21. Bài thơ ĐÔNG DẠ CHƯỚC TỬU :
冬夜酌酒 ĐÔNG DẠ CHƯỚC TỬU
軒前楚楚席群英, Hiên tiền sở sở tịch quần anh,
攜酒看來俗慮清。 Huề tửu khan lai tục lự thanh.
可看閑階一片地, Khả khán nhàn giai nhất phiến địa,
竹篩不礙月花明。 Trúc si bất ngại nguyệt hoa minh.
* Chú thích :
- Đông Dạ Chước Tửu 冬夜酌酒 : là Đêm Đông Chuốc Rượu, là Tiệc rượu đêm đông.
- Sở Sở 楚楚 : là Sặc sở, đẹp đẽ sạch sẽ.
- Tịch 席 : là chiếc chiếu, là chỗ ngồi; là bàn tiệc. Động từ là Đãi tiệc.
- Anh 英 : là Hình cây cỏ mới mọc, chỉ sức sống mạnh mẽ đang lên; từ đó ANH có nghĩa là thành phần ưu tú, nên Quần Anh : là những người ưu tú giỏi giang.
- Huề Tửu 攜酒 : là Mang rượu, ở đây là Nâng ly rượu.
- Lự 慮 : là Tư lự, là suy nghĩ, là mong muốn; nên Tục Lự Thanh 俗慮清 : Thô tục tầm thường mà muốn làm ra vẻ thanh cao.
- Trúc Si 竹篩 : là Cái sàng đan bằng tre, ở đây chỉ Bụi trúc, Khóm trúc như cái sàng để sàng lọc ánh trăng.
* Nghĩa bài thơ :
Chuốc Rượu Đêm Đông
Trước mái hiên áo quần rực rỡ như toàn là những thành phần ưu tú đang dự tiệc, nâng ly rượu lên, xem ra ai thô tục mấy cũng muốn trở nên thanh cao. Nhưng hãy nhìn xem cái mảnh đất bên thềm trống kia, khóm trúc như là cái sàng bằng tre không làm trở ngại cho ánh trăng đã được sàng lọc chiếu lên trên mặt đất ở đó.
Nhà vua muốn ngụ ý gì và muốn nói hay muốn gởi gắm gì đây ?!...
* Diễn Nôm :
CHUỐC RƯỢU ĐÊM ĐÔNG
Trước hiên rực rỡ tiệc quần anh,
Nâng chén đều mong tục hóa thanh.
Hãy ngắm thềm không bên đất trống,
Ánh trăng sàng lọc đã rành rành !
Lục bát :
Trước hiên tiệc đãi anh hào,
Chén nâng dù tục ra màu thanh cao.
Kìa xem thềm trống lao xao,
Ánh trăng sàng lọc khác nào bóng hoa.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
22. Bài thơ ĐÔNG NGẠC CHÂU :
東鄂洲 ĐÔNG NGẠC CHÂU
詩成山月上, Thi thành sơn nguyệt thướng,
睡覺野雲飛。 Thụy giác dã vân phi.
花落殊多意, Lạc hoa thù đa ý,
風前點客衣。 Phong tiền điểm khách y !
- Đông Ngạc Châu 東鄂洲 : là Bãi Đông Ngạc, là bãi trên sông Hồng thuộc vùng Chèm, Vẽ, khu vực gần cầu Thăng Long của Hà Nội ngày nay.
- Thướng 上 : Động từ là Lên, là Mọc. khi đọc là THƯỢNG (Hình dung từ) là Trên. (Danh từ) là phía trên, bên trên.
- Dã 野 : Cánh đồng ở ngoại ô, là hoang dã; nên Dã Vân 野雲 là Mây bay ngoài đồng nội, là Mây ngàn.
- Thù 殊 : là Đặc thù, khác thường, là rất đặc biệt.
- Điểm 點 : Danh từ là Chấm; Động từ là Chấm phá, là Điểm xuyết.
