xuống. Chúng còn có khả năng biết cào tuyết tìm thức ăn do đó trong lịch sử chúng có thể rong ruổi từ Đông sang Tây theo những cánh quân Mông Cổ chinh phạt thế giới ở cả những vùng giá lạnh, chúng không hề kén thức ăn như các giống ngựa khác nên vấn đề binh lương tiếp liệu giảm thiểu hẳn. Chiến sĩ Mông Cổ nếu cần có thể uống máu, ăn thịt ngựa của mình nên quân đội không phải cồng kềnh những binh đội phụ thuộc, hoàn toàn có thể tập trung để chiến đấu trong khi quân đội những nơi khác chỉ sử dụng thực sự vào khoảng 1/3 nhân lực. Họ có thể ngồi liên tiếp trên lưng ngựa 10 ngày liền, ăn ngủ trên đó.
Quân đội Mông Cổ hành quân
Số ngựa ở Mông Cổ còn nhiều hơn cả số dân, và loài ngựa chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong văn hóa ở Mông Cổ. Họ rong ruổi đây đó cùng con ngựa của mình, hoặc theo bầy súc vật hoặc đuổi thú rừng. Cuộc sống trên lưng ngựa đã cho người Mông Cổ một tâm hồn khoáng đạt, tự do; những lúc đi xa thường phải phi ngựa đơn độc và tự bảo vệ lấy sinh mạng của mình, do đó họ có tinh thần bình đẳng và tinh thần độc lập mạnh mẽ. Ngoài ra, qua bao thế kỷ, việc nuôi ngựa và say mê thích thú nghề kỵ mã đã tạo ra một số người nặng óc tự tôn, trở thành giai cấp quý tộc Mông Cổ.
Bức tượng người cưỡi ngựa lớn nhất Mông Cổ đến thời điểm này là tượng Thành Cát Tư Hãn, được hoàn thành vào năm 2008, tại khu tượng đài mang tên Thành Cát Tư Hãn, trên cùng đặt bức tượng Thành Cát Tư Hãn cưỡi trên lưng ngựa chiến bằng thép sáng loáng, cao 40m, nặng 250 tấn.
Bức tượng Thành Cát Tư Hãn
Nguồn: Internet
Thành Cát Tư Hãn: Người "truyền giống" vô địch thế giới
Thành Cát Tư Hãn được cho là có chính sách thu phục và bắt giữ tất cả những cô gái xinh đẹp nhất ở mỗi vùng đất mà ông chiếm đóng - điều khiến ông có tới 16 triệu hậu duệ đang sống ở khắp châu Á.
Thành Cát Tư Hãn là vị tướng lẫy lừng trên các trận chiến và là người cực kì "năng suất" trên mặt trận tình cảm (Ảnh minh họa từ phim).
800 năm trước, một người đàn ông chinh phục 24 triệu km2, chiếm 16% tổng diện tích toàn cầu. Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới có một đế chế thống nhất được lãnh thổ trên một diện tích đất liền lớn tới vậy. Người đó là Thành Cát Tư Hãn.
Uy danh của Thành Cát Tư Hãn truyền lại suốt muôn đời sau và tên tuổi của ông khiến kẻ thù ở xa hàng trăm dặm cũng phải hãi hùng. Ông được suy tôn bằng rất nhiều tên gọi khác nhau như Chúa tể tàn sát, Người trừng phạt của Chúa, Chiến binh hoàn hảo. Tuy nhiên, Thành Cát Tư Hãn vẫn là tên gọi phổ biến nhất.
Các bằng chứng khoa học gần đây cho thấy không chỉ là một người chỉ huy kiệt xuất trên mọi chiến trường, Thành Cát Tư Hãn cũng là một “chiến binh năng suất” trên mặt trận tình cảm. Ông được cho là cha đẻ của hàng vạn đứa trẻ.
Ít nhất 16 triệu người châu Á có mang gene của Thành Cát Tư Hãn.
Những nghiên cứu trước đây, chẳng hạn cuốn “Thành Cát Tư Hãn: Hoàng đế của muôn dân” từ năm 1927 vốn được đánh giá rất cao của học giả Harold Lamb, thường không đề cập đến khía cạnh lý thú này. Một số nghiên cứu gần đây đã tiết lộ Thành Cát Tư Hãn chính là một trong những người cha “năng suất” nhất thế giới khi đã trực tiếp góp sức cho ra đời hàng ngàn đứa trẻ ở nhiều vùng đất đi qua.
