Tô Thùy Yên - Một đời làm thơ, một đời yêu thương, một thời tù ngục

Tô Thùy Yên - Một đời làm thơ,

một đời yêu thương, một thời tù ngục

Tô Thùy Yên - Một đời làm thơ, một đời yêu thương, một thời tù ngục

Tiếng cười của Tô Thùy Yên đêm ấy và hình ảnh anh chạy lúp xúp trong mưa tôi còn nhớ rõ. Tiếng cười sao mà hồn nhiên ngây thơ so với hình ảnh Tô Thùy Yên oằn mình dưới gánh khoai mì hôm nay thật là một sự đối nghịch quá đau lòng.

LTS: Nhà thơ Tô Thùy Yên, tác giả của những bài thơ nổi tiếng như Chiều trên phá Tam Giang, Trường Sa hành, Cánh đồng con ngựa chuyến tàu... vừa qua đời ngày 21.5.2019 (theo giờ Mỹ) tại thành phố, Houston, tiểu bang Texas, Mỹ, hưởng thọ 81 tuổi. Sự ra đi của ông đã để lại nhiều thương tiếc cho giới văn chương, người yêu thơ trong nước và hải ngoại.

Tô Thùy Yên là một tên tuổi nổi bật của thi ca miền Nam trước năm 1975. Thơ của Tô Thùy Yên được đăng trên báo văn nghệ ở Sài Gòn từ năm ông 16 tuổi. Năm 1956, ông tham gia nhóm Sáng Tạo, một văn đàn nổi tiếng, khởi đầu cho phong trào "Thơ tự do" ở miền Nam vào thập niên 1960.

Bài viết về nhà thơ Tô Thùy Yên dưới đây được được trích từ tập di cảo Mặc khách Sài Gòn của cố nhà thơ Tô Kiều Ngân. Hình ảnh nhà thơ Tô Thùy Yên được Tô Kiều Ngân khắc họa bằng những dòng văn đầy

cảm xúc.

Chân dung nhà thơ Tô Thùy Yên - Ảnh: Gia đình cung cấp

Cánh đồng con ngựa chuyến tàu

Trại của tôi cách xa trại Tô Thùy Yên nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau trong những lần đi lao động, đẵn cây đốn nứa. Có lần gặp chỉ đủ để Yên dúi vào tay tôi một gói thuốc lào rồi sau đó là mỗi người một ngả.

Có lần đứng trong sân trại nhìn qua hàng rào kẽm gai tôi thấy Tô Thùy Yên đang gánh một gánh khoai mì đi qua. Anh bước đi có vẻ nặng nhọc. Vai bị gánh khoai mì trĩu xuống, lưng cong như lưng tôm, mồ hôi chảy có giọt. Tôi bỗng xót xa nhớ đến đêm nào cùng anh và Cung Tiến còn đi “tăng hai” ở Sài Gòn…

Bữa ấy Trần Lê Nguyễn có bày tiệc nhậu. Có mặt Mai Thảo, Thanh Nam, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Tô Thùy Yên và tôi. Tiệc tàn, mọi người lục tục đứng lên. Trịnh Công Sơn sau xỉn vào nôn mửa trong phòng tắm. Trần Lê Nguyễn sau đó cũng đã ra về. Còn lại Cung Tiến và Tô Thùy Yên chẳng chịu về, nhất định đòi đi “tăng hai”. Đêm đã hầu khuya, chiều bạn tôi đem hai cậu lên xe hơi chở xuống Phú Nhuận.

Thủ bút nhà nhà thơ Tô Thùy Yên

Trời mưa lất phất. Con đường vào hẻm sũng nước, loáng loáng ánh đèn. Tô Thùy Yên xuống xe, hai tay vén ống quần chạy lúp xúp trên đường mưa, vừa chạy vừa cười khanh khách. Cung Tiến thì nhà nào cũng đập cửa rầm rầm báo hại bọn thanh niên trong xóm nhào ra, xô ngã Cung Tiến nằm lăn ra đất. Cơ khổ chàng nhạc sĩ tác giả những bản nhạc tuyệt vời: Hoài Cảm, Nguyệt Cầm, Hương Xưa tay chân vung vít, miệng la bải hoải: “Sao lại đánh tôi… sao lại đánh tôi…” Còn tỉnh nên tôi xin lỗi bà con trong xóm và lại đem hai lãng tử lên xe, chạy về gần thấu nhà mà còn chưa chịu xuống, còn đòi “đi nữa”.

Tiếng cười của Tô Thùy Yên đêm ấy và hình ảnh anh chạy lúp xúp trong mưa tôi còn nhớ rõ. Tiếng cười sao mà hồn nhiên ngây thơ so với hình ảnh Tô Thùy Yên oằn mình dưới gánh khoai mì hôm nay thật là một sự đối nghịch quá đau lòng.

Bút tích của nhà thơ Tô Kiều Ngân

Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, lúc bấy giờ là một quận ngoại thành Sài Gòn. Anh học đến đại học, bị động viên đi học trường sĩ quan Thủ Đức, ra thiếu úy rồi được bổ về một đơn vị tác chiến thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sợ anh chết uổng, anh em vận động bốc thẳng anh từ Vùng Bốn về ngay trung ương để làm văn nghệ.

Cùng Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Ngọc Dũng… Tô Thùy Yên là nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, anh thường đăng thơ trong mục Thơ tự do của tạp chí Sáng Tạo, nơi được coi như đại diện của phong trào thơ tự do miền Nam thời 50-60.

Tô Thùy Yên và ca khúc nổi tiếng Chiều trên phá Tam Giang do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ từ một bài thơ cùng tên của ông

Sau 30 tháng Tư,Tô Thùy Yên đi học tập cải tạo 10 năm. Được tha về rồi bị bắt lại, tính ra 13 năm tất cả. Ba năm sau, có lần anh bị biệt giam 7 tháng sau khi cắt mạch máu định quyên sinh. Cuối cùng, anh được cùng vợ là cô giáo Huỳnh Diệu Bích và gia đình sang định cư ở hải ngoại theo diện H.O.

Tô Thùy Yên được nhiều người biết đến nhờ bài thơ “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” đăng trên tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, năm 1956:

Trên cánh đồng hoang thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu…

Thi sĩ Tô Thùy Yên qua nét nhìn của Họa sĩ Đinh Cường

Cả bài thơ như những thước phim vụt qua. Hình ảnh đuổi bắt nhau. Cây cối, lũng đồi quay vòng đến chóng mặt. Cuối cùng con ngựa thở dốc, lăn kềnh ra giữa thảo nguyên “Chấm giữa nền nhung một vết nâu”. Hình ảnh như chụp từ trên cao xuống - cánh đồng thì mông mênh như vô tận, mướt cỏ nhung xanh còn con ngựa thì chỉ còn lại một vết nhỏ. Nó chết mà không biết vì sao mà chết. Cũng không biết suốt đời mình lao đầu phi về phía trước để làm chi? Những câu hỏi đó cũng đặt ra cho con gười, những tra hỏi không có lời giải đáp. Xưa nay trời đất vốn vô ngôn.

Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu
Ngựa thở hào hển, thở hào hển
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau

Tô Thùy Yên thật trẻ mà thơ lại thật già. Mỗi câu viết ra dường như chưa nói hết mà sau đó còn một chuỗi ý nghĩ để cho người đọc suy cảm thêm ra. Ý tại ngôn ngoại. Luôn bị cô đơn vậy hãm, bị đọa đày thân xác, dày xéo tâm hồn nhưng Tô Thùy Yên luôn chịu đựng, tìm chỗ dựa tâm linh, đề cao cái tâm độ lượng để vượt qua gai góc, khổ đau. Anh vẫn luôn mơ ước:

Bao giờ ta trở về dương thế,
Sống đáng vinh danh lại kiếp người,
Để thấy đường đi muôn lối rộng
Dập dìu những chéo áo reo vui?

Thơ Tô Thùy Yên đăng rải rác trên các báo tạp chí văn học, mãi đến năm 1995 anh mới xuất bản tập “Thơ tuyển”, có tất cả 37 bài, có nhiều bài rất dài, đó là tác phẩm chọn lọc của Tô Thùy Yên, một đời làm thơ, một đời yêu thương, một thời tù ngục.

Cánh đồng con ngựa chuyến tàu

Trên cánh đồng hoang thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a ! cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn, mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

1956

Tô Thùy Yên

Tô Kiều Ngân

Tô Thùy Yên, cánh chim còn để vệt

Tô Thùy Yên qua nét vẽ Đinh Cường.

Tô Thùy Yên qua nét vẽ Đinh Cường.

 

Đinh Yên Thảo

Riêng cho VOA

"... Tôi được gặp nhà thơ Tô Thùy Yên một lần tại Houston, hôm nhà thơ Phan Xuân Sinh ra mắt cuốn sách Sống Với Thời Quá Vãng. Buổi trò chuyện tại nhà anh Sinh đến nửa đêm, trong tiếng đàn thùng của anh Ngu Yên, giọng ngâm không dứt của anh Trần Khánh Hoà, liên khúc Trần Thiện Thanh do anh Đỗ Xuân Quang từ Atlanta bắt nhịp. Anh Trần Hoài Thư, Trần Phù Thế, Lương Thư Trung, Hoàng Định Nam, Trà Nguyễn… có cả, mỗi người mỗi vẻ ngây thơ trong đôi mắt già nua bất luận. Một đêm thơ nhạc sẽ còn hoài trong ký ức những người dính líu tới con chữ ở hải ngoại.

Ngoài hiên, nhà thơ Tô Thùy Yên trò chuyện cùng tôi và Đinh Yên Thảo như những người quen gặp lại. Dù chỉ gặp lần đầu, trong chữ “Duyên” cửa Phật mà thành lấn cấn tới hôm nay. Ngồi đọc lại bài thơ “Ta về” trong tiết tháng Tư, nơi sân sau nhà vắng. Chút gió Xuân nồng nàn nhà bên cắt cỏ. Giấc mơ chiều, người nông dân chỉ mong được "về quê vỡ đất, tháng tư đi tậu trâu bò, để ta tiếp tục làm mùa tháng năm"…". (trích từ bài viết "Ta Về" của tác giả Phan)

Đó là đoản văn của anh bạn Phan (Vỉa Hè) của tôi viết ngay sau lần đầu gặp được nhà thơ Tô Thùy Yên chừng đâu 10 năm trước. Còn tôi thì trước đó gặp ông đã vài lần, tại Dallas và cả Houston, Texas. Lần đầu tại đám cưới thứ nam của nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp cũng gần 20 năm trước, có đông đúc văn nghệ sĩ về tham dự khá chân tình. Vừa tiệc đám cưới lại xem như cuộc họp mặt các văn nghệ sĩ bay về bởi sự quý mến nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. Tôi dẫn chương trình nên có khách quen đến đề nghị rằng, bên dưới nghe có nhà thơ Tô Thùy Yên hiện diện, hãy mời ông lên nói vài điều cho mọi người biết mặt. Ông lên sân khấu theo lời mời. Nhưng nói rất ít, hầu như chỉ chào hơn là nói điều gì đó, tôi còn nhớ vậy. Cả vài lần sau gặp lại, ông cũng chỉ là người trầm ngâm, nghe nhiều hơn nói. Chỉ có lần như nhà báo Phan viết ở trên, không hiểu tại sao ông tỏ ra vui vẻ, trò chuyện rất nhiều. Giữa buổi tiệc, tôi hỏi ông, "Anh kể về bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang đã viết như thế nào?". Như nhiều bài thơ khác của ông, đúng hơn là những trường thi hàng trăm câu của ông, "Chiều trên Phá Tam Giang" là một trong những trường thi mang tầm vóc lớn lao về cuộc chiến khốc liệt trên quê hương Việt Nam. Ông cật vấn lịch sử và chiến tranh bằng cái nhìn nhân bản trong tình dân tộc, lồng thêm thân phận con người và tình yêu tuổi trẻ giữa chiến tranh.

Ông kể đó là một ngày của mùa Hè đỏ lửa năm 1972, ông bay theo tướng Bùi Thế Lân, vị Tư Lịnh Thuỷ Quân Lục Chiến để thị sát chiến trường, trong vai trò một ký giả báo chí. Từ trực thăng nhìn xuống phá Tam Giang, hình ảnh một vị Thiếu Tá đứng giữa gió lộng, mênh mông nước trời phía dưới đã tạo cho ông một cảm xúc mãnh liệt về thân thận nhỏ bé của con người trong chiến tranh, trong không gian điêu tàn của vòng vây tử thần . Thế rồi bài thơ ra đời. Tôi đọc lại, quả thật là vậy.

"Chiếc trực thăng bay là mặt nước,

Như cơn mộng nhanh,

Phá Tam Giang, Phá Tam Giang,

Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát,

Cát hôn mê, nước miệt mài trôi,

Ngó xuống cảm thương người lỡ bước

Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi..." (*)

Ông tiếp, ông muốn viết bài trường thi làm ba phần, về người lính trẻ Việt Nam Cộng Hòa, về người chiến binh Bắc Việt và sự cứu rỗi của tình yêu trước sự mong manh của phận người trong thời chiến. Thế là bài thơ ra đời như chúng ta đã đọc. Là người lính, một Thiếu Tá Tâm Lý Chiến, nhưng cũng là người nghệ sĩ, ông nhìn cuộc chiến đang diễn ra như một cuộc chiến ủy nhiệm huynh đệ tương tàn mà cả hai bên đều là nạn nhân của lịch sử. Cái nhìn cảm thông, độ lượng đến cả kẻ địch quân bị dẫn dụ chuyện "sinh Bắc tử Nam".

"Ta thương ta yếu hèn,

Ta thương ngươi khờ khạo

Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng

Nên cả hai cùng mắc đường lịch sử

Cùng mê sa một con đĩ thập thành

 

Chiều trên Phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận

Chiều trên Phá Tam Giang im lìm âm cảm thông..."

Dường như đó là một đêm mưa. Cả ba chúng tôi ra hiên trước hút thuốc như Phan kể. Ông châm thuốc rồi nở nụ cười khoan thai, quay sang tôi: "Sao em không hỏi về cô gái trong bài thơ?". Tôi cười chống chế, "em muốn nghe về cả bài thơ trước". Ông kể đó là mối tình với một thiếu nữ xinh đẹp, nhà có cửa tiệm trong thương xá Tam Đa. Ông đem cuộc tình của mình viết thành cuộc tình của người lính sống chết nơi tuyến đầu, nhớ về người yêu như sự một hy vọng và cứu rỗi, tìm sự bình an ở một nơi xa xôi, trong khi người yêu là cô sinh viên bé nhỏ tuổi đôi mươi luôn canh cánh nỗi lo sợ ly biệt, mất mát.

“Chiều trên phá Tam Giang

Anh sực nhớ em

Nhớ bất tận.

Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi,

Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích

Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng,

Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại…”



“Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh,
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nỗi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới…”

Bài thơ Chiều trên Phá Tam Giang cỉa Tô Thùy Yên được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc

Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã chọn và viết lại thành ca khúc "Chiều Trên Phá Tam Giang" cho đoạn thơ tình yêu này, nhưng ông bảo đó không phải tứ thơ ông hài lòng nhất. Tôi bảo, ít ra nó đã mang một phần bài thơ đến với đại chúng. Ông gật đầu. Tôi không rõ ông gật đầu đồng ý hay về điều gì đó đang suy tưởng trong đầu.

Có lẽ tôi không phải là người đầu tiên hỏi ông về bài thơ và cũng có thể ông chẳng phải mẫu người dễ dàng kể lại câu chuyện tương tự ở mọi nơi. Tôi không chắc. Nhưng tôi nghĩ một con người lặng lẽ trong lời nói và ngạo mạn trong tư tưởng như ông có lẽ không cần những lý giải, phụ chú khi trở về với nơi bình yên khởi đầu. Bởi ông từng bảo rằng, làm người sao như cánh chim bay qua bầu trời, chẳng để lại dấu vết gì. Đó là cảm thức đời sống của riêng ông. Còn với chúng ta, có là cánh chim bay qua thì ông vẫn để lại những vệt dài hơn những bài thơ, bản nhạc của mình. Bởi chúng là những chứng nhân bi hùng và ngậm ngùi của một giai đoạn lịch sử dân tộc.

(22/05/2019)

Dallas, Texas

(*) Trích từ bài thơ "Chiều Trên Phá Tam Giang"

Kim Phượng st

back to top