* Nghĩa bài thơ :
BÃI ĐÔNG NGẠC
Khi thơ làm xong thì trăng cũng đã mọc lên đầu núi, lúc ngủ dậy thì mây ngàn cũng đã bay đi. Nhìn hoa rụng như mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, bay trước gió như điểm xuyết thêm lên tà áo khách đến thăm.
Bãi Đông Ngạc trên sông qủa là nên thơ nhàn nhã như cảnh thần tiên ! Với cảnh trăng lên, với mây ngàn gió núi làm cho hoa rụng bay cả lên mình của khách viếng thăm. Nhà vua quả có tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp của thiên nhiên vô tận !
* Diễn Nôm :
ĐÔNG NGẠC CHÂU
Thơ xong trăng núi mọc,
Ngủ dậy mây ngàn bay.
Hoa rụng như có ý,
Chạm áo khách gió lay !
Lục bát :
Thơ xong trăng núi vừa lên,
Vươn vai tỉnh giấc mây trên cánh đồng.
Hoa rơi như cũng có lòng,
Bay lên áo khách bềnh bồng gió lay !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
23. Bài thơ ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG :
東巡曉發禁江 ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG
千丈暖光浮羽旆, Thiên trượng noãn quang phù vũ bái,
六師喜色挾狐貂。 Lục sư hỷ sắc hiệp hồ điêu.
日昇暘谷雲容薄, Nhật thăng dương cốc vân dung bạc,
目極江山萬里遙。 Mục cực giang sơn vạn lý diêu.
* Chú thích :
- ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG 東巡曉發禁江 : Đi tuần phía đông, buổi sáng xuất phát từ sông Cấm.
- Vũ Bái 羽旆 : là Loại cờ phướng cắm trên xe hoặc thuyền khi đi xa, có tua trang trí như hình đuôi chim én rủ xuống.
- Lục Sư 六師 : là Biên chế của quân đội đời nhà Chu. Theo sách "Chu Lễ 周禮" Lục Sư còn gọi là Lục Quân 六軍, được tổ chức như sau :"5 người là một NGŨ, 5 NGŨ là một LƯỠNG, 4 LƯỠNG là một TỐT, 5 TỐT là một LỮ, 5 Lữ là một SƯ, 5 SƯ là một QUÂN. Sau dùng rộng ra chỉ quân đội do nhà Vua chỉ huy thì gọi là LỤC SƯ.
- Hỷ Sắc 喜色 :là Khí sắc vui vẻ, ở đây chỉ sự Hồ Hỡi của binh lính.
- Hiệp 挾 : có bộ THỦ 扌bên trái, có nghĩa là Kẹp, là Gắp; trong câu có nghĩa là Ỷ vào, Vựa vào.
- Hồ Điêu 狐貂 : là một loại chồn cáo, lông rậm có đuôi dài, da dùng làm áo mặc rất ấm. Xưa hay dùng để may áo cho binh lính ở vùng xa xôi lạnh lẽo, gọi là Điêu Cẩm 貂錦, nên Điêu Cẩm còn dùng để chỉ binh lính tinh nhuệ ở vùng biên tái, như trong bài Lũng Tây Hành của Trần Đào đời Đường :
誓掃匈奴不顧身, Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
五千貂錦喪胡塵。 Ngũ thiên ĐIÊU CẨM táng Hồ trần.
Có nghĩa :
Thề quét Hung Nô chẳng nệ thân,
Năm ngàn CHIẾN SĨ vùi thân đất Hồ.
Nên...
Hồ Điêu trong câu thơ là chỉ binh lính của nhà vua mặc Áo giáp rực rỡ trong buổi đi tuần.
- Mục Cực 目極 : còn nói là CỰC MỤC, là Mút tầm con mắt.
* Nghĩa bài thơ :
Buổi Sáng Xuất Phát Từ Sông Cấm Khi Đi Tuần Ở Phía Đông.