Sau khi nghiên cứu mẫu gene của 16 dân tộc ở châu Á, chương trình nghiên cứu gene của ĐH Leicester (Anh) tin rằng, có tới 16 triệu hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn còn sống tới ngày nay. Điều này đồng nghĩa ông đã phải “gây giống” cho hàng ngàn phụ nữ.
Theo một số tư liệu, Thành Cát Tư Hãn có một chính sách rất đặc biệt: thu phục và bắt giữ tất cả những cô gái xinh đẹp nhất ở mỗi vùng đất mà ông chiếm đóng. Với mỗi lần hành quân trở về, Thành Cát Tư Hãn cùng các tướng tá khác ngồi trong lều, ăn một mâm thịt ngựa ú ụ và xem mặt những cô gái tù binh.
Thành Cát Tư Hãn và 11 bà vợ cùng các con.
Thành Cát Tư Hãn được chọn lựa mỹ nữ trước tiên và tiêu chí hàng đầu của ông là mũi nhỏ, hông trái lê, tóc dài như suối, môi đỏ như hoa hồng và giọng nói trong trẻo như tiếng chim ca. Ông có thang đo của riêng mình và nếu cô nào không đạt yêu cầu sẽ bị đẩy xuống cho binh sĩ cấp dưới.
Một lần nọ, một tướng của Thành Cát Tư Hãn tranh cãi với minh chủ của mình ở đời điều gì là thú vị nhất. Đại đa số người có mặt trong lều cho rằng thú nuôi chim ưng là tuyệt vời nhất. Cần biết rằng Thành Cát Tư Hãn sở hữu tới 800 con chim ưng các loại.
Nhưng Thành Cát Tư Hãn đứng lên và dõng dạc tuyên bố: “Thú vui lớn nhất đời ta là chinh phục quân thù, đuổi chúng chạy bán sống bán chết, cướp hết tài sản, xem chúng khóc lóc xin tha mạng, cưỡi ngựa của chúng và véo mông những bà vợ, cô gái xinh đẹp” - theo tác giả Christopher Hudson từ báo Daily Mail.
Người vợ đầu tiên của Thành Cát Tư Hãn là Bột Nhi Thiếp (Ảnh minh họa từ phim).
Dù vậy nhiều nhà di truyền cho rằng con số 16 triệu người sống trải dài từ Trung Quốc tới Trung Đông có chung gene với Thành Cát Tư Hãn là điều không thể. Dù ông có thể “năng suất” nhưng con số này là quá lớn với một người bình thường. Nhiều sử gia thì cho rằng con số 16 triệu là chính xác với phạm vi ảnh hưởng của Thành Cát Tư Hãn trong thế kỷ 13. Cần nhớ rằng ông đã lãnh đạo đội quân Mông Cổ thiện chiến tới những vùng xa xôi nhất của châu Âu, giết hại quân thù và bắt cóc rất nhiều phụ nữ đẹp.
Thành tích này của ông chỉ diễn ra trong 20 năm ngắn ngủi. Khi ông chết vào năm 1227, Thành Cát Tư Hãn làm chủ vùng đất gấp 2 lần đế chế La Mã và khiến lịch sử thế giới thay đổi vĩnh viễn.
Truật Xích, con cả của Thành Cát Tư Hãn, có tới 40 người con.
“Việc tấn công một vùng lãnh thổ của kẻ địch chỉ bắt đầu khi Thành Cát Tư Hãn cho phép”, sử gia người Nga George Vernadsky nói. “Khi trận chiến bắt đầu, chỉ huy và binh sĩ có quyền bình đẳng ngang nhau. Tuy nhiên, gái đẹp bắt buộc phải trao cho Thành Cát Tư Hãn”.
Thành Cát Tư Hãn có thú vui ngủ cùng vợ hoặc con gái của thủ lĩnh đối phương. Nhiều đối phương cho rằng Thành Cát Tư Hãn có năng lực sinh lý vượt trội vì ông “luyện tập” hằng đêm.
“Đây là ví dụ điển hình cho thấy văn hóa đóng vai trò rất quan trọng trong khác biệt gene và sự đa dạng các chủng tộc người”, nhà gene học Spencer Wells, một trong 23 tác giả nghiên cứu về Thành Cát Tư Hãn, nói. “Lần đầu tiên xuất hiện một trường hợp hệ gene người trùng nhau và trải dài tới vậy”.
Hốt Tất Liệt, cháu của Thành Cát Tư Hãn cũng rất "năng suất" với 22 con đẻ và 30 con "rơi vãi" (ảnh minh họa)
Trong bài báo khoa học đăng tải trên American Journal of Human Genetics, các nhà khoa học tin rằng chỉ có Thành Cát Tư Hãn mới đủ khả năng làm được việc này dựa trên bối cảnh xã hội thế kỷ 13. Đế chế của Thành Cát Tư Hãn trước khi ông qua đời trải suốt châu Á, từ Thái Bình Dương tới biển Caspian. Những người con của Thành Cát Tư Hãn cũng được ghi nhận có năng lực đàn ông vượt trội.
Truật Xích, con cả của Thành Cát Tư Hãn có tới 40 người con. Cháu của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt, người thành lập ra triều Nguyên ở Trung Quốc có 22 con đẻ và được cho là còn 30 con “rơi vãi” bên ngoài. Thành Cát Tư Hãn cũng có tới 11 bà vợ. Dù kết quả nghiên cứu có là thế nào thì một điều không thể phủ nhận là Thành Cát Tư Hãn đã làm thay đổi lịch sử thế giới quá nhiều.
_______________
Khi sinh thời, Thành Cát Tư Hãn là một người chỉ huy lỗi lạc đánh đâu thắng đó, được muôn vạn người tôn vinh nhưng lúc băng hà, ông để lại cho thế gian quá nhiều câu hỏi chưa có lời đáp. Mời bạn đọc bài tiếp theo xuất bản sáng sớm 18.10 để hiểu thêm về sự qua đời đầy bí ẩn và ngôi mộ của Thành Cát Tư Hãn.
(ảnh minh họa)
Lý do 800 năm không tìm thấy mộ Thành Cát Tư Hãn
Thành Cát Tư Hãn là một bậc thầy trong việc đánh lừa và ông đã “gạt” được rất nhiều người thông minh, theo nhà thám hiểm người Mỹ Alan Nichols.
Alan Nichols, nhà thám hiểm người Mỹ 86 tuổi, khẳng định tất cả các cuộc tìm kiếm mộ Thành Cát Tư Hãn đều sai vị trí
Các nhà khảo cổ, các thợ săn kho báu, các nhà khoa học, và các nhà thám hiểm đã tìm kiếm ngôi mộ của hoàng đế Mông Cổ thế kỷ thứ 13 Thành Cát Tư Hãn trong gần 800 năm qua. Nhiều người đã cống hiến cuộc đời mình để lùng sục, nhưng vẫn chưa có ai tìm thấy ông. Vấn đề là, họ đều đang tìm kiếm sai địa điểm, theo Alan Nichols, một nhà thám hiểm người Mỹ 86 tuổi.
Ông Nichols, cựu chủ tịch của câu lạc bộ thám hiểm tại New York, là một chuyên gia về những ngọn núi thiêng và là người đầu tiên đạp xe trên toàn bộ Con đường Tơ lụa từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Trung Quốc.
Hầu hết những nỗ lực trước đó nhằm tìm nơi an nghỉ của Thành Cát Tư Hãn, người sáng lập ra đế chế Mông Cổ, đều tập trung vào Burkhan Khaldun, một ngọn núi thiêng ở tỉnh Khentii phía đông bắc Mông Cổ. Được biết Thành Cát Tư Hãn sinh ra ở gần ngọn núi và đây là nơi ẩn náu tinh thần của ông.
Ông Nichols, cựu chủ tịch của câu lạc bộ thám hiểm tại New York, đã tìm kiếm mộ Thành Cát Tư Hãn trong 10 năm qua
"Đó là nơi mà tất cả những người hiện đại đang tìm kiếm", Nichols nói. "nhà phiêu lưu của National Geographic Albert Lin đang ở đó, nhà khảo cổ học Kravitz ở đó, những người Nhật và rất nhiều người khác đang ở đó. Họ đều đã nhầm". Nichols tự tin là ông đã phát hiện ra địa điểm chôn cất Thành Cát Tư Hãn, nơi ông gọi là "núi X" vì lý do bảo mật. "Lúc này, tất cả những gì tôi có thể nói là nó ở đâu đó trong lịch sử đế chế Mông Cổ", nhà thám hiểm 86 tuổi nói.
Khi trả lời phỏng vấn với Bưu điện Hoa Nam buổi sáng, Nichols đang chuẩn bị bắt đầu một chuyến thám hiểm để xác định vị trí ngôi mộ, cùng đội ngũ các chuyên gia và các thiết bị kiểm tra dưới đất mới nhất để chứng minh điều đó. Ông đã nghiên cứu và chuẩn bị cho chuyến đi này trong 10 năm qua, và giả định của ông dựa trên các tiêu chí cần thiết của riêng ông trong việc định vị địa điểm.
Rất nhiều người nói rằng họ đã tìm thấy địa điểm chôn cất Thành Cát Tư Hãn, nhưng chưa ai chứng minh được điều đó
Một trong những lý do khiến ông tin rằng ngôi mộ không nằm trong dãy núi Khentii là vì Thành Cát Tư Hãn là một bậc thầy đánh lừa.
Theo Jack Weatherford, tác giả cuốn sách “Thành Cát Tư Hãn và việc hình thành thế giới hiện đại” (2004), một trong những chiến lược chiến tranh thành công nhất của ông là "Cuộc chiến của những con chó”. Theo đó, quân đội của ông sẽ đánh lừa kẻ thù, khiến chúng tưởng rằng họ đã rút lui. Sau đó quân đội sẽ tấn công bất ngờ khi địch đã mệt mỏi, yếu và phân tán. Nichols nói: "Ông ấy là một thiên tài đánh lừa, bạn không nghĩ rằng ông ấy sẽ sử dụng điều đó sao? Và vì ông ấy rất tuyệt vời, ông đã “gạt” được tất cả những người thông minh".
"Ngôi mộ không thể ở Khentii vì Thành Cát Tư Hãn và gia đình của ông đã nói rất nhiều về việc đưa một chiếc quan tài lên đó", Nichols nói. "Đó là nơi đầu tiên mà tất cả mọi người sẽ nghĩ đến."
Dãy núi Khentii, nơi nhiều cuộc tìm kiếm đang được diễn ra
Nichols đã đến địa điểm tìm kiếm tiềm năng của ông được 3 lần trước đó và đã phát hiện ra những điều dị thường. Lần này ông quay trở lại với các thiết bị mới nhất để lùng sục ngôi mộ. Trong số các bằng chứng mà ông đã tìm thấy có một quan tài bằng bạc, ngựa, xương, vàng và bạc, vũ khí và các máy móc thiết bị vây hãm. "Có thể tôi sai, có thể tôi sẽ chỉ tìm thấy xương cừu.
“Tôi không bị điên, và điều này có thể là một thất bại. Bạn luôn luôn phải đối mặt với khả năng đó. Nhưng nếu tôi không tìm thấy ngôi mộ, hy vọng ai đó sẽ tìm thấy nó trong suốt cuộc đời của tôi, hoặc họ sẽ chẳng tìm thấy nổi. Thành Cát Tư Hãn quả là một người sáng tạo”.
Nichols đã đến địa điểm tìm kiếm tiềm năng của ông được 3 lần trước đó và đã phát hiện ra những điều dị thường
Có rất nhiều truyền thuyết khác nhau xung quanh việc chôn cất Thành Cát Tư Hãn, người qua đời năm 1227 ở Tây Hạ (tây bắc Trung Quốc ngày nay) trong những năm 60 tuổi. Có những câu chuyện khác nhau về việc ông qua đời như thế nào. Một số nói rằng ông đã bị giết khi ra trận, những người khác nghi ngờ ông qua đời vì bị thương.
Theo một câu chuyện được lan truyền phổ biến, nhóm lính hộ tống thi thể của Thành Cát Tư Hãn trở về Mông Cổ để chôn cất bí mật đã giết chết tất cả mọi người và động vật mà họ gặp trên đường. 800 kỵ binh sau đó đã chà đạp khu vực để làm mờ vị trí của nó. Cuối cùng họ đều bị giết nên đã không thể tiết lộ vị trí của ngôi mộ. (ST)
Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %17 %960 %2017 %18:%03
Mới nhất từ Nguyễn Ngọc Quang
- Vén Màn Cửa Sổ Tâm Hồn (Tôi Đi Mổ Cataract) - Gió Đồng Nội
- “tình yêu không biên giới chủng tộc” một chuyện tình thật đẹp “hữu nghị Nhật – Trung”
- Chút Tâm Tình Với Pulau Bidong - Nguyễn Văn Tới
- Who is Mark Pieloch? What is the profession of Mark Pieloch?
- Những Chữ KHÓ Trong Cuộc Đời Chúng Ta