Hình hề Xuân Phát và hề râu Thanh Việt (có luôn chú thích) trên báo Minh Tinh 1972.
Hoa hậu áo tắm Ngọc Tuyết làm khổ 5 anh hềVừa mới được đóng phim chung với người đẹp, 5 chàng Tùng Lâm, Xuân Phát, Văn Chung, Thanh Hoài, Thanh Việt đã kèn cựa nhau và ló mòi “dê”! Phàm đã là nghệ sĩ, không ít thì nhiều, thế nào cũng phải có tí máu “35.” Năm chàng hề làm sao tránh khỏi cái định luật đó?
Mà thực ra, cả 5 chàng rất ư là đào hoa, mỗi chàng đều có vợ đẹp, mà đi đến đâu cũng đều có “mèo” để tù ti tú tí nữa, mới chết chứ!
Trước đấy mỗi chàng hoạt động một nơi, nên không sao. Bắt đầu từ lúc đụng đầu nhau ở sàn quay “Năm Chàng Hiệp Sĩ Bất Ðắc Dĩ” thì năm chàng bỗng nhiên đổi tính, giở trò kèn cựa nhau, chàng nào cũng muốn hạ các đối thủ của mình để giành quyền ưu tiên.
Có gì đâu, chẳng qua vì ở sàn quay này, có nàng hoa hậu áo tắm Ngọc Tuyết đẹp ơi là đẹp, da thịt làm bằng chất gì không biết mà trắng nõn trắng nà, ngắm suốt ngày không biết chán. Bởi vậy, cả 5 chàng cứ thích gần người đẹp, mà gần riêng cơ, chứ không thích có sự hiện diện của các tình địch.
Người đẹp Ngọc Tuyết thì lại khôn quá trời, cặp mắt liếc đã đổ quán xiêu đình rồi, mà cái miệng lại còn khéo nữa. Với chàng nào, nàng cũng ậm ừ hứa hẹn, thành ra cả 5 chàng đều mê tơi, mỗi lần đến sàn quay đều ôm theo một đóa hoa “lay ơn” để tặng người đẹp.
Hoa hậu áo tắm, nữ tài tử Ngọc Tuyết
Tứ quái Sài Gòn
Nữ nghệ sĩ Thanh Nga và hề Bảo Quốc. Hình chụp thời thập 1960
Những “danh hiệu” một thời vang bóng: Bài 13: “Hề râu” Thanh Việt
Khán giả các chương trình Đại nhạc hội trong hai thập niên 60, 70 khi nhắc đến Hề nhựa Thanh Hoài hoặc Hề mập Khả Năng thì người ta nhắc ngay đến Hề râu Thanh Việt. Thủ pháp gây cười độc đáo của Thanh Việt chính là… bộ râu của mình. Ông có bộ râu quặp vô cằm, cái miệng móm rất có duyên, cặp mắt nheo nheo, giọng nói ranh mãnh. Cái tài của ông là làm cho bộ râu nhúc nhích, chỉ cần nhìn bộ râu của Thanh Việt “hoạt động”, khán giả cũng có thể cười rần rần…
Hề râu Thanh Việt (trái) và Hề mập Khả Năng
Tất nhiên, nghệ thuật hài của Thanh Việt không chỉ nhờ ở bộ râu mà có. Nhưng bộ râu mang đến cho Thanh Việt sức hút riêng, góp phần đưa chất hài của ông lên độ lôi cuốn khán giả cao hơn. Thanh Việt rất tâm đắc với danh hiệu Hề râu của mình, ông vẫn thường hay nói vui rằng: “Không có cực hình nào tôi sợ bằng bị cạo mất bộ râu này đi”.
“Chọc cười” rất trí thức
Hề râu Thanh Việt sinh năm 1939 tại Hóc Môn trong gia đình có đến 9 anh chị em. Trong đó, người anh thứ ba là soạn giả Kinh Luân viết vở tuồng nổi tiếng Lấp sông Gianh, các em kế là chuyên viên ánh sáng Thanh Sơn, tay trống Minh Phương, nhạc sĩ Phùng Trang. Khởi đầu cuộc đời nghệ thuật của Thanh Việt là theo người cha kế (nghệ sĩ Tám Huê) đi hát cho các đoàn hát nhỏ ở tỉnh, rồi về thành phố tình cờ gặp nhóm Tùng Lâm - Xuân Phát, ông tham gia vào nhóm này diễn các tiểu phẩm hài tự biên với tài “chọc cười” thiên phú. Tài năng của Thanh Việt bật sáng nhất là thời gian diễn nhiều vở cải lương trên Sân khấu Dạ Lý Hương, Thanh Minh Thanh Nga. Đặc biệt, Thanh Việt tham gia rất nhiều bộ phim, nổi tiếng nhất là thủ vai chính trong phim Triệu phú bất đắc dĩ của Hãng phim Mỹ Vân, ông đóng chung với Thanh Nga và nhiều danh hài khác.
Thanh Việt có khả năng sáng tạo bất ngờ, năm 1969, Hội Ái hữu nghệ sĩ tổ chức xuất hát gây quỹ để sửa chữa trụ sở và giúp các nghệ sĩ nghèo neo đơn tại Rạp Hào Huê với vở Đoạn tuyệt. Lúc đó, Hề Kim Quang đang điều trị bệnh phổi nên bà bầu Thơ nhờ Hề Minh bên Đoàn Hương Mùa Thu hát thế Kim Quang trong vai thầy pháp. Hề Minh bữa đó uống rượu quá chén, anh chạy xe honda tới rạp, dọc đường bị tai nạn phải nhập viện. Vở đã kéo màn hát, phải kiếm người đóng vai thầy pháp, bà Năm Sa Đéc đề nghị nhờ Thanh Việt diễn thế vai thầy pháp. Không kịp học tuồng nên Thanh Việt và bà Năm Sa Đéc quyết định sáng tạo một cách: thầy pháp không cần đọc bùa chú mà khán giả vẫn chấp nhận. Khi diễn đến lớp Loan (Thanh Nga) bồng con đi khám bác sĩ về, bà Năm Sa Đéc (vai bà Phán Lợi) là mẹ chồng đay nghiến, đòi rước thầy pháp trị bệnh cho cháu nội chớ không cho uống thuốc Tây. Ngọc Nuôi trong vai Bích, cô em chồng đanh đá, dẫn ông thầy pháp (Thanh Việt) vô nói: “Má, con rước ông thầy pháp ở xóm Sáu Lèo tới. Ổng nổi tiếng bắt ma, trừ tà trị bịnh hay lắm, ổng ở núi Tà Lơn mới hạ san đó má!”. Ông thầy pháp Thanh Việt, chắp tay xá xá bà Phán Lợi, rồi đưa cằm vểnh râu, nhướng nhướng chân mày. Khán giả thấy bộ điệu của Thanh Việt vỗ tay cười rần rần. Bà Năm Sa Đéc nói “mở đường” cho Thanh Việt: “Nè, ông thầy cứ thắp nhang khấn vái trong miệng, đăng đàn gọi hồn nhập xác cho cháu nội tôi hết bịnh. Khỏi phải vẽ bùa, đọc thần chú cho khan tiếng, nghe ông thầy!”.
Thanh Việt nói ngay: “Dạ, vậy thì tôi làm gấp đây, xong còn chạy qua cứu đám khác!”. Vậy là Thanh Việt đã giúp cho đêm diễn một “bàn thua trông thấy”. Hay trong vở Bạch Hải Đường, chỉ xuất hiện một lớp ngắn trong vai cai ngục nhưng khán giả vẫn nhắc vai diễn ấy cho đến bây giờ.
Hề nhựa Thanh Hoài cho biết: “Nếu như các danh hài khác thường “bay nhảy” nhiều đoàn thì Thanh Việt rất chung thủy, suốt 10 năm liền anh chỉ gắn bó cho Đoàn hát Dạ Lý Hương. Sau giải phóng anh mới chịu đi hát cho các đoàn khác. Nhóm hài của tôi và anh cũng tồn tại rất lâu, được khán giả yêu thích. Không ai có thể ngờ một người Nam - kẻ Bắc lại kết hợp ăn ý như vậy. Tôi rất phục tài năng cũng như đức độ của Thanh Việt. Chỉ tiếc rằng, anh ra đi quá sớm…”.
Nếu ai đã từng xem Thanh Việt diễn hài thì mới có thể hiểu được phần nào cái duyên gây cười của người nghệ sĩ tài hoa này. Ông có lối diễn hài tưng tửng, diễn như không diễn, tạo những tràng cười bằng các cử chỉ rất tự nhiên và tạo bất ngờ bằng ngôn ngữ. Thanh Việt có lối nói bỏ lửng giữa chừng để kéo dài sự chờ đợi phán đoán của khán giả, rồi bất ngờ dứt điểm bằng một câu “trật chìa” làm vỡ ra trận cười thoải mái cho khán giả. Thanh Việt đi sâu vào lối hài trí tuệ, duyên dáng, ngôn ngữ sạch sẽ, không dung tục. Ông cũng không lạm dụng thủ pháp ngoại hình như lé mắt, méo miệng, õng ẹo, hoặc mặc y phục phụ nữ “chọc cười” một cách dễ dàng.
Trong mắt hai “ đệ tử” ruột
Cũng giống như nhiều tài năng nghệ thuật khác, tài năng của Thanh Việt đã tạo nên ảnh hưởng nghề nghiệp sâu rộng đối với các nghệ sĩ đàn em. NSƯT Bảo Quốc rất yêu mến và tôn Thanh Việt làm “sư phụ”. NSƯT Bảo Quốc kể: “Năm 1972, sân khấu cải lương gặp khó khăn do ảnh hưởng của phim chưởng Hồng Kông, Đoàn Thanh Minh Thanh Nga tạm nghỉ, tôi và chị Thanh Nga sang cộng tác cho Đoàn Dạ Lý Hương, anh Thanh Việt cũng đang ở đoàn này nên tôi có dịp diễn chung và học hỏi anh rất nhiều điều về các thủ pháp diễn hài. Tôi tâm đắc với lối diễn hài thông minh, trong sáng của anh nên “quăng bắt” rất ăn ý. Ngoài ra, tôi cũng hay thay vai cho Thanh Việt những lúc anh bận việc đột xuất”.
Sau năm 1975, Thanh Việt hát cho Đoàn cải lương Sài Gòn 3, sau đó là Đoàn Cầu Ngang rồi cuối cùng là Đoàn Sông Hậu 1. Thời gian này, anh cũng truyền nghề cho một cây hài nổi tiếng hiện nay là Tấn Beo. Tấn Beo là con của “Hoàng đế đĩa nhựa” Tấn Tài nhưng vì không có làn hơi đặc biệt giống bố để làm kép chính nên chuyển qua làm hề. Tấn Beo kể: “Thanh Việt nổi tiếng là “sâu rượu” ngang với danh tiếng diễn hài nên ông nói vui với tôi “Muốn làm đệ tử tao thì phải biết nhậu”. Tôi học ở ông cách ứng xử nhạy bén theo tình huống để đưa khán giả vào trận cười thú vị. Tuy thích nhậu nhưng ông không hề bê tha, luôn tôn trọng nghề nghiệp, tôn trọng khán giả và nhiệt tình với đàn em muốn học nghề. Thời gian đầu, tôi bị “nhiễm” nét hài của ông nhưng dần dần tôi đã thoát ra khỏi cái bóng quá lớn đó để tạo nét riêng cho mình. Hàng năm vào các ngày giỗ tổ, Tết Nguyên đán tôi đều ra mộ thắp hương cho ông. Cho đến bây giờ, tôi cảm thấy mình đã không làm bất cứ điều gì cho ông phải hổ thẹn nơi chín suối…”.
Trong cuộc sống đời thường, Thanh Việt rất chân thật, thẳng thắn, ai cũng thương mến. Thấy ông uống rượu nhiều, có dấu hiệu không hay cho sức khỏe nên bạn bè khuyên ông bỏ rượu một thời gian. Nhưng rồi cái chết của ông được báo trước ở tuổi 50 (do bệnh xơ gan) để lại nhiều xót thương cho gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và thiệt thòi nhất vẫn là khán giả trẻ mất đi một cơ hội được thưởng thức một tài năng duyên dáng, độc đáo của làng hài Việt Nam.
Thanh Việt thường bảo với các nghệ sĩ đàn em của mình: “Diễn hài không phải trò đùa, phải tìm hiểu nghiên cứu tính cách nhân vật để tìm ra cách diễn hay nhất. Sáng tạo, ngẫu hứng không có nghĩa là cương ẩu, sử dụng ngôn ngữ tùy tiện. Không có gì buồn bằng mình diễn hài mà khán giả không cười, lại còn khó chịu…”.
Bài, ảnh: MINH TUYỀN
Nam Mai sưu tầm & tổng hợp