Ánh nắng ấm áp vươn lên cả ngàn trượng toả trên các cờ phướng cắm trên quân thuyền của vua đi, Lục quân hồ hỡi rực rỡ với áo hồ điêu nghiêm chỉnh. Mặt trời mọc lên trong sơn cốc rực nắng nên sắc mây như cũng mỏng và nhẹ hơn, ta có thể nhìn mút tầm mắt ngắm giang sơn muôn dăm hiện ra ở chốn xa xa !
Quang cảnh lục quân với đội thuyền của nhà vua đi tuần buổi sáng thật hào hùng phấn khởi !
* Diễn Nôm :
ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG
Ngàn trượng nắng hanh rợp bóng cờ,
Lục quân hồ hỡi áo điêu cơ.
Nắng lên rực núi mây cao vút,
Mút mắt non sông vạn dặm chờ !
Lục bát :
Nắng hanh ngàn trượng rợp cờ,
Lục sư khoát áo điêu cơ oai hùng.
Nắng lên mây núi chập chùng,
Non sông muôn dặm khuất tầm mắt ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
東巡過安老 ĐÔNG TUẦN QUÁ AN LÃO
窅窅關河路幾千, Diểu diểu quan hà lộ kỷ thiên,
北風有力送歸船。 Bắc phong hữu lực tống quy thuyền
江含落日搖孤影, Giang hàm lạc nhật dao cô ảnh,
心逐飛雲息萬緣。 Tâm trục phi vân tức vạn duyên
霜露霝時無綠樹, Sương lộ linh thì vô lục thụ,
桑蔴深處起青煙。 Tang ma thâm xứ khởi thanh yên.
海山離異窮逾目, Hải sơn ly dị cùng du mục,
只見雄雄亙碧天。 Chỉ kiến hùng hùng cắng bích thiên.
- AN LÃO 安老 : tên một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, nay thuộc ngoại thành của Hải Phòng.
- DIỂU DIỂU 窅窅: là Xa Xôi, Diệu Dợi.
- BẮC PHONG HỮU LỰC 北風有力 : là Gió Bấc GIÀ nên thổi VÙ VÙ rất mạnh.
- GIANG HÀM LẠC NHẬT 江含落日 : là Con sông như NGẬM lấy cái mặt trời lặn. Chỉ cảnh mặt trời chen lặn ở ven sông, nửa ở phía trên chân trời nửa in bóng xuống đáy nước, thật là thi vị !
- TÂM TRỤC PHI VÂN 心逐飛雲 : là Lòng ĐUỔI theo những áng mây bay, Ý chỉ Thả hồn theo mây trời về cỏi xa xăm !
- TANG MA 桑蔴 : TANG là Cây Dâu Tằm ăn. MA là Câ ĐAY, cây GAI, miền Nam gọi là Cây BỐ. Dâu Tằm ăn để con tằm cho kén, kéo tơ dệt lụa. ĐAY để kéo thành chỉ dệt thành Vải Đay, Vải Bố.
- LY DỊ 離異 : LY là Rời, DỊ là Khác. Nên LY DỊ : là Phân biệt một cách rõ ràng ! Vợ chồng LY DỊ là Rời nhau ra mạnh ai nấy ở nấy sống.
- CÙNG DU MỤC 窮逾目 : CÙNG là hết, DU là Vượt qua, MỤC là Con mắt.
CÙNG DU MỤC là Vượt qua khỏi tằm mắt, có nghĩa là Nhìn mút con mắt.
- CẮNG có 2 cách viết như sau : 亘, 亙 : Khoảng cách từ đầu nầy đến đầu kia (kể cả không gian và thời gian). Ví dụ :
* CẮNG CỔ 亙古 : là từ Xưa đến nay.
* CẮNG MIÊN SỔ LÝ 亙綿數里 : Kéo dài đến mấy dặm.
