Dạ khúc Serenade bất hủ của NS thiên tài Franz Schubert
Thưởng thức dạ khúc Serenade bất hủ
của nhạc sĩ thiên tài Franz Schubert
▂ ▃ ▅ ▆ █ █ ▆ ▅ ▃ ▂
Franz Schubert chỉ sống một cuộc đời rất ngắn ngủi 31 năm nhưng đã kịp để lại cho đời một khối lượng kiệt tác đồ sộ ở nhiều thể loại. Và trung tâm của khối kiệt tác ấy, nổi bật nhất chính là bản Serenade, mà người ta đã quen gọi liền với tên ông: Serenade Schubert…
Từ một câu chuyện tình rất đỗi trớ trêu của Franz Schubert…tới bài Serenade bất hủ
Bài Serenade bất hủ này là Franz Schubert sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình.
Những bài nhạc lãng mạn này gọi là “serenade”. Serenade thời Trung cổ và Phục Hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được ( guitar, mandolin… ).
Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
Lời bài hát vô cùng da diết như cõi lòng của người nhạc sĩ …
Lời Việt dịch từ nguyên gốc tiếng Đức:
Đêm khuya vẳng tiếng anh hát thầm thì, dưới chòm cây tĩnh lặng. Đến đây hỡi người! Gió đùa lá xào xạc dưới trăng; đừng sợ chi kẻ phản trắc rình rập đâu đó. Em nghe chăng tiếng họa mi vang rền. Chúng gọi em đấy, chúng chuyển lời của anh cho em, vì chúng hiểu nỗi khắc khoải con tim, nỗi đau tình si. Giọng hót vang của chúng làm mỗi trái tim nồng nàn bớt thổn thức. Người yêu hỡi, em hãy để cho tiếng chim ca trong tim… Anh đang run rẩy, bồi hồi chờ em nơi đây. Đến đây chúc mừng anh!
Chim sơn ca chỉ hót ban ngày, chỉ họa mi mới hót ban đêm, sơn ca hót vang lừng khi đang bay, họa mi hót vang cả cánh rừng.
Lời bài hát tiếng Việt:
(Nhạc sĩ Phạm Duy dịch)
Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh vắng. Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân…
Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng… Nơi xa, réo rắt câu tình ca
Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì… Chim còn ríu rít đê mê
Như lời anh nói thầm thì.
Và bên ấy… Vang trong đêm vọng về, bao lời đắm đuối say mê
Của người tha thiết tình si…
Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang
Thì xin làn gió nhắn gửi tâm sự đến nơi xa. Em hay chăng tình ta?
Và khi vẳng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang
Đấy lời anh tiếng than van.Đừng e ấp, nói với nhau bao lời… Tim nồng chan chứa hân hoan
Yêu người mãi với thời gian
Lòng này muôn muôn kiếp sẽ yêu người… Thề nguyền mãi không rời….
Nhé… khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời…
Nơi này anh vẫn mong chờ… Mong chờ em mãi, người ơi!
Bình luận của giới nghệ thuật về Serenade Schubert: Một bức tranh toàn bích
“Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản Dạ Khúc Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài nhạc hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.
Nhưng hơn thế, nhạc phẩm “Dạ Khúc” của Schubert là một bức tranh toàn bích, sâu lắng… mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sĩ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ.
Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ…”
Thái Thanh – giọng ca Việt “vượt thời gian”, người thể hiện xuất sắc Serenade Schubert phiên bản Việt
Nhắc tới Thái Thanh là nhắc tới một huyền thoại âm nhạc “tiếng hát khóc, cười, nổi trôi theo mệnh nước”, người được mệnh danh là “tiếng hát vượt thời gian”, “Đại danh ca”, “The ageless golden voice” (Giọng ca vàng không tuổi).
Thái Thanh là trung tâm ở đại gia đình nghệ sĩ lớn gồm nhạc sĩ Phạm Duy, người lấy chị gái của Thái Thanh là ca sĩ Thái Hằng, nhạc sĩ Phạm Đình Chương (anh trai) các con cháu nghệ sĩ như Ý Lan, Mai Hương (con gái), Tuấn Ngọc, Thái Thảo, Thái Hiền, Duy Quang, Khánh Hà (các cháu)…
Trong opera và nhạc cổ điển, nữ cao trữ tình (lirico soprano) được định nghĩa là một loại giọng nữ cao ấm áp, có độ sáng, giàu âm sắc, âm khu trung đầy đặn, bay bổng, mềm mại, thường thể hiện vai những người phụ nữ hiền lành, yếu mềm.
Có hai loại nữ cao trữ tình là full lirico soprano (nữ cao trữ tình đầy đặn) và light lirico soprano (nữ cao trữ tình mảnh).
Đặc trưng của full lirico soprano là âm sắc đầy đặn, có độ dày, khỏe, legato (hát liền note) phát triển với full voice (hát toàn giọng), có khả năng điều chỉnh âm lượng vừa phải trên quãng cao, âm lượng chắc chắn ở những quãng hát dài hơi.
Đặc trưng của light lirico soprano là âm sắc mảnh, sáng, có khả năng chuyển giọng và pha giọng nhanh chóng, thực hiện kĩ thuật hoa mĩ dễ dàng hơn.
Sở hữu chất giọng light lirico soprano tươi sáng, linh hoạt, uyển chuyển, Thái Thanh đã thực hiện và đi đầu ở rất nhiều kĩ thuật khó trong ca hát tân nhạc. Bà là người tiên phong và thành công xuất sắc trong việc kết hợp giữa lối hát bel canto (lối hát giọng đẹp, hát mở của opera Ý) với lối hát truyền thống của dân nhạc (tạm gọi là lối hát đóng).
Hơn nửa thế kỷ cầm ca, Thái Thanh đã để lại một di sản âm nhạc đồ sộ.
Thái Thanh cũng là một trong những ca sĩ đầu tiên và hiếm hoi góp phần công sức lớn lao vào công cuộc hình thành nền tân nhạc Việt Nam, được những đại nhạc sĩ huyền thoại như Văn Cao, Phạm Duy, Phạm Đình Chương yêu mến, xem là “con cưng” để “chọn mặt gửi vàng” thể hiện các tác phẩm nhạc thi bất hủ của họ.
“Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Đổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ.” – Thụy Khuê
“Sau khi nghe nàng hát, có khi chúng ta cảm thấy nơi chính mình một chút bâng khuâng, lúc bấy giờ có lẽ là niềm “nhớ nhung cõi trời” -mà Beaudelaire đã nói- dù sao giọng hát Thái Thanh vẫn không phải là giọng u buồn. Giọng Thái Thanh là một giọng ca hoan lạc, giọng hát của hạnh phúc ca xướng, giọng hát của hạnh phúc nói chung. Hãy nghe nàng vào lúc cao hứng nhất, khi giọng hát của nàng vụt nở như một nụ cười hiền dịu hướng về cõi đời này, hãy chăm chú lắng nghe… Giọng hát Thái Thanh lúc đó qua từng nhịp thơ và từng nhịp nhạc, như chỉ muốn nói với ta có một lời. Lời nói tình yêu” – Georges Etienne Gauthier
Khi Thái Thanh cất giọng hát Serenade Schubert, người nghe có thể cảm nhận được những điều kỳ diệu mà Schubert muốn truyền tải.
Trong lời dịch của mình, nhạc sĩ Phạm Duy đã cố gắng phác thảo tất cả những cung bậc trải nghiệm hết sức tinh tế về cảm xúc mà giai điệu bản Serenade khơi gợi nơi người thính giả. Lời dịch của ông giàu tính thẩm mỹ của cảm nhận âm nhạc, một cảm nhận ông muốn hướng dẫn người thưởng ngoạn cũng cảm nhận như ông.
DẠ KHÚC SERENADE (PHẠM DUY; NHẠC ÁO FRANZ SCHUBERT)
"Khi tôi muốn ca hát về Tình yêu thì Tình yêu lại biến thành đau khổ.
Nhưng khi tôi chỉ muốn hát về Đau khổ thì Đau khổ lại hoá thành Tình yêu"
(Franz Schubert"
Đã bao lần trong đời khi buồn về Tình yêu tôi lại nghe giai điệu Dạ Khúc của Nhạc sĩ Thiên Tài Franz Schubert
Âm hưởng chầm chậm rơi như hoàng hôn buông nhẹ nhàng khi khung trời Paris không xa màn đêm đang dần dần buông xuống và phố lên lên đèn...
Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc ban đêm đến đứng dưới cửa lầu giai nhân trình diễn bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình.
Dạ Khúc là một trong những tác phẩm âm nhạc cổ điển nổi tiếng nhất, được rất nhiều người yêu thích. Khúc nhạc chiều này, với giai điệu mượt mà thể hiện những cảm xúc phong phú. Âm hình chủ đạo của giai điệu gồm hai nhân tố - nhân tố bình ổn, dịu êm với những chùm ba, và nhân tố bước nhảy, như sự phóng khoáng của cảm xúc, làm cho giai điệu thêm nồng nàn, say đắm.
Franz Schubert sáng tác Bài Dạ Khúc bất hủ để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu. Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến.
Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
"Dạ Khúc" nhạc chiều với giai điệu buồn da diết của nhạc sĩ thiên tài người Áo đã khiến cả nhân loại phải thổn thức. Con người bình dị này đã miệt mài sáng tạo trong suốt cuộc đời ngắn ngủi chỉ 31 năm của mình và để lại 10 bản sonate, 20 bản tứ tấu, 10 bản giao hưởng và 5 vở opera cho kho tàng âm nhạc cổ điển thế giới.
Leise flehen meine Lieder
Durch die Nacht zu dir;
In den stillen Hain hernieder,
Liebchen, komm zu mir!
Flüsternd schlanke Wipfel rauschen
In des Mondes Licht;
Des Verräters feindlich Lauschen
Fürchte, Holde, nicht.
Hörst die Nachtigallen schlagen?
Ach! sie flehen dich,
Mit der Töne süßen Klagen
Flehen sie für mich.
Sie verstehn des Busens Sehnen,
Kennen Liebesschmerz,
Rühren mit den Silbertönen
Jedes weiche Herz.
Laß auch dir die Brust bewegen,
Liebchen, höre mich!
Bebend harr' ich dir entgegen!
Komm, beglücke mich!
Tạm dịch:
Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh vắng. Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân...
Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng... Nơi xa, réo rắt câu tình ca
Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì... Chim còn ríu rít đê mê
Như lời anh nói thầm thì
Và bên ấy... Vang trong đêm vọng về, bao lời đắm đuối say mê
Của người tha thiết tình si...
Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang
Thì xin làn gió nhắn gửi tâm sự đến nơi xa. Em hay chăng tình ta?
Và khi vẵng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang
Đấy lời anh tiếng than van.
Đừng e ấp, nói với nhau bao lời... Tim nồng chan chứa hân hoan
Yêu người mãi với thời gian
Lòng này muôn muôn kiếp sẽ yêu người... Thề nguyền mãi không rời....
Nhé... khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời...
Nơi này anh vẫn mong chờ... Mong chờ em mãi, người ơi!
Một nỗi buồn vô cớ bỗng chợt xâm chiếm tâm hồn kẻ lãng tử lãng du suốt đời trong những miền đất lạ hoang tưởng
Từng nốt du dương day dứt réo rắt dương cầm hay vĩ cầm thôi miên trí tưởng đưa tôi về hoàng hôn xa vời vợi từ tuổi ấu thơ cho đến đêm nay nghe Dạ Khúc này:
Chiều tàn quê cũ phong phanh
Khói sương nhân ảo sóng chành sầu dâng
Trong âm nhạc cổ điển, Serenade - Dạ khúc được biết đến như sáng tác hay hình thức biểu diễn. Dạ khúc là những bản nhạc được trình diễn trong buổi chiều được cất lên giai điệu bên khung cửa hẹp dành riêng cho người tình hoặc bạn thân tình.
Bản Dạ Khúc ra đời vào một ngày Chủ nhật năm 1826. Khi ấy Schubert từ Potzleinsdorf trở về thành phố cu. Đi qua Wahring, Schubert thấy nguời bạn Tieze đang ngồi bên chiếc bàn trong khu vuờn. Truớc mặt Tieze là một cuốn sách và Schubert lật luớt dừng trang bài tho của Ludwig Rellstab, nói nhu reo lên:
"Một giai điệu tuyệt vời vừa vang lên trong đầu tôi, giá mà tôi có giấy chép nhạc bây giờ".
Ông Doppler liền vẽ một vài khuông nhạc trên mặt sau tờ hóa đon và trong sự huyên náo tại quán ăn ngày Chủ nhật Schubert đa viết nên bản Dạ Khúc bất hủ của mình.
Dạ Khúc Serenade của Franz Schubert được viết vào năm 1826 đi sâu lắng đọng mãnh liệt da diết trong lòng người yêu âm nhạc cổ điển đã trở thành bất tử bên cạnh những Dạ Khúc Serenade của nhạc sĩ sáng tác khác về thể loại Dạ Khúc như Tchaikovsky, Richard Strauss , Arnold Schoenberg ..
F.Schubert là nhạc sĩ người Áo, ông chỉ mất sau Beethoven một năm vào năm 1828 nhưng hai người lại thuộc hai thế hệ khác nhau. Nếu Beethoven là nhạc sĩ tiêu biểu của hào khí khai sáng, đấu tranh cho Tự Do - Bình Đẳng và Bác Ái thì Schubert lại tiêu biểu cho thế hệ nhạc sĩ của thời kỳ mà nghệ thuật đi sâu vào uẩn khúc phức tạp của Tâm hồn con người.
Tuy chỉ sống tới 31 tuổi - Schubert như một ánh sao băng - xuất hiện trong trong khung trời Kinh thành Âm nhạc Vienne một thời gian ngắn ngủi nhưng đã để lại trên bầu trời âm nhạc những hào quang chói lọi.
Schubert được xem là Ánh Bình minh của Chủ nghĩa Lãng mạn. Âm nhạc của ông như một dòng suối mát, một khoảng trời dịu êm, sinh động, rạo rực và cởi mở. Cũng vì thế mà trong một thời gian dài, âm nhạc của Schubert được xem là biểu tượng của những xúc cảm chân thành và giản dị.
Schubertkhông có nhiều bản giao hưởng nổi tiếng như Beethoven, Mozart, nhưng Bản Giao Hưởng Dang Dở của Schubert đã mở ra kỷ nguyên cho nhạc giao hưởng trong chủ nghĩa lãng mạn.
Xuất phát từ quan điểm nghệ thuật đi sâu vào tâm hồn đầy phức tạp của con người, ông đã viết hơn 600 ca khúc. Đó là những tâm trạng xáo động, muôn màu muôn vẻ. Schubert là người đã đưa giá trị của ca khúc lên ngang tầm với những tác phẩm giao hưởng. Ca khúc của Schubert với phần đệm piano rất độc đáo, gắn bó khăng khít với giai điệu như một bộ phận không thể tách rời của tác phẩm.
Schubert hồi còn sống cũng nghèo rớt mùng tơi, không có các bạn của ông giúp tiền sống thì cũng chẳng có gì mà sống... Franz Schubert suốt cả đời phải đối mặt với đói rét bệnh tật và cô đơn. Trong 19 năm sáng tác, người nhạc sĩ đoản mệnh này để lại cho đời gần một ngàn tuyệt tác: những hạt kim cương sáng ngời được chắt lọc vội vàng từ cuộc đời thống khổ Schubert quan niệm nhạc và thơ phải là một đôi bạn đồng hành. Cả cuộc đời, Schubert trăn trở với Dòng Thời gian và đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt gần một ngàn tuyệt phẩm của Schubert
Âm nhạc Schubert như chiếc đồng hồ cát, đều đặn nhả ra nhỏ từng hạt, để rồi một ngày kia, theo chânSchubert xuống tận đáy mồ. Schubert quá nghèo do đó hàng ngày ông thường đến nhà bạn mượn piano để sáng tác.
Cả chuyện tình yêu cũng không may mắn nữa... Yêu cô ca sĩ - cô này cũng yêu Schubert - đến khi Schubert muốn tỏ tình bằng cách tặng cô này bài hát mới sáng tác của mình nhưng vì nhút nhát quá nên nhờ anh bạn hát hộ, mình chỉ ngồi đánh đàn thôi, thế là cuối cùng cô ấy hiểu nhầm, tưởng anh bạn tỏ tình - anh bạn này cũng yêu cô ấy, nhưng hai người chỉ là bạn thân thôi, vì cô ấy yêu Schubert mà - và chạy ra ôm chầm lấy anh bạn nghĩa là nhận lời với... anh bạn.
Về tính tình, Franz Schubert ít nói, rất khiêm tốn, không thích biểu diễn trước công chúng, không thích phô trương. Schubert chỉ thích chơi đàn cho những người bạn nghệ sĩ của mình. Schubert dửng dưng trước những lời phỉnh nịnh, thờ ơ với những cạm bẫy của danh vọng. Khác với những nhạc sĩ cùng thời, Schubert không màng giàu sang phú quý.
Schubert đã không lọt vào mắt xanh của một nhà mạnh thường quân nào đó trong giới quý tộc của Áo hay châu Âu thời bấy giờ. Cả sự nghiệp đồ sộ với trên dưới một ngàn tác phẩm, nhưng vì không có phương tiện, sinh thời chỉ có khoảng 10% những sáng tác của ông được in ấn.
Phần còn lại ngủ yên trong căn hộ của người anh trai Franz là nhạc sĩ Ferdinand Schubert. Franz Schubert sinh nhầm Thời đại, nếu như có Youtube thì chỉ cần một bài như Ave Maria hat Serenade, Franz Schubert cũng khác gì giàu có danh vọng như Justin Bieber hay PSY Nam Hàn !!!.. ..
Về đời sống xã hội, Franz Schubert gần như là một kẻ vô gia cư, dựa vào một vài người bạn nghệ sĩ để có được một mái nhà. Nay đây mai đó. Schubert không có việc làm chắc chắn, thu nhập khi có, khi không. Franz chắt chiu những đồng lương ít ỏi để mua giấy, mực và sáng tác
Gần như cả cuộc đời, Schubert không có được một mái nhà, lại cũng chẳng có được chiếc dương cầm để bầu bạn. Vì vậy có nhiều sáng tác của chính mình, Schubert chưa bao giờ được nghe qua. Thường xuyên trong cảnh bữa đói, bữa no, sáng tác trong giá rét, Schubert có thói quen soạn nhạc vào buổi sáng, thích đi xem kịch, uống bia với bạn bè. Thế giới của Schubert gần như không có bóng hình của đàn bà.
Schubert sáng tác nhiều bài hay tha thiết... Serenade là một trong những bản nhạc của Schubert được nhiều người biết đến nhất. Không chỉ được thế hệ đời sau yêu thích mà ngay chính bản Serenade này đã được giới nghệ sĩ đương thời đánh giá cao, bằng chứng cho nhà soạn nhạc lừng danh Liszt đã chuyển soạn bản này cho dương cầm.
Schubert con người say mê nghệ thuật chân chính. Schubert được mệnh danh là vua của các ca khúc. Số lượng ca khúc của Schubert sáng tác vượt qua hầu hết các nhạc sĩ khác.
Trong 31 năm sống trên cõi đời, ông chỉ tích luỹ những kiệt tác: hơn 600 bài dân ca, 10 bản giao hưởng, nhiều tác phẩm cho đàn dương cầm và cho nhạc thính phòng.
Schubert sống trong cảnh nghèo khổ và là một con người không có Thượng đế: không phải ông thiếu niềm tin mà vì là con người đã não lòng. Nhưng qua tác phẩm tuyệt vời Ave Maria, Franz Schubert đã chuyển được Thông điệp Thiên Chúa đến Toàn Nhân loại vào Mùa Giáng Sinh
Nietzche nói: "Trời mưa, và tôi nghĩ đến những người nghèo đang chất đống với tất cả những gánh nặng lúc này mà họ không còn có thể che giấu được".
Cuộc sống của thiên tài rất nghèo túng. Đôi khi, ông viết liên tục không nghỉ trong một ngày, chỉ mong kiếm được một khoản kha khá từ các nhà sản xuất. Có nhà xuất bản chỉ chịu trả cho ông sáu ca khúc trong số hai mươi bốn bản của tập Hành Trình Mùa Đông với giá 15 franc rẻ mạt.
Tuy vậy, Schubert vẫn miệt mài sáng tác. Các tác phẩm của ông thấm đượm nỗi u buồn và ca ngợi sự chịu đựng phi thường của con người trước số phận bất hạnh. Những giai điệu ấy cũng chan chứa tình yêu cuộc sống cho đến phút cuối cuộc đời.
Schubert là một nhạc sĩ dương cầm không tài hoa như Mozart hay Beethoven, nhưng Franz còn là một nhạc sĩ vĩ cầm, là người chơi đàn orgue khá tốt và cũng là một trong những nhà soạn nhạc hiếm hoi có được giọng ca thiên phú.
Chẳng vậy mà ngay từ khi mới sáng tác, Schubert đã hướng về thể loại Lied để phổ nhạc cho những bài thơ Schubert yêu thích.
Trong số gần 150 nhà thơ đem lại nguồn cảm hứng cho Franz Schubert, tác giả người Đức Johann Wolfgang von Goethe chiếm một chỗ đứng riêng biệt. 70 bài thơ của Goethe được Schubert phổ nhạc.
Bài thơ Suleika được nhạc sĩ người Đức Johannes Brahms khen tặng « đây là bản lied hay nhất trên thế giới ».
Nhiều bài thơ của Goethe mà sau này, khi nói đến, ai cũng liên tưởng ngay đến những giai điệu nhịp nhàng, dồn dập được Schubert gieo vào lòng người. Điển hình là tác phẩm Erlkonig/Le Roi des Aulnes. Với những nốt nhạc của Schubert (1815), mỗi vần thơ của Goethe đã chắp cánh bay ngàn trùng.
Ấy vậy Goethe đã xem thường những đóng góp của Schubert. Năm 1815 Franz Schubert trân trọng gửi sáng tác của mình đến Đỉnh cao nhất của nền văn học Đức, như một món quà tặng để tỏ lòng biết ơn đối với người đã cho ông chất liệu sáng tác. Tác giả của Faust đã chẳng màng đáp lại.
Phải chi Goethe chịu mất một chút thì giờ viết vài dòng cảm ơn, thì chắc chắn sự nghiệp của chàng nhạc sĩ nghèo và còn vô danh như Schubert sẽ tươi sáng hơn hẳn.
Một câu cảm ơn của Goethe, cũng đủ để các nhà xuất bản đua nhau đến gõ cửa nhà Schubert để đưa những tập nhạc của ông đến với công chúng. Đó sẽ là một món quà vô giá đối với một chàng nghệ sĩ không nhà không cửa không nơi nương tựa như Franz Schubert.
Là một người nhút nhát, lại không một chút tính toán theo kiểu cơ hội lạm dụng, Schubert không cầu cạnh gì ở bất kỳ một ai, kể cả Goethe.
Mãi đến năm 1830, tức hai năm sau khi Schubert qua đời, lần đầu tiên Goethe mới thưởng thức bản lied Erlkonig/Chúa tể rừng xanh được Franz phổ nhạc. Goethe đã bật khóc vì những nốt nhạc của Schubert được thể hiện qua tiếng hát của nữ ca sĩ Wilhelmine Schroider-Devrient.
Tác giả Nỗi đau của chàng Werther như ân hận gởi những giọt lệ muộn màng đến một thiên tài đã âm thầm đem lại phép màu để văn thơ của Goethe thêm tỏa sáng
Nhạc sĩ lừng danh khác của Thế kỷ 19 là Robert Schumann (1810-1856) vinh danh Franz Schubert là «thiên tài của Vienne, một nhà sáng tác có chỗ đứng ngang hàng với Beethoven»
Schubert bạc phúc, không trực tiếp nhận được lời khen tặng đó. Nhưng có lẽ nhận xét này của Schumann là phần thưởng mà để có được, Franz đã trả giá bằng suốt cuộc đời.
Không có Beethoven, Schubert không thể chắp canh bay xa như vậy trên con đường nghệ thuật. « Beethoven vừa là một đấng thiêng liêng, vừa là một người cha dù chưa một lần gặp mặt, vừa là một người dẫn đường » cho Franz Schubert.
Sinh thời hai nhạc sĩ cùng sống ở Vienna này chưa từng có dịp hội ngộ, nhưng Schubert tôn thờ nhạc của Beethoven trên hết tất cả. Tình cảm ông dành cho tác giả của bản Symphonie số 5 vô bờ bến và gần như tuyệt đối. Chỉ cần biết mình được sống dưới một khung trời cùng với Beethoven là cũng đủ để thôi thúc Schubert sáng tác.
Thua cha đẻ của bản Symphonie Pastorale đến 27 tuổi, Franz đã hơn một lần thốt lên rằng « Có thể làm gì khi ta đến sau Beethoven ? ». Có người kể lại rằng, Beethoven cũng trọng tài,đức của Schubert. Trong một lần tâm sự, nhạc sĩ người Đức này thổ lộ : tài nghệ của « Chàng trai này, một ngày sẽ vượt xa ta ».
Khi Beethoven qua đời vào tháng 3/1827, Schubert là một trong những nghệ sĩ được vinh dự rước đuốc trong tang lễ của người nhạc sĩ nhận nước Áo là quê hương thứ hai. Hơn một năm sau, vào một ngày mùa đông năm 1828 đến lượt Schubert từ giã cõi trần. Franz Schubert trút hơi thở cuối cùng trên nền nhạc bản Quatuor 14 của Beethoven.
Trở về với cát bụi, Schubert yên nghỉ tại nghĩa trang Währing, cách không xa ngôi mộ của Beethoven. Năm 1888 mộ phần của ông được đưa về nghĩa trang trung tâm của thành Vienne, trong khu vực dành cho các nhạc sĩ nổi tiếng của nước Áo hay đã chọn đây là quê hương thứ hai.
Chung quanh Schubert là những tên tuổi đã đi vào huyền thoại của dòng nhạc cổ điển như Gluck, Beethoven, Johannes Brahms hay Hugo Wolf. Trong số những ngôi mộ đó, chỉ có Franz Schubert là người con thực sự chào đời ở ngay giữa lòng Kinh thành Vienne nơi âm nhạc là Vua Chúa
Khúc nhạc chiều bất hủ sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Để làm cho nàng bất ngờ, ông nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng.
Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng say mê sáng tác chàng Schubert lại quên không đến.
Trớ trêu thay, cô láng giềng lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho chàng nhạc sĩ tài hoa Schubert.
Vào một ngày mùa đông tháng 11 năm 1828, nhạc sĩ thiên tài giã từ thế giới ở tuổi 31, vì căn bệnh thuỷ đậu tại nhà của một người anh em ở ngoại ô thành Vienne. Khi ông mất, người ta kiểm kê tài sản và chỉ đếm được vẻn vẹn 6 đồng sáu xu và một đống bản thảo nhạc viết tay.
(Nguyễn Hữu Viện)
Chiều buồn nhẹ xuống đời
Người tình tìm đến người
Thấy run run trong chiều phai.
Vẻ sầu của đoá cười
Tình bền của lứa đôi
Thoáng hương trong chiều rơi.
Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời
Cho người thôi khóc thương ai
Cho niềm yêu đến bên tôi.
Chiều nay lỡ ghé môi trên mi sầu
Ru người qua chốn thương đau
Cho làn nước mắt chìm sâu.
Tình đời toả mát màu
Chiều nay là lúc đầu
Nói cho nhau nghe đời sau.
Nhẹ nhàng người đắm sầu
Kể lể chuyện kiếp nao
Có ai chia lìa nhau.
Một ngày đó tóc mây đã phai mầu
Có chờ ta oán trách đâu
Có vì duyên kiếp không lâu.
Ðời sẽ thấy chúng ta sống không cầu
Cho tình cứ úa phai mau
Cho người cứ mãi phụ nhau.
Dù một ngày đời sẽ vỡ tan rồi
Người về khuất chân trời
Nhớ nuôi cho hương một chiều
Vương vấn đời
(hừm......)
Cuộc tình vĩnh viễn xa vời
Chỉ còn thương nhớ mà thôi
Bóng tối buồn không lời.
Nhạc sĩ Franz Peter Schubert (31 tháng 1 năm 1797 – 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, 9 bản giao hưởng trong đó có bản giao hưởng nổi tiếng “Unfinished Symphony” cùng các thể loại nhạc nghi lễ, nhạc thính phòng và solo piano. Ông được biết đến với các tác phẩm có giai điệu nhẹ nhàng và du dương.
Dù Schubert có khá nhiều người bạn ngưỡng mộ các nhạc phẩm của ông (như thầy giáo của ông Antonio Salieri, và ca sĩ nổi tiếng Johann Michael Vogl), tuy nhiên âm nhạc của Schubert thời đó không được thừa nhận rộng rãi nếu không muốn nói là rất hạn chế. Schubert chưa bao giờ đảm bảo được một công việc ổn định và thường xuyên phải nhờ đến sự ủng hộ của bạn bè và gia đình trong phần lớn sự nghiệp.
Schubert mất sớm, năm 31 tuổi, do hậu quả của bệnh thương hàn là loại bệnh không chữa được thời đó. Vài thập kỷ sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn.
Ngày nay, Schubert được xếp hạng là một trong số những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của những năm cuối thời kỳ cổ điển, đầu thời kỳ lãng mạn, và các tác phẩm của ông thường xuyên được trình diễn nhiều trong những năm đầu thế kỷ 19.
Franz Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Himmelpfortgrund (nay là một phần của Alsergrund), Wien, nước Áo. Bố ông, Franz Theodor Schubert – con của một nông dân vùng Monravia – là thầy giáo nổi tiếng trong giáo khu. Mẹ ông là con của một người sửa khóa vùng Silesia, là người hầu của một gia đình giàu có trước khi lấy bố ông. Ông là một trong số 14 người con của Franz Theodor Schubert, chín trong số đó đều chết yểu.
Bố Schubert là một thày giáo nổi tiếng trong khu vực, và trường của ông tại Lichtental (huyện 9 của Vienna) đã có nhiều học trò theo học. Mặc dù ông đã không được công nhận hoặc thậm chí không được đào tạo như một nhạc sĩ, ông là người thầy đầu tiên truyền dạy cho Schubert những hiểu biết cơ bản về âm nhạc.
Schubert bắt đầu được cha dạy nhạc khi lên 6, một năm sau ông theo học trường của bố ông và bắt đầu chính thức theo học âm nhạc. Bố ông đã dạy ông các kỹ thuật violin cơ bản, và anh trai Ignaz đã dạy ông những bài học piano. Khi bảy tuổi, ông được Michael Holzer, người chơi organ đồng thời cũng là trường dàn đồng ca của nhà thờ giáo xứ địa phương tại Lichtental dạy dỗ.
Cậu bé Schubert dường như đã được giúp đỡ nhiều hơn từ một người quen với một thợ mộc học việc thân thiện. Họ đã đưa cậu bé đến một kho đàn piano gần đó để Franz có thể thực hành trên nhạc cụ tốt hơn. Franz cũng chơi viola trong tứ tấu đàn dây của gia đình, với các anh Ferdinand và Ignaz là violin chính và thứ hai, còn người cha chơivioloncello.
Franz đã viết tứ tấu đàn dây đầu tiên của mình cho một buổi hòa tấu của tứ tấu gia đình này. Schubert đầu tiên được Antonio Salieri, nhà quản lý âm nhạc hàng đầu của Vienna, để ý đến vào năm 1804, về tài năng thanh nhạc của cậu. Năm 1808 ông vào trường Stadtkonvikt với suất học bổng trong dàn đồng ca. Tại đây ông bắt đầu làm quen với các bản overture và giao hưởng của Mozart, các bản symphony của Haydn và của người em Michael của ông.
Với việc học hỏi các tác phẩm trên, làm quen với các tác phẩm của các nhạc sĩ khác, và thỉnh thoảng đến xem các vở opera đã tạo ra một vốn kiến thức âm nhạc rộng rãi và vững chắc cho Schubert. Một ảnh hưởng âm nhạc quan trọng cho Schubert là các bài hát của Johann Rudolf Zumsteeg, một nhà soạn nhạc Lieder quan trọng lúc đó. Sinh viên trẻ Schubert đã “muốn hiện đại hóa” các bài hát trên, Joseph Von Spaun, người bạn của Schubert kể lại. Tình bạn của Schubert với Spaun bắt đầu tại Stadtkonvikt và kéo dài trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của ông. Trong những ngày đầu, Spaun với tài chính khá giả đã mua nhiều giấy viết nhạc cho một Schubert nghèo khó.
Tài năng của Schubert bắt đầu thể hiện qua các sáng tác. Thỉnh thoảng Schubert được giao chỉ huy dàn nhạc, và Antonio Salieri bắt đầu đào tạo Schubert về lý thuyết âm nhạc và kỹ năng sáng tác. Đây là dàn nhạc đầu tiên Schubert viết nhạc, và ông đã dành phần lớn thời gian còn lại của mình tại Stadtkonvikt để sáng tác nhạc thính phòng, một số bài hát, các đoạn ngắn cho piano, và bản hợp xướng phụng vụ với các hợp xướng “Salve Regina” (D27), “Kyrie” (D31), và “Octet cho Winds” chưa hoàn thành (D72, để kỷ niệm cái chết của mẹ Schubert năm 1812), bản cantata Wer ist groß? cho giọng nam và dàn nhạc (D110, kỷ niệm ngày sinh nhật của cha Schubert vào năm 1813), và bản giao hưởng đầu tiên của ông (D 82).
Vào cuối năm 1813, ông rời Stadtkonvikt và trở về nhà để học khoa giáo viên tại Normalhauptschule. Năm 1814, ông trở thành giáo viên của các em học sinh nhỏ tuổi nhất tại trường của cha mình. Trong hơn hai năm Schubert chịu đựng khó khăn với sự lãnh đạm hiếm thấy. Tuy nhiên, cũng có các lợi ích bù lại. Ông tiếp tục học hỏi Salieri, người đã đào tạo Schubert các kỹ thuật thực tế hơn bất kỳ các giáo viên khác của ông, trước khi họ chia tay năm 1817.
Năm 1814, ông làm quen với Therese Grob, con gái của một nhà sản xuất lụa trong vùng đồng thời là một ca sĩ soprano đã trình tấu một số tác phẩm của ông nhưSalve Regina, Tantum Ergo, và cô cũng là ca sĩ hát chính trong buổi ra mắt của tác phẩm Mass in F của ông vào tháng 9 năm 1814. Mối quan hệ tình cảm cũng phát triển phức tạp và có nhiều khả năng Schubert muốn kết hôn với Grob nhưng không thành. Năm 1815 Luật kết hôn quá hà khắc với yêu cầu chú rể phải chứng minh được khả năng có thể nuôi sống gia đình. Tháng 11 năm 1816, sau khi không được nhận công việc ở Laibach (bây giờ là Ljubljana, Slovenia) ông gửi cho Heinrich – anh của Grob – một tập tác phẩm mà gia đình bà còn giữ đến đầu thế kỉ 20.
Năm 1815 là năm Schubert tập trung vào sáng tác, ông viết đến 9 tác phẩm cho nhà thờ, 140 ca khúc nghệ thuật (lieder), một bản giao hưởng.
Giai đoạn Âm nhạc Cổ Điển – Trường phái cổ điển Vienna (1730 -1820) khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới – giai đoạn Âm nhạc Lãng Mạn (1800 – 1910). Những nhà soạn nhạc thời kỳ Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa hay từ những nguồn ngoài thế giới âm nhạc. Vì vậy, âm nhạc chương trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.
Các bài thơ trong thế kỷ 18 và 19 là cơ sở đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Sự huy hoàng của âm nhạc lãng mạn lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là “nhân vật vĩ đại” đầu tiên chính là Franz Schubert.
Schubert sáng tác đủ các thể loại âm nhạc: giao hưởng, Sonat, nhạc thính phòng, bài hát. Schubert là người đầu tiên đưa bài hát đến tầm khái quát cao, đồng thời giữ được vẻ tự nhiên ban đầu của nó. Schubert trở nên bất tử qua 600 bài hát mà ông sáng tác (nên giao hưởng và opera của ông bị khuất lấp, bị rơi vào lãng quên lúc sinh thời). Sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn. Schubert được coi là ánh bình minh của chủ đề lãng mạn trong âm nhạc. Ông được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của nhân loại.
Nhạc phẩm “Ave Maria”, tên phổ thông của một bài hát có tựa là “Ellens dritter Gesang” (“Ellens Gesang III – Hymne an die Jungfrau”, D 839, Op. 52 Nr. 6) là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert, được viết vào năm 1825.
Cảm hứng để nhà soạn nhạc yểu mệnh viết bài Lied xuất sắc này là từ tập thơ Lady Of The Lake (tiếng Việt: Người Phụ Nữ Bên Hồ) của đại thi hào người Scotland, Walter Scott, được dịch sang tiếng Đức bởi Adam Storck. Nhân vật chính trong tập thơ này, nữ anh hùng Ellens Douglas trong thời gian trốn tránh quân thù bên một cái hồ, đã cầu nguyện Đức trinh nữ Maria bằng những lời thơ.
Franz Peter Schubert vốn là một con người sùng đạo, lại nhớ đến người con gái ông yêu có khuôn mặt giống Đức trinh nữ nên đã phổ nhạc cho tác phẩm này, lấy tên là “Ellens dritter Gesang” (có nghĩa là “Bài Hát Thứ Ba Của Ellens”). Tuy nhiên, vì bài hát được bắt đầu bằng và kết thúc cũng như hay được lập lại bằng hai từ “Ave Maria” nên nó hay được hát trong các buổi thánh lễ nhất là trong lễ đám cưới và đám tang bằng tiếng Latin, nên người đời sau này gọi bài hát đó là “Ave Maria”.
Schubert không hề đặt tên tác phẩm này là “Ave Maria” mà là “Ellens dritter Gesang”, điều này ông đã khẳng định qua những lá thư gửi cho cha mẹ mình, báo tin về sự thành công của ca khúc. Có lẽ chỉ những người hoài cổ mới nhớ đến phiên bản sơ khai của tác phẩm, vì hiện tại nó ít phổ biến. So với bản “Ave Maria” của Johann Sebastian Bach và Charles Gounod, bản “Ave Maria” hát đơn giản hơn. Tác phẩm này khi nghe sẽ cho ta một cảm giác buồn man mác, cảm xúc chung mỗi khi ta thưởng thức hầu hết các tác phẩm của Schubert.
Nhạc phẩm “Dạ Khúc” (“Seranade”) của Franz Peter Schubert (tiếng Đức: Ständchen) được viết lời bởi Ludwig Rellstab. Bản này có số thứ tự 4, nằm trong quyển 1 của tập “Schwanengesang” (“Bài Ca Thiên Nga”). Đây là tuyển tập bài hát được sưu tầm sau khi Schubert qua đời, trong danh sách tác phẩm của nhà soạn nhạc tất cả có số thứ tự D 957. Franz Liszt là người sau này đã chuyển thể các tác phẩm trong tập “Schwanengesang” cho độc tấu piano.
“Dạ Khúc” (“Serenade”) là một thể loại ca khúc để hát vào buổi tối, đặc biệt cho giọng nữ. Ở phương Tây thể loại ca khúc này gọi là “Serenade” và nó rất được nhiều nhạc sĩ ưa chuộng, sáng tác… cho nên “Dạ Khúc” (“Serenade”) không chỉ riêng một tác phẩm riêng biệt của một nhạc sĩ nào cả. Nhiều nhạc sĩ đã sáng tác trên chủ đề này, nhưng có lẽ được biết đến và ưa chuộng nhiều nhất (cho mãi đến ngày hôm nay) vẫn là “Serenade” của nhạc sĩ thiên tài người Áo Franz Peter Schubert.
Franz Peter Schubert chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi 31 năm nhưng đã kịp để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ ở nhiều thể loại. Schubert còn được mệnh danh là “Vua Lied” vì ông sáng tác rất nhiều Lied (số nhiều: Lieder), theo tiếng Đức nghĩa là đoản ca, có giá trị. Có lẽ Lied của Schubert được nhiều người yêu thích nhất là Lied có tên “Ständchen” này. “Ständchen” đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ và được chuyển soạn cho nhiều nhạc cụ khác chơi dưới cái tên “Serenade” và cái tên phổ biến nhất là “Serenade của Schubert”
Bài “Dạ Khúc” bất hủ mà Franz Peter Schubert sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là “Serenade”. “Serenade” thời Trung Cổ và Phục Hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được (guitar, mandolin…).
Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản “Dạ Khúc” Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài Lied hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.
Nhưng hơn thế, nhạc phẩm “Dạ Khúc” của Schubert là một bức tranh toàn bích, sâu lắng… mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sĩ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ. Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ…
Trong lời dịch của ông, nhạc sĩ Phạm Duy đã cố gắng phác thảo tất cả những cung bậc trải nghiệm hết sức tinh tế về cảm xúc mà giai điệu bản Serenade khơi gợi nơi người thính giả. Lời dịch của ông tuy hy sinh sự chính xác của ngôn từ nhưng giàu tính thẩm mỹ của cảm nhận âm nhạc, một cảm nhận ông muốn hướng dẫn người thưởng ngoạn cũng cảm nhận như ông.
“Hymn to the Virgin” (Thánh Ca Kính Dâng Trinh Nữ) là tên bài thơ của thi sĩ Walter Scott:
Ave Maria!
Maiden mild!
Listen to a maiden’s prayer!
Thou canst hear though from the wild,
Thou canst save amid despair.
Safe may we sleep beneath thy care,
Though banish’d, outcast and reviled – Maiden!
hear a maiden’s prayer;
Mother, hear a suppliant child!
Ave Maria!
Ave Maria! Undefiled!
The flinty couch we now must share
Shall seem this down of eider piled,
If thy protection hover there.
The murky cavern’s heavy air
Shall breathe of balm if thou hast smiled;
Then, Maiden! hear a maiden’s prayer;
Mother, list a suppliant child!
Ave Maria!
Ave Maria! Stainless styled!
Foul demons of the earth and air,
From this their wonted haunt exiled,
Shall flee before thy presence fair.
We bow us to our lot of care,
Beneath thy guidance reconciled;
Hear for a maid a maiden’s prayer,
And for a father hear a child!
“Ellens dritter Gesang” là bản dịch tiếng Đức của dịch giả Storck đã được nhà soạn nhạc Franz Peter Schubert sử dụng:
Ave Maria! Jungfrau mild, Erhöre einer Jungfrau Flehen, Aus diesem Felsen starr und wild Soll mein Gebet zu dir hinwehen. Wir schlafen sicher bis zum Morgen, Ob Menschen noch so grausam sind. O Jungfrau, sieh der Jungfrau Sorgen, O Mutter, hör ein bittend Kind! Ave Maria!
Ave Maria! Unbefleckt! Wenn wir auf diesen Fels hinsinken Zum Schlaf, und uns dein Schutz bedeckt Wird weich der harte Fels uns dünken. Du lächelst, Rosendüfte wehen In dieser dumpfen Felsenkluft, O Mutter, höre Kindes Flehen, O Jungfrau, eine Jungfrau ruft! Ave Maria!
Ave Maria! Reine Magd! Der Erde und der Luft Dämonen, Von deines Auges Huld verjagt, Sie können hier nicht bei uns wohnen, Wir woll’n uns still dem Schicksal beugen, Da uns dein heil’ger Trost anweht; Der Jungfrau wolle hold dich neigen, Dem Kind, das für den Vater fleht. Ave Maria!
Lời Latin:
Ave Maria, gratia plena!
Maria, gratia plena!
Maria, gratia plena!
Ave, Ave, Dominus, Dominus tecum.
Benedicta tu in mulieribus, et benedictus,
Et benedictus fructus ventris (tui),
Ventris tui, Jesus.
Ave Maria!
Sancta Maria, Mater Dei,
Ora pro nobis peccatoribus,
Ora, ora pro nobis;
Ora, ora pro nobis peccatoribus,
Nunc et in hora mortis,
In hora mortis nostrae,
In hora, hora mortis nostrae,
In hora mortis nostrae.
Ave Maria!
Nhạc phẩm “Ave Maria” (Bản tiếng Việt của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông)
Xin Mẹ Maria
Cho nước con qua ngày can qua
Đã mấy mươi năm Mẹ ôi sống trong mộng
Ngày mai một ngày tan chinh chiến vui bình yên
Hãy ban cho một mùa Xuân như ý quên sầu bi
Đầy ơn phước trong tay người
Mẹ ơi, bao la lòng bao í a
Này đây muôn kinh quỳ lạy tấu dâng đến bà
Tạ ơn Thiên Chúa – Gabriel truyền tin khắp nơi
Trần thế thắm bao tình ơn thánh nữ đồng trinh
Ave Maria… Ave Maria… Ave Maria…
Nhạc phẩm “Ständchen” (“Serenade” – Bản gốc tiếng Đức)
Leise flehen meine Lieder
Durch die Nacht zu dir;
In den stillen Hain hernieder,
Liebchen, komm zu mir!
Flüsternd schlanke Wipfel rauschen
In des Mondes Licht;
Des Verräters feindlich Lauschen
Fürchte, Holde, nicht.
Hörst die Nachtigallen schlagen?
Ach! sie flehen dich,
Mit der Töne süßen Klagen
Flehen sie für mich.
Sie verstehn des Busens Sehnen,
Kennen Liebesschmerz,
Rühren mit den Silbertönen
Jedes weiche Herz.
Laß auch dir die Brust bewegen,
Liebchen, höre mich!
Bebend harr’ ich dir entgegen!
Komm, beglücke mich!
(Dịch ý: ‘Đêm khuya vẳng tiếng anh hát thầm thì, dưới chòm cây tĩnh lặng. Đến đây hỡi người! Gió đùa lá xào xạc dưới trăng; đừng sợ chi kẻ phản trắc rình rập đâu đó. Em nghe chăng tiếng họa mi vang rền. Chúng gọi em đấy, chúng chuyển lời của anh cho em, vì chúng hiểu nỗi khắc khoải con tim, nỗi đau tình si. Giọng hót vang của chúng làm mỗi trái tim nồng nàn bớt thổn thức. Người yêu hỡi, em hãy để cho tiếng chim ca trong tim… Anh đang run rẫy, bồi hồi chờ em nơi đây. Đến đây chúc mừng anh!) chim sơn ca chỉ hót ban ngày, chỉ họa mi mới hót ban đêm, sơn ca hót vang lừng khi đang bay, họa mi hót vang cả cánh rừng (độc thung).
Nhạc phẩm “Dạ Khúc” (“Seranade” – Bản tiếng Việt của Nhạc sĩ Phạm Duy)
Chiều buồn nhẹ xuống đời người tình tìm đến người thấy run run trong chiều phai.
Vẻ sầu của đoá cười tình bền của lứa đôi thoáng hương trong chiều rơi.
Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời cho người thôi khóc thương ai cho niềm yêu đến bên tôi.
Chiều nay lỡ ghé môi trên mi sầu ru người qua chốn thương đau cho làn nước mắt chìm sâu.
Tình đời toả ngát màu chiều nay là lúc đầu nói cho nhau nghe đời sau.
Nhẹ nhàng người đắm sầu kể lể chuyện kiếp nao có ai chia lìa nhau.
Một ngày đó tóc mây đã phai mầu có chờ ta oán trách đâu có vì duyên kiếp không lâu.
Ðời sẽ thấy chúng ta sống không cầu cho tình cứ úa phai mau cho người cứ mãi phụ nhau.
Dù một ngày đời sẽ vỡ tan rồi người về khuất chân trời nhớ nuôi cho hương một chiều vương vấn đời.
Cuộc tình vĩnh viễn xa vời chỉ còn thương nhớ mà thôi
Bóng tối buồn không lời…
Dưới đây mình có bài:
– Sérénade (Dạ Khúc) – Schubert
Cùng với 12 clips tổng hợp 2 nhạc phẩm “Ave Maria”, “Dạ Khúc” (“Seranade”) do các ca nhạc sĩ lừng danh trên thế giới trình diễn để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn,
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Sérénade (Dạ Khúc) – Schubert (trích)
(Hoài Nam)
Franz Schubert là nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất của đầu thời kỳ lãng mạn (Romantic era) trong nền nhạc cổ điển tây phương. Tác giả của bản Serénade bất hủ, ca khúc Ave Maria để đời, và bản Giao hưởng Dang dở (Symphonie Inachevée) đầy huyền thoại.
Franz Schubert cũng là người chết trẻ nhất. Nếu hậu thế đã phải tiếc thương một Chopin qua đời vào tuổi 39, một Mozart vào tuổi 35, thì lại càng phải xót xa cho Schubert, vì ông mất năm mới 31 tuổi!
Thế nhưng, nếu nói về số lượng, Schubert lại đứng đầu các tác giả nhạc cổ điển với trên 1000 tác phẩm, gồm khoảng 600 ca khúc, 9 bản giao hưởng, 6 lễ nhạc Công giáo, 5 vở opera, 21 bản sonata, 31 bản thính phòng, cùng nhiều sáng tác ngẫu hứng, và các bản độc tấu dành cho dương cầm.
Phần lớn tác phẩm của Schubert chỉ được biết tới và đón nhận sau khi ông đã qua đời. Nguyên nhân chính là lúc còn sống, ông không có nhiều cơ hội phổ biến rộng rãi các sáng tác của mình, mà thường chỉ giới hạn trong vòng bạn bè thân quen, và một số người ái mộ. Chỉ sau khi Schubert mất, các nhạc sĩ bạn, hoặc thuộc hệ kế tiếp, như Franz Liszt, Robert Schuman, Felix Mendelssohn, mới bỏ công thu thập và phổ biến các sáng tác để đời của ông.
Franz Peter Schubert ra chào đời ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Alsergrund, một vùng ngoại ô của thành Vienne, kinh đô Áo quốc. Cha ông, Franz Theodor Schubert, mở một trường học – vừa dạy chữ vừa dạy nhạc – tại Quận Lichtental, nơi mà các con trai của ông lần lượt trở thành giáo viên.
Mặc dù không phải là một nhạc sĩ nổi tiếng, cũng không xuất thân từ một nhạc viện nào, nhưng Franz Theodor Schubert rất đông học trò. Năm lên 5 tuổi, Franz (Peter) Schubert bắt đầu được cha dạy vĩ cầm, và anh trai Ignaz dạy dương cầm.
Năm lên 7, Schubert được ông Michael Holzer, nhạc sĩ đại phong cầm kiêm ca đoàn trưởng của nhà thờ địa phương thu nhận làm học trò.
Năm 17 tuổi, Franz Schubert nối gót hai anh trai Ferdinand và Ignaz trở thành giáo viên tại trường học của thân phụ, đồng thời gia đình Schubert cũng đủ tay đàn để thành lập một ban tứ tấu đàn dây (string quartet), trong đó Ferdinand và Ignaz chơi vĩ cầm, Franz “con” chơi trung vĩ cầm (viola), còn Franz “bố” chơi cello. Các sáng tác đầu tay của Franz Schubert chính là các bản viết cho ban tứ tấu gia đình.
[Chú thích: mặc dù đàn dây (string instrument) gồm cả đàn ghi-ta, banjo, mandolin, ukulele, hạc cầm (harp), double bass…, nhưng riêng trong nhạc cổ điển, chữ “string quartet” (tứ tấu đàn dây) phải được hiểu là 4 cây đàn thuộc họ vĩ cầm (bowed string instrument), gồm: 2 vĩ cầm (violin), 1 trung vĩ cầm (viola), và 1 cello]
Cũng vào năm 17 tuổi (1814), Franz Schubert chính thức tỏ tình với cô bạn gái Thérèse Grob, 16 tuổi.
Nguyên Thérèse và người em trai Heinrich là con của chủ nhân một hãng dệt lụa ở gần nhà Schubert. Hai gia đình cùng đi lễ ở nhà thờ Lichtental, nơi Therèse là giọng soprano chính của ca đoàn.
Năm đó (1814), thánh đường Lichtental kỷ niệm đệ bách chu niên, Franz Schubert được trao trách nhiệm soạn lễ nhạc (Mass), và đích thân điều khiển dàn nhạc cùng ca đoàn, trong đó Thérèse Grob hát solo phần soprano.
Từ đó, Thérèse được cha mẹ cho phép tự do lui tới gia đình Schubert để đàn hát với anh em Franz, và không quên dắt theo cậu em trai Heinrich của nàng, cũng là một tài năng trẻ về cả dương cầm lẫn vĩ cầm.
Nhưng cuộc tình đẹp của hai người chỉ kéo dài được 3 năm. Không phải lòng người đổi thay mà vì luật lệ khắc nghiệt về hôn nhân của đế quốc Áo thời bấy giờ. Theo đó, tất cả mọi nam công dân Áo muốn lấy vợ phải làm đơn, và phải chứng minh có đủ khả năng tài chánh để nuôi vợ con thì mới được phép kết hôn.
Biết rằng dạy nhạc tại trường học của thân phụ không thể xem là một “công việc vững chắc”, tháng Tư năm 1816, Franz Schubert nộp đơn xin làm thầy giáo dạy nhạc tại Trường sư phạm ở Ljubljana (ngày nay là thủ đô của Slovenia, ngày đó là một thành phố thuộc đế quốc Áo), nhưng đơn bị bác.
Chán nản, tháng 11 năm ấy, Franz Schubert quyết định “trả tự do” cho Thérèse. Chàng nhờ Heinrich, cậu em của Thérèse, trao cho nàng một tập 17 tình khúc sáng tác riêng cho nàng trong thời gian hai người yêu nhau, để làm kỷ vật. Bốn năm sau, Thérèse lấy chồng. Tập ca khúc ấy trở thành gia bảo của dòng họ Grob, và tới thế kỷ thứ 20 đã được phổ biến với tên gọi “Thérèse Grob Songbook”.
Sau khi bị bác đơn xin dạy nhạc tại trường sư phạm, dẫn đưa tới việc chấm dứt mối tình đầu, Franz Schubert bỏ nhà, bỏ luôn công việc dạy nhạc tại trường học của cha để tới sống với Schober, một cậu “học trò” đồng lứa tuổi.
Nguyên Schober là con nhà khá giả, sống với bà mẹ trong một ngôi nhà rộng lớn. Cậu rất quý phục Schubert và từ lâu đã ngỏ ý mời vị thầy trẻ về sống tại nhà mình.
Thời gian đầu, có lẽ vì tự ái, Schubert vừa sáng tác vừa nhận học trò để có thu nhập riêng, nhưng về sau, ông đã ngưng nhận học trò để dành hết thì giờ cho công việc sáng tác.
Schubert ghi lại trong nhật ký của mình: “Mỗi ngày, tôi bắt đầu sáng tác từ sáng sớm, không ngừng nghỉ, xong bản này tôi bắt tay ngay vào việc viết bản khác!”
Cũng trong năm 1816, vào tuổi 19, bên cạnh việc viết ca khúc, Schubert bắt đầu sáng tác các bản hòa tấu quy mô và các bản hợp xướng. Tuy nhiên tất cả mọi tác phẩm của ông đã không được xuất bản, mà chỉ được bạn bè và người ái mộ chép tay để phổ biến cho nhau.
Qua năm 1817, may mắn đã tới với Schubert khi ông được giới thiệu với Johan Michael Vogl, đệ nhất danh ca giọng nam trung (baritone) của thành Vienne, hơn Schubert 20 tuổi. Chính nhờ danh tiếng và nghệ thuật trình bày của Johan Michael Vogl mà các ca khúc của Schubert bắt đầu được giới một điệu biết tới.
“Ca khúc” nói tới ở đây, tiếng Đức gọi là “lieder”, là những bài hát lãng mạn được phổ từ thơ, hoặc có lời hát như thơ, mang nhiều giá trị văn chương, rất được ưa chuộng vào thế kỷ thứ 19.
Trong số trên dưới 600 “lieder” của Schubert, nổi tiếng nhất phải là bản “Ave Maria”.
Việc hậu thế gọi đây là bản “Ave Maria của Franz Schubert” xét tới nơi tới chốn là thiếu chính xác. Bởi vì ca khúc nguyên thủy của Schubert có tựa khác, và lời hát khác.
Ngày ấy, nguồn cảm hứng đã tới với Schubert khi tập thơ Lady of the Lake – Đức Bà của Hồ nước – của thi hào Tô-cách-lan Sir Walter Scott được dịch sang tiếng Đức. Nhân vật chính trong tập thơ này, nữ anh hùng Ellens Douglas, trong thời gian trốn tránh quân thù bên bờ hồ, đã cầu nguyện Đức trinh nữ Maria bằng những lời thơ.
Schubert vốn là người rất sùng đạo, đã phổ những lời thơ ấy thành các ca khúc, trong đó bản nổi tiếng nhất có tựa tiếng Đức là “Ellens dritter Gesang” (Ellens’ Third song – Bài hát thứ ba của Ellens).
Điều này đã được xác định qua lá thư của Franz Schubert gửi cho cha mẹ, báo tin về sự thành công của ca khúc.
Về sau, vì lời thơ (phổ nhạc) bắt đầu bằng hai tiếng “Ave Maria”, một, hay nhiều “thiên tài ẩn danh” nào đó đã lấy lời kinh “Ave Maria” bằng tiếng La-tinh (người Công giáo Việt Nam gọi là kinh “Kính Mừng”) thay thế lời hát nguyên thủy bằng tiếng Đức, để rồi dần dần hầu như ai cũng gọi đây là bản “Ave Maria của Schubert”, với mục đích phân biệt với một bản “Ave Maria” nổi tiếng khác, nhạc của Johann Sebastian Bach, lời của Charles Gounod.
Chỉ có những thính giả có tinh thần hoài cổ và yêu thơ mới tìm nghe bản “Ave Maria của Schubert” với lời hát nguyên thủy, tức Ellens’ Third Song – Bài hát thứ ba của Ellens.
Trước năm 1975 tại miền Nam VN, bản “Ave Maria của Schubert” đã được ít nhất hai nhạc sĩ đặt lời Việt, là Phạm Duy và Nguyễn Văn Đông. Điểm khác biệt chính là trong khi Phạm Duy dịch sát lời kinh, thì Nguyễn Văn Đông lại “Việt hóa” bằng cách lồng cuộc chiến tang tóc, cùng những khát vọng thanh bình vào lời hát.
Phụ lục: Audio (2)
Sau năm 1975, trong CD “Kỷ niệm vàng son” thực hiện với mục đích gây quỹ từ thiện, Lê Dung, người nữ danh ca có giọng soprano cao vút, đã trình bày bản Ave Maria của Schubert với lời hát bằng tiếng Pháp, và gây ấn tượng mạnh nơi người yêu nhạc.
* * *
Với hậu thế nói chung, 3 tác phẩm nổi tiếng nhất của Franz Schubert phải là: (1) bản “Ave Maria” đã nhắc tới ở trên, (2) bản Sérénade, tức Dạ khúc, và (3) bản Giao hưởng số 8, thường được gọi là Unfinished Symphony (tiếng Anh), hoặc Symphonie Inachevée (tiếng Pháp), nghĩa là bản “Giao hưởng Dở dang” – mà một số người đã “thi vị hóa”, cho rằng bản này đã được Schubert viết cho một “mối tình dang dở”!
Nguyên vào mùa hè năm 1818, tức là 2 năm sau khi chấm dứt mối tình đầu với Thérèse Grob, Franz Schubert được mời tới lâu đài của Bá tước Johann Karl Eszterhazy ở Hung-gia-lợi, để dạy cho hai cô con gái của ông – Marie và Karoline – đàn dương cầm và hát.
Theo các tác giả viết tiểu sử Franz Schubert, đây là khoảng thời gian hiếm hoi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, nhà nhạc sĩ được thoải mái cả về lẫn vật chất lẫn tinh thần: đã “việc nhẹ lương hậu” còn được gần gũi nàng Karoline ngây thơ xinh đẹp. Từ gần gũi tiến tới say mê. Tuy nhiên, chỉ say mê chứ không mảy may hy vọng, bởi vì tuy còn nhỏ, Karoline đã đường đường là nữ bá tước – một vị nữ bá tước của dòng họ Eszterhazy – một dòng họ quý tộc nổi tiếng từ thời trung cổ, có nhiều lãnh địa ở khắp đế quốc Áo – Hung.
Cho nên, tình yêu của chàng nhạc sĩ nghèo 21 tuổi là tình đơn phương, tình tuyệt vọng, và đã trở thành đề tài cho một thi phẩm của thi sĩ Bauerfeld, một bạn thân của Schubert.
Về phần Schubert, sau khi từ Hung-gia-lợi trở về Áo, chàng đã sáng tác bản song tấu dương cầm “Fantaisie cung Fa thứ”, đề tặng “Nữ bá tước Karoline Eszterhazy”. Chấm hết chuyện tình!
Nhưng cũng chính vì chuyện tình đơn phương của Franz Schubert dành cho Karoline Eszterhazy mà người đời đã thi vị hóa cái tựa bản “Giao hưởng Dở dang” của nhà nhạc sĩ, cho rằng chữ “dở dang” ở đây là ám chỉ chuyện tình “dang dở” ấy!
Nhưng trên thực tế, “dở dang” ở đây chỉ có nghĩa đen, là viết dở dang, vì một nguyên nhân khó hiểu nào đó chứ không phải vì Schubert không có thì giờ, bằng chứng là sau khi bỏ dở bản này, ông đã bắt tay vào việc viết, và hoàn tất bản giao hưởng số 9!
Bản “Giao hưởng Dở dang”, tức bản số 8, được Franz Schubert bắt đầu viết vào năm 1822, tức là 6 năm trước khi qua đời. Thông thường, một bản giao hưởng gồm có 4 phần – tức “movement”. Schubert viết xong phần 1 và 2 thì ngưng. Mãi tới sau khi ông qua đời, người ta mới tìm thấy đoạn đầu của phần 3 và bố cục của phần 4.
Gần 200 năm sau, cũng không một ai có thể trả lời câu hỏi: tại sao Schubert lại bỏ dở bản giao hưởng này? Càng đáng tiếc hơn nữa, là qua thưởng thức phần 1 và 2, người yêu nhạc cổ điển đều đồng ý với nhau rằng: nếu hoàn tất, đây sẽ là bản giao hưởng hay nhất của Schubert.
Về sau, nhiều tổ chức văn hóa đã cho tổ chức những cuộc thi sáng tác để điền khuyết những phần còn thiếu. Tuy nhiên, tất cả mọi sáng tác đoạt giải đều bị giới thưởng thức nhạc cổ điển cho là không xứng hợp. Vì thế, có lẽ nghìn năm sau, bản “Giao hưởng Dở dang” vẫn còn… dang dở!
Như vậy, trong số 3 tác phẩm nổi tiếng nhất của Franz Schubert, bản “Ave Maria” đã bị đổi tựa và lời hát nguyên thủy, bản Giao hưởng số 8 thì viết dở dang, như vậy có thể nói chỉ có bản Sérénade – Dạ khúc, là trọn vẹn.
Điều thú vị nhất về Sérénade là bản này chỉ là một sáng tác ngẫu hứng, được Schubert viết trong một quán cà-phê!
Tuy nhiên, trước khi viết về giai thoại này, cũng xin có đôi dòng về chữ “sérénade” trong nhạc cổ điển tây phương.
“Sérénade” là tiếng Pháp (tiếng Anh viết là “serenade”), bắt nguồn từ tiếng Ý “serenata”. Theo các nhà ngữ học, “serenata” có nguồn gốc từ chữ “sereno”, trong tiếng Ý có nghĩa là thanh tịnh – peaceful.
“Serenata” có từ thời trung cổ, và được định nghĩa là thể loại ca khúc êm dịu, được một anh chàng si tình nào đó, đứng trước nhà người đẹp, hướng lên cửa sổ, hay ban-công của phòng nàng mà hát để tỏ tình – như chàng Romeo đã tỏ tình với nàng Juliet trong kịch cổ điển của Shakespeare.
Về sau, tới thời kỳ lãng mạn của nhạc cổ điển, đa số các nhà soạn nhạc đã sử dụng chữ “sérénade” của Pháp thay vì “serenata” của Ý, đồng thời nội dung cũng như hình thức của “sérénade” đã được nới rộng.
Về nội dung, “sérénade” có thể để tặng người yêu, bạn thân, hay một người nào đó ngang hàng, hoặc vai vế thấp hơn, mà mình quý mến.
Về hình thức, “sérénade” có thể là một ca khúc êm đềm, một nhạc khúc đơn giản – như trường hợp bản Sérénade của Schubert, cũng có thể là một bản giao hưởng ngắn – như trường hợp bản Sérénade của Mozart có tựa đề “Eine Kleine Nachtmusik” (Tiểu dạ khúc) mà chúng tôi đã nhắc tới trong bài trước. Với ý nghĩa, nội dung ấy, sérénade thường được trình diễn lúc chiều tối.
Theo Von Hellbourn, một người bạn thân và cũng là người viết tiểu sử Schubert, thì bản Sérénade đã được nhạc sĩ sáng tác năm 1826, 2 năm trước khi qua đời.
Hôm ấy là một buổi chiều Chủ Nhật êm ả trong công viên Zum Biersack của thành Vienne. Sau một cuộc đi dạo, Schubert và các bạn vào quán cà-phê ngoài trời trong công viên. Tại đây, một người bạn của Schubert đang ngủ gục, với cuốn sách đặt trên bàn. Schubert tiến tới cầm cuốn sách lên, lật trang và vô tình đọc được một câu thơ, liền buột miệng: “Ước gì có được một tờ giấy viết nhạc” – tức giấy có kẻ hàng sẵn để ghi nốt nhạc.
Nghe Schubert nói thế, một người bạn nhanh trí lấy một tờ hóa đơn tính tiền, kẻ vội những hàng viết nhạc lên mặt sau, rồi đưa cho Schubert.
Ngay trong buổi chiều hôm ấy, Franz Schubert đã để lại cho hậu thế bản sérénade bất hủ.
Trước năm 1975, bản Sérénade của Schubert đã được Phạm Duy viết lời Việt với tựa “Dạ khúc”.
Năm 1928, tình trạng sức khỏe của Schubert ngày càng trở nên đáng ngại, với các triệu chứng giống như bệnh thương hàn. Mùa hè năm ấy, bạn bè của nhạc sĩ đã thỉnh được quan ngự y Ersnt Rinna, một vị danh y đương thời, tới chẩn đoán, và được ông cho biết Schubert sẽ không qua khỏi mùa đông này.
Thật vậy, tới đầu tháng 11, Schubert bị liệt giường, nhức đầu, lên cơn sốt và nôn mửa liên tục. Tới ngày 19 tháng 11 năm 1828, ông qua đời tại căn gác của người em trai ở thành Vienne, khi mới 31 tuổi.
So với các nhạc sĩ lừng danh khác của nền nhạc cổ điển, Franz Schubert không chỉ chết trẻ nhất, mà còn sống lận đận nhất. Cả đời, ông chưa bao giờ tìm được một việc làm chính thức, chưa bao giờ có một chỗ ở riêng cho mình, và thường phải sống nhờ vào trợ cấp của cha mẹ, sự giúp đỡ của bạn bè; và cuối cùng, nhà nhạc sĩ ấy cũng không có được một người tình đưa tiễn ông về nơi an nghỉ sau cùng.
Theo ước nguyện, Franz Schubert được mai táng bên cạnh mộ của Beethoven – người mà ông hằng tôn sùng – trong nghĩa trang Wahring ở ngoại ô thành Vienne.
Sáu mươi năm sau, tức năm 1888, Schubert và Beethoven được cải táng, đưa về Nghĩa trang trung ương Zentralfriedhof, nơi có mộ phần của hai nhà soạn nhạc lừng danh khác: Johann Strauss, tác giả bản Le Beau Danube Bleu, tức Dòng sông xanh, và Johannes Brahms, tác giả bản Célèbres Valses, tức Mối tình xa xưa.
Năm 1925, để chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày Franz Schubert qua đời, chính quyền thành Vienne đã cho cải biến nghĩa trang cũ ở làng Wahring thành “Công viên tưởng niệm Franz Schubert”. Huyệt mộ ngày trước nay được đánh dấu bằng một pho tượng bán thân của ông. Còn tại ngôi mộ mới của ông ở nội thành, thi sĩ Franz Grillparzer đã ghi lên mộ bia hàng chữ:
“Nơi đây, âm nhạc đã vùi chôn một kho tàng, và biết bao ước vọng”.
* * *
Viết thêm về “AVE MARIA”
Nếu không kể những bản Ave Maria mang tính cách thuần tôn giáo, người ta được biết có ít nhất là ba bản Ave Maria của “người đời”, trong đó nổi tiếng nhất là “Ave Maria của Schubert” (đã nhắc tới trong bài) và “Ave Maria của Bach/Gounod”.
Bản Ave Maria của Bach/Gounod ra đời năm 1859 (34 năm sau bản Ave Maria của Schubert – tức “Ellens’ Third Song”). Ngày ấy, nhà soạn nhạc người Pháp Charles Gounod đã lấy một khúc nhạc của Johan Sebastian Bach viết trước đó 137 năm, sửa đổi lại cho phù hợp, rồi lồng lời kinh “Ave Maria” bằng tiếng La-tinh vào.
Kết quả, hậu thế đã có thêm một bản Ave Maria bất hủ.
Với những người thưởng thức nhạc cổ điển có trình độ cao, nét nhạc của bản “Ave Maria của Bach/Gounod” được đánh giá là trang trọng, thanh thoát hơn, vì mang âm hưởng của thời kỳ tiền cổ điển, tức Baroque era, trong khi bản “Ave Maria của Schubert”, sáng tác vào đầu thời kỳ lãng mạn, thì dễ nghe, dễ cảm, và dễ hát hơn hơn.
Vì thế, nếu tính chung tất cả mọi thành phần nghe nhạc và hát nhạc cổ điển thuộc mọi trình độ, bản “Ave Maria của Schubert” được xem là phổ biến hơn.
Vào thuở xa xưa, bản Ave Maria của Bach/Gounod thường được hát trong hôn lễ, còn bản Ave Maria của Schubert thường được hát trong tang lễ. Nhưng càng về sau càng có nhiều người sử dụng Ave Maria của Schubert trong hôn lễ; và hiện nay, theo một danh sách 10 ca khúc được ưa chuộng nhất trong hôn lễ được phổ biến trên Internet, Ave Maria của Schubert đứng hạng nhất, còn Ave Maria của Bach/Gounod đứng hạng tư.
Nhưng dù sử dụng bản Ave Maria của Schubert hay Ave Maria của Bach/Gounod, cũng cần biết quy tắc của Thiên chúa giáo (Công giáo, Tin lành, hay bất cứ hệ phái nào có tổ chức nghi thức hôn phối trong thánh đường).
Thông thường, một lễ cưới trong thánh đường gồm có 3 phần: (1) Prosession (cô dâu từ cuối nhà thờ tiến lên) – (2) Ceremony (buổi lễ hôn phối) – (3) Resession (đôi tân hôn rời vị trí).
Theo đúng quy tắc, bản Ave Maria chỉ được hát TRONG BUỔI LỄ vào một khoảng thời gian im lặng nào đó SAU KHI nghi thức hôn phối đã được cử hành. Còn trong phần Prosession (cô dâu tiến lên), đã có những khúc nhạc dành riêng, được soạn theo nhịp bước của cô dâu, và trong phần Resession (đôi tân hôn rời vị trí) thì sử dụng những nhạc khúc, ca khúc viết về sự vui mừng, mà một trong những bản phổ biến nhất, ý nghĩa nhất là “Ode to Joy” của Beethoven.
Trường hợp muốn du di, có thể sử dụng bản Ave Maria cho phần Prosession, nhưng dứt khoát không thể sử dụng cho phần Resession, bởi vì Ave Maria là một bài kinh (kinh Kính Mừng), không thể sử dụng như một ca khúc “mãn tuồng”!
(Hoài Nam)