* Nghĩa bài thơ :
TUẦN DU PHÍA ĐÔNG NGANG QUA XỨ AN LÃO
Quan hà diệu dợi xa xôi mấy ngàn dặm đường, Gió bấc đã thổi rất mạnh như để đưa thuyền về lối cũ. Mặt trời chen lặn soi bóng trên dòng sông làm lung linh chiếc bóng cô độc của ta, và lòng ta thì như đang dõi theo những đám mây trời xa xa nên tắt lịm hết muôn ngàn tạp niệm. Sương móc xuống nhiều làm trắng xóa cả rừng cây xanh, và thấp thoáng trong rừng dâu đay một làn khói xanh ỏng ẹo bốc lên. Trong tầm nhìn mút con mắt chỉ thấy núi và biển phân biệt rõ ràng in lên trên nền trời xanh vô tận thật nguy nga hùng vĩ !
* Diễn Nôm :
ĐÔNG TUẦN QUÁ AN LÃO
Diệu vợi quan hà đường vạn dặm,
Bắc phong vi vút thổi thuyền về.
Lung linh chiếc bóng sông vờn nắng,
Lơ lửng riêng lòng dạ gởi mây.
Móc úa cây cành sương trắng xóa,
Dâu đay rừng phủ khói mờ bay,
Chập chùng hùng vĩ dôi tầm mắt,
Chỉ thấy trời xanh núi biển bày !
Lục bát :
Đường xa diệu vợi quan hà,
Dục dù gió bấc thuyền xa quay về,
Nửa vành mặt nhựt trầm mê,
Lòng theo mây nổi tan về hư không.
Sương rơi phủ trắng rừng thông,
Vườn dâu đay rậm mịt mùng khói lam.
Chia hai biển núi ngút ngàn,
Chập chùng hùng vĩ trong làn trời xanh.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
25. Bài thơ ĐÔNG TUẦN TRÚ ĐỒNG CẢNG :
東巡駐潼港 ĐÔNG TUẦN TRÚ ĐỒNG CẢNG
海濱魚似土, Hải tân ngư tự thổ,
市上米如金。 Thị thượng mễ như câm (kim).
歸鳥參差沒, Qui điểu sâm si một,
悠悠日影沉。 Du du nhựt ảnh trầm !
- Đông Tuần Trú Đồng Cảng 東巡駐潼港 : Đi tuần phía đông, dừng lại ở Đồng Cảng.TRÚ 駐 : là Trú đóng, ở đây chỉ Dừng chân, Nghỉ tạm.
- Hải Tân 海濱 : là Bờ biển, Bãi bễ.
- Câm 金 : Chữ KIM là Vàng, mượn đọc là CÂM cho ăn VẬN với câu Cuối .
- Sâm Si 參差 : là So le, cao thấp không đều nhau; ở đây chỉ Rải rác, lẻ tẻ.
- Du Du 悠悠 : là Dằng dặc, Vời vợi, Xa xăm.
* Nghĩa bài thơ :
Đi Tuần Ở Phía Đông, Dừng Chân Ở ĐỒNG CẢNG
Trên bãi biển thì cá tựa như đất (vì qúa nhiều nên rất rẻ), còn ở trên chợ thì gạo qúy tựa vàng (vì gần bờ biển không có ruộng lúa). Chim chóc rải rác lần lượt bay về tổ rồi dứt hẵn, trong khi bóng mặt trời cứ từ từ lặng lẽ chìm vào đáy nước.
Cảnh chợ chiều buồn bã vắng lặng trên bãi Đồng Cảng khi chim chiều bay về tổ và mặt trời từ từ lặn xuống biển.
* Diễn Nôm :
ĐÔNG TUẦN TRÚ ĐỒNG CẢNG
Bờ biển cá như đất,
Trên chợ gạo tựa vàng.
Chim chiều dần bay khuất,
Dằng dặc bóng chiều tàn !
Lục bát :
Bờ biển cá tựa đất thôi,
Như vàng trên chợ gạo thời đắt thay.
Chim chiều rãi rác bay bay,
Bóng chiều chầm chậm biển đoài chìm sâu !
Hẹn bài viết tới !
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (6)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức