QUÁI KIỆT TRẦN VĂN TRẠCH (1924-1994) Phạm Anh Dũng

QUÁI KIỆT TRẦN VĂN TRẠCH (1924-1994) 

Phạm Anh Dũng

 

QUÁI KIỆT TRẦN VĂN TRẠCH (1924-1994)

Tân nhạc Việt Nam có nhiều những tình ca buồn, số lượng đến hàng ngàn bản nhạc. Khi nghe những bản nhạc buồn, con người cũng lắng hồn vào tiếng nhạc và có cảm giác buồn.    
Ngược lại khi nghe nhạc vui, tâm hồn người cũng mở rộng chào đón hân hoan. Những bản hùng ca lại làm khơi động những ý chí hào hùng, yêu nuớc. Nghe những bản du ca thấy muốn dấn thân làm việc xã hội. Những bản nhạc nhi đồng làm người nghe thấy tâm hồn trẻ lại.   
Một loại nhạc có thể nói khó sáng tác nhất là nhạc hài hước, loại nhạc nghe có thể vui đến bật tiếng cười. Nhạc hài hước Việt Nam có lẽ chỉ có độ chừng vài chục bản, do những nhạc sĩ thật đặc biệt sáng tác.
Một trong những người đó, một ngạc nhiên cho hầu như tất cả mọi người, là tác giả Trường Ca Hòn Vọng Phu. Chính Lê Thương là người đầu tiên viết nhạc hài hước Việt Nam với những bản nhạc Hòa Bình 48, Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Gòn…   
Nhưng nói đến chuyện viết nhạc hài hước và rồi tự đơn ca trình diễn lấy, nổi tiếng cả nước, trong lịch sử âm nhạc Việt Nam chỉ có một người: Trần Văn Trạch.

    Ca nhạc sĩ Trần Văn Trạch, tên thật là Trần Quang Trạch, sinh năm 1924 ở Mỹ Tho, sinh trưởng trong một gia đình toàn là những nhân vật có tiếng về Cổ Nhạc Việt Nam. Tuy trong gia đình có những nhân vật khoa bảng lỗi lạc về âm nhạc như anh ruột giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê, cháu ruột tiến sĩ âm nhạc Trần Quang Hải… Trần Văn Trạch phải nói được nhiều người Việt Nam biết đến hơn cả.   
Ông Trần Văn Trạch có khiếu âm nhạc từ nhỏ, biết nhiều về Cổ Nhạc, thông thạo đàn kìm và tỳ bà, hát Vọng Cổ rất “mùi”, nhưng lại thích Tân Nhạc hơn.   

Sau khi học xong trường Trung Học Mỹ Tho, Trần Văn Trạch bắt đầu với nghề thương mại, lập lò làm chén bán ở Vĩnh Kim nhưng không đuợc khá lắm.

    Năm 1945, ông Trần Văn Trạch bỏ nghề buôn bán, lên Sài Gòn “giang hồ” và tìm cách đi hát cho những phòng trà, vũ trường nhỏ.   
Đến khoảng năm 1947, nghệ sĩ Trần Văn Trạch bắt đầu trình diễn những bài hát hài hước. Những bản nhạc hài hước đầu tiên ông trình bầy là những bản sáng tác bởi nhạc sĩ Lê Thương đã kể ở trên.

    Nhưng về sau, vì nhu cầu trình diễn, ông Trần Văn Trạch đã tự sáng tác ra những bản nhạc hài hước để tự mình trình diễn lấy.   
Bản nhạc Anh Phu Xích Lô là sáng tác đầu tiên của ca nhạc sĩ Trần Văn Trạch:         
Có ai mà muốn đi tới Chợ Lớn         
Có ai mà muốn đi tới Chợ Mới         
Có ai mà muốn đi chóng cho mau tới         
Ê! Tôi xin mời lại đây…


      Những bài hát nổi tiếng ngày đó là Cái Đồng Hồ Tay, Cây Bút Máy, Anh Chàng Thất Nghiệp, Sở Vòi Rồng, Đừng Có Lo, Tôi Đóng Xi-Nê, Ba Chàng Đi Hỏi Vợ, Chiếc Ô-Tô Cũ… Bài nhạc nào của nhạc sĩ Trần Văn Trạch cũng làm người nghe cười… bể bụng. Thí dụ bài Tai Nạn Tê-lê-phôn:         
Từ đâu nạn đưa tới         
Gắn chi cái tê-lê-phôn         
Bởi tôi muốn làm tài khôn         
Khiến tôi muốn thành ra ma         
Không vào Chợ Quán, cũng ra Biên Hòa…


     Tuy vậy, không phải ông Trần Văn Trạch chỉ sáng tác nhạc hài hước.     
Chuyến Xe Lửa Mùng 5, kể chuyện đi thăm mẹ của một anh chàng. Đây là một bản nhạc lúc đầu nghe thấy có vẻ là nhạc hài hước, với những tiếng động của nhà ga, xe lửa… Nhưng đoạn cuối là một khúc thương ca, khi người về đến nhà mới biết mẹ đã qua đời.     
Một bản nhạc có cả hài hước pha lẫn chút triết lý là Khi Người Ta Yêu Nhau:         
Khi người ta yêu nhau         
Yêu trong lúc hai mươi tuổi đầu         
Thì không phải vì tiền đâu         
Nhưng mà chẳng được bao lâu… 
 

Những đoạn giữa nói về các tuổi ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi và:
          Khi người ta yêu nhau         
Yêu trong lúc bẩy mươi tuổi đầu         
Thì không phải vì tiền đâu         
Nhưng mà chẳng còn bao lâu.   
 

Hai câu “Nhưng mà chẳng được bao lâu” “Nhưng mà chẳng còn bao lâu” nghe có vẻ giống nhau. Nhưng suy nghĩ cho kỹ thấy hai ý nghĩa khác hẳn nhau và cho thấy Trần Văn Trạch là người có đầu óc, biết dùng chữ khá thâm thúy. Cái triết lý giản dị, có thể học được từ bài hát là nếu vì vấn đề tiền mà yêu nhau, thì đó không phải là tình yêu chân thật.

      Một bản nhạc phải nói hầu như ngày xưa người Việt Nam nào cũng phải biết đến, vì được ông hát đi hát lại mỗi tuần khi có xổ số tại rạp Thống Nhất, Sài Gòn và sau này trực tiếp truyền thanh qua đài phát thanh Sài Gòn. Tuần lễ nào người dân nước Việt ở khắp nơi đều nghe thấy tiếng người nghệ sĩ trình bầy bài này qua làn sóng điện. Đó là bài hát Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia, do Trần Văn Trạch viết và hát: 

Kiến thiết quốc gia     
Giúp đồng bào ta         
Xây đắp muôn người         
Được nên cửa nhà
          Tô điểm giang san         
Qua bao lầm than         
Ta thề kiến thiết         
Trong giấc mộng vàng
         Triệu phú đến nơi         
Năm muời đồng thôi         
Mua lấy xe nhà         
Giàu sang mấy hồi
          Kiến thiết quốc gia         
Giúp đồng bào ta         
Ấy là thiên chức         
Của người Việt Nam

          Mua số mau lên         
Xổ số gần đến
Mua số mau lên         
Xổ số… gần… đến..
.


     Một bản nhạc khác Trần Văn Trạch sáng tác không hài hước một chút nào cả là bản nhạc hùng mạnh Chiến Xa Việt Nam, bài được hát đi hát lại trong những dịp đài phát thanh cần chạy nhạc hùng như Ngày Quân Lực, Ngày Quốc Khánh… hay khi có… đảo chánh.

Tình ca Trần Văn Trạch chỉ thấy rất ít như Đêm Khuya Trên Đường Catina:
Trời khuya trên khắp bên đường Catinat
Người đi còn năm ba khách không nhà
Ngàn mây sao chiếu trên trời đầy mơ
Hàng cây lặng im nghe gió ru trong mơ…

     Ca sĩ Trần Văn Trạch cũng có hát những nhạc không hài hước và hát thật hay. Một thí dụ điển hình là bản Chiều Mưa Biên Giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã nổi tiếng sau khi chính do Trần Văn Trạch hát rất điêu luyện, với phần nhạc đệm từ một băng nhạc thu sẵn, của một ban nhạc bên Pháp. Lúc đó vào khoảng thập niên 1960, phương pháp trình diễn này coi như rất mới. Từ đây, đã phát sinh ra những loại hát có nhạc đệm sẵn (karaoké). Những bài tình ca của các nhạc sĩ khác ông hát cũng hay như Dạ Khúc (Nguyễn Mỹ Ca-Hoàng Mai Lưu).

      Ngoài sáng tác nhạc, hát ông còn là trưởng ban nhạc Sầm Giang của đài phát thanh Pháp Á, vào khoảng thập niên 1950. Ban này gồm những ca sĩ nổi tiếng đương thời như Linh Sơn, Tâm Vấn, Minh Diệu, Mạnh Phát, Tôn Thất Niệm…Trần Văn Trạch không chỉ hoạt động trong lãnh vực âm nhạc. Cũng trong thập niên 1950, khi điện ảnh vẫn còn là một môn nghệ thuật phôi thai ở Việt Nam, Trần Văn Trạch đã đóng cùng với nữ nghệ sĩ Kim Cương trong những phim như Lòng Nhân Đạo, Giọt Máu Rơi… và về sau còn làm đạo diễn điện ảnh cho những phim như Thoại Khanh Châu Tuấn (do Kim Cương và Vân Hùng đóng), Trương Chi Mỵ Nương (do Trang Thiên Kim và La Thoại Tân đóng)…

Nhưng có lẽ công trình ông đóng góp nhiều nhất cho nghệ thuật là những buổi Đại Nhạc Hội, với chuyện sáng tác và sự trình diễn những bản nhạc hài hước đã kể trên của ông.
     Danh từ Đại Nhạc Hội chỉ những buổi trình diễn ca nhạc xen kẽ với kịch, ảo thuật… tại các rạp hát do chính ông Trần Văn Trạch đặt ra và từ đó cũng do chính ông đã phát huy chủ trương, bắt đầu từ khoảng năm 1949. Dĩ nhiên một trong những tiết mục quan trọng nhất của những buổi Đại Nhạc Hội này là màn hát nhạc hài hước của chính Trần Văn Trạch.     
Nghe Trần Văn Trạch hát thấy vui và lạ. Ông có biệt tài bắt chước được những âm thanh như tiếng còi tầu xe lửa, tiếng xe hơi chạy, tiếng những cầm thú… Nhưng nếu chỉ nghe không cũng chưa thấy hết cái hay của ông, mà phải nhìn ông trình diễn mới thấy hết được cái linh hoạt của bài hát do ông sáng tác. Giọng hát mộc mạc, đơn giản của người Nam và cách trình diễn hoạt náo những bản nhạc hài hước của chính mình, đã làm nên tên tuổi Trần Văn Trạch, người được dân chúng Việt Nam gọi là Quái Kiệt.     
Với những chương trình Đại Nhạc Hội, Trần Văn Trạch đã trình diễn rất nhiều tại Sài Gòn. Danh tiếng của ông nổi như cồn. Ông đã đi khắp các tỉnh ở miền Nam và trước khi xẩy ra Hiệp Định Genève 1954 chia cắt đất nước, có lần ông ra cả miền Bắc trình diễn.     
Về sau có những người khác theo quan niệm như vậy của ông tổ chức Đại Nhạc Hội cũng rất thành công như nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, nữ nghệ sĩ Kim Cương…

Sau “Giải Phóng 1975”, Trần Văn Trạch bị kẹt lại Việt Nam và ông cũng vẫn đi lưu diễn thường xuyên cho đến khi qua Pháp năm 1977. Từ đó, ở Paris, ngoài việc mưu sinh hàng ngày, ông cũng vẫn có những hoạt động âm nhạc như băng nhạc và video Hài Hước Trần Văn Trạch, trình diễn nhạc ở Pháp hay ở Úc, Hoa Kỳ… và hoạt động xã hội nhất là trong những buổi hát giúp quyên tiền cho những con tầu về lại biển Đông vớt người Việt tỵ nạn vượt biển.

Năm 1994, nghệ sĩ Trần Văn Trạch qua đời tại Paris, vì bệnh ung thư gan. Nhớ lại hình ảnh ngày xưa của người nghệ sĩ quá cố, có dáng dấp giang hồ với mái tóc dài và phong trần, lái chiếc xe mui trần cũ kỹ và bụi bậm, đang thân thiện hiền hòa vẫy chào mọi người ở đường phố Sài Gòn, phải công nhận một điều: ca nhạc sĩ Trần Văn Trạch, người có một không hai trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, quả là một Quái Kiệt tài hoa, trong tâm tưởng của mọi người dân Việt mãi mãi… 

Phạm Anh Dũng
Tháng 9, năm 2000
Santa Maria, California, USA

 
 
Trần Văn Trạch & Việt Hùng https://youtu.be/_ItPZdtsNbU
Trần Văn Trạch – Tê Lê Phôn – Thu Âm Trước 1975 https://youtu.be/kt-raWHjMU8
Xe Lửa Mùng 5 – Trần Văn Trạch https://youtu.be/V4X6TH7Etr0
Trần Văn Trạch – Ba Giờ Khuya – Thu Âm Trước 1975 https://youtu.be/iR157-oVKmY
Đồng Hồ Đeo Tay (Trần Văn Trạch) / Trần Văn Trạch (Dĩa hát Tân Thanh TT-67 – Pre 1975) : https://youtu.be/SsaR0YaNGIg
Trần Văn Trạch – Chiều Mưa Biên Giới – Thu Âm Trước 1975 : https://youtu.be/WQGGGMEOcu8
Mùa Thu Chết – Trần Văn Trạch (pre 75) https://youtu.be/iAop3usHNAk
Trần Văn Trạch – Không (Nguyễn Anh Chín) https://youtu.be/QuoCSHFUr6w
Con Thuyền không Bên (Đặng Thế Phong) – Trần Văn Trạch https://youtu.be/-oqlEXaD1h4
Tà Áo Tím (Hoàng Nguyên) – Trần Văn Trạch https://youtu.be/CYZqRCSfsNY
Sầm Giang Tái Ngộ 03 – Trần Văn Trạch – Hài hước https://youtu.be/HD5zURWzb8s
MC VIET THAO- QUÁI KIỆT TRẦN VĂN TRẠCH- VŨ TRƯỜNG RITZ- 1993 https://youtu.be/5uXar7gBJbQ
 
Phạm Anh Dũng 
 
********

giáo sư, nhạc sĩ Trần Văn Khê: Viết về em tôi, Trần Văn Trạch

Viết về em tôi, Trần Văn Trạch

 

Bài viết của giáo sư, nhạc sĩ Trần Văn Khê viết lúc sinh thời, kể về những kỷ niệm xúc động với cố nghệ sĩ Trần Văn Trạch, là người em thân thiết và vô cùng gần gũi của ông.

Con tôi Trần Quang Hải đã viết tiểu sử rất đầy đủ và chính xác về chú ba của Hải. Tôi chỉ thêm vài chi tiết về em tôi mà ít có người biết và hôm nay cũng lần đầu tôi mới ghi lại thành văn bản.

Tên của Trạch trong gia đình là “Khê em”

Khi Trạch mới sanh, cả nhà đều vui mừng. Ông nội tôi muốn đặt tên con cháu đều có bộ Thủy nên cha tôi tên Triều là dòng nước, tôi tên Khê là khe suối, em tôi tên Trạch là ao, đầm. Nhưng từ lúc lên một, mỗi khi trong nhà có ai gọi em tôi: Trạch ơi! là con cháu của bà cụ láng giềng trùng tên, thấy khó chịu, nên qua xin ông nội tôi đặt tên khác cho chú bé Trạch, để bà khỏi bị kêu réo tên bà. Cả nhà rất khó nghĩ, tên đã ghi trong sổ bộ đời. Cậu Năm tôi, ông Nguyễn Tri Khương, đến bàn với ông tôi, nhắc lại lịch sử bên Trung quốc dưới triều nhà Tống có hai anh em ruột, văn hay chữ tốt, thi cùng một khoá, đều đậu Tiến sĩ, và ra làm quan trong một triều. Trong nước ai cũng quí tài của hai anh em nên gọi anh là Đại Tống, em là Tiểu Tống. Nay muốn kiêng tên bà cụ láng giềng, cậu Năm tôi đề nghị gọi tôi là Khê Anh và Trạch là Khê Em. Ông nội tôi bằng lòng và từ ngày đó, trong gia đình tôi và cả làng Vĩnh Kim, ai nấy đều gọi chúng tôi bằng hai tên Khê anh và Khê em.

Tuy chúng tôi cách nhau 3 năm nhưng không rời nhau, như anh em sinh đôi. Tối đi ngủ, sáng thức dậy một lượt, cùng ăn lót lòng giống nhau, một gói bắp nấu, một gói xôi đậu hay xôi nếp than có dừa nạo muối mè. Mỗi buổi ăn, ngồi gần nhau, đi tắm sông, tập đi xe đạp, học võ Thiếu Lâm với anh ba Thuận con của cậu năm Khương, cả khi đi tiểu, đi tiêu cũng đều cùng một lúc.

Nghe chuyện đời xưa

Mỗi tuần, cậu năm Khương rước chúng tôi vô ở chơi trong nhà cậu năm cả ngày, từ sáng đến tối, đêm ngủ lại, nghe cậu Năm tôi thổi sáo, và thuật cho chúng tôi nghe những điểm đáng nhớ trong thời thơ ấu của chúng tôi, hoặc thuật chuyện đời xưa, chuyện Nhị thập tứ hiếu. Qua tiếng nói của cậu Năm, chúng tôi được thấy Khổng Tử gặp Hạng Thác, nghe tiếng sáo Trương Lương làm tan binh Hạng Võ, theo Quan Công quá ngũ quan, trảm lục tướng, qua năm cửa ải chém đầu sáu tướng, làm anh em tôi đi ngang nhà nào có thờ Quan Công là chúng tôi ngừng lại quay vào nhà bái tổ theo nghề võ, cả làng rất khen Khê anh, Khê em biết kính “ông Bổn”.

11 tuổi Trạch đã biết ra câu đối

Cậu Năm lại dạy anh em tôi đối chữ, đối ý, đối câu. Đầu tiên dạy chúng tôi phải biết đối một chữ, bình đối với trắc, màu đối với màu, như “vàng” đối với “đỏ” hay “tím”, “trắng” đối với “đen”, số đối với số, “năm” đối với “bốn”, “bảy” hay “tám”, danh từ đối với danh từ, “trời” đối với “đất”, “sông” đối với “núi”, động từ đối động từ, “đi” đối với “chạy”, “lên” đối với “xuống”. Rồi đến hai chữ như “vàng khè” đối với “đỏ hoét”, “trời biển” đối với “núi sông”.

Cậu Năm lại dạy cho chúng tôi biết những câu đối Việt Nam trong đó có những cách “chơi chữ”, như câu

Ruồi đậu mâm xôi, mâm xôi đậu, Kiến bò dĩa thịt, dĩa thịt bò

Hay “nói láy”, như “Ông mượn cháu, đi Giồng dứa, mua dừa giống về ươn mộng” “Ông mượn, ươn mộng; giồng dứa, dừa giống”.

Đối lại:

“Chồng sai vợ, đi Chợ Thủ kêu chủ thợ về chày sông”

“Chồng sai, chày sông, Chợ Thủ, chủ thợ”

Cậu Năm dạy khi người ta ra câu đối Đông Tây, mình có thể đối Nam Bắc. Một hôm cậu năm ra câu đối:

“Cỡi máy bay, bay vòng Đông Tây Nam Bắc” .

Không ai đối được, cậu Năm đối:

“Đi tàu lặn, lặn mãn Xuân, Hạ, Thu Đông”.

Cậu Năm lại ra một câu rất khó đối:

“Thằng đàng Thổ, nằm dưới đất, ăn thục địa”

Thổ là đất, địa cũng là đất lại nằm dưới đất.

Lẽ tất nhiên không ai đối được. Chính cậu Năm tìm ra câu đối:

“Chà Châu giang, lội qua sông, hái bạc hà”

Giang là sông, hà cũng là sông, lại lội qua sông. Thục địa là một vị thuốc, bạc hà là một loại rau nhưng cũng là vị thuốc.

Năm 1934, Trạch mới được 11 tuổi ta, một hôm thấy con chó mực trong nhà làm đổ bình mực liền nghĩ ra một câu đối và thưa với cậu Năm: “Cậu ơi! Con mới ra câu đối để cậu đối lại cho con:

“Chó mực làm đổ bình mực, mực đổ trên mình chó mực”

Cậu năm nói: “Cậu không đối liền được, hẹn con đến trưa nay cậu sẽ tìm câu đối”. Cậu ra vườn trồng bông. Vài giờ sau, cậu Năm tươi cười gọi Trạch và tôi đến để nghe câu đối:

“Gà bông bươi ngã bụi bông, bông rơi trên cánh gà bông”

Anh em chúng tôi vỗ tay hoan nghinh, nhưng cậu Năm nói: “Đối ý thì hoàn toàn, nhưng đối chữ còn chưa được”. “… làm đổ bình mực”, chữ đổ trắc mà cậu đối “làm ngã bụi bông”, chữ ngã cũng trắc, nhưng cậu tìm không ra chữ nào giọng bình. Chữ làm đổ bình mực và mực lại đổ trên mình chó mực, hai chữ đổ cùng âm mà khác nghĩa. Nhưng kể ra câu đối của con cũng khó đối lắm. Và cậu khen Khê em mới 11 tuổi mà đã ra được câu đối mắc mỏ như vậy.

Mối tình đầu của Trạch

Năm 1936 Trạch mới 13 tuổi và đã yêu một cô gái 12 tuổi, bạn của Ngọc Sương em gái chúng tôi. Cô bé rất đẹp, cũng có cảm tình với Trạch. Ngày nào cô bé cũng đến nhà chúng tôi để gặp Ngọc Sương.

3 anh em: Trần Văn Khê – Trần Ngọc Sương – Trần Văn Trạch

Tình yêu rất ngây thơ, nhưng hai trẻ cũng thích chuyện trò, ngồi gần nhau. Trẻ con không quan tâm, nhưng người lớn lại để ý. Cô Ba, người thay cha mẹ chúng tôi để nuôi chúng tôi, từ lúc tôi lên 10, Trạch lên 7, lại rất tinh đời. Cô Ba đến tìm cha mẹ cô bé, đề nghị cho cô bé về quê mẹ trong một thời gian. Khi cô bé không đến nhà như thường lệ, Trạch buồn dã dượi trong mấy hôm liền. Trạch đến nhà cô bé để gặp hai người anh của cô cho đỡ nhớ. Không ngờ người anh nhỏ, bằng tuổi với Trạch, có nghe lén cha mẹ và cô Ba bàn việc cho em gái về quê để cho Trạch không có dịp gặp cô em nữa. Trạch rất buồn. Khi trở về nhà, lúc đó cô Ba đi vắng. Trạch bỗng nổi cơn giận dữ, bứt hết dây đờn tranh, đờn tỳ của cô Ba.

Hả cơn giận, Trạch bình tâm thấy dây đờn ngổn ngang, tôi lui cui lượm bỏ dây hư, lấy dây mới và đang mắc từng dây một, nét mặt buồn. Trạch đến gần tôi nói trong nước mắt:

– Em khổ quá anh hai ơi! Lúc giận em không còn suy nghĩ gì nữa. bây giờ em tỉnh hồn. Nhớ tới cô Ba về rầy, em chịu không nổi. Em lại làm cho anh hai cực, em giận em quá. Em đi khỏi nhà anh hai ơi! Cô Ba có hỏi, anh hai nói em buồn quá bỏ nhà ra đi. Em cũng không biết sẽ đi đâu. Em sẽ không trở về. Anh hai đừng đi tìm em, vô ích.

Tôi khuyên can, nhưng Trạch đã nhứt quyết thì không ai cản ngăn em được. Nhìn theo em đi bộ xuống chợ cá gần bến xe đò đi Mỹ Tho. Rồi cô Ba về. Thấy tôi vừa mắc dây đờn, vừa lên dây mà nước mắt lưng tròng. Cô Ba hỏi:

– Tại sao dây đờn đứt hết vậy con?

– Thưa cô Ba, Khê em buồn gì không biết, vừa bứt từng sợi dây đờn vừa khóc. Rồi nhờ con xin lỗi cô Ba, và ra đi, nói sẽ không trở về nhà nữa.

– Con phải đi kiếm em, bảo nó trở về. Có chuyện gì buồn nói cho cô biết. Cô sẽ không rầy chuyện nó bứt dây đờn đâu. Con có biết em con đi đâu không?

– Dạ thưa không. Nhưng thấy em đi đến phía xe đò đi Mỹ Tho, chắc nó đi theo xe xuống Mỹ. Nó có quen với anh “lơ” chắc họ cho nó đi khỏi trả tiền.

Nghe theo lời cô, tôi đi xe đạp xuống Mỹ Tho, vì nếu đợi xe đò phải sáng hôm sau mới có chuyến đi, đêm nay em sẽ ngủ ở đâu? Tôi đạp xe mà lòng buồn vô hạn. Chưa bao giờ anh em xa nhau một bước. Nay em định bỏ gia đình êm ấm, xa người anh mà em triếu không thua gì con triếu mẹ, tức là em đang khổ lắm. Tôi suy nghĩ nếu mình buồn như em, mình sẽ đi đâu? Chắc mình sẽ xuống mé sông nhìn nước chảy, vì nước chảy sẽ cuốn trôi phiền muộn.

Tại Mỹ Tho có một chỗ tại bờ sông mà lúc phải đi Tam Bình qua ở đậu nhà cô Năm tôi để học mấy lớp Sơ học, vì nhà nghèo cô Ba tôi không đủ sức nuôi tôi học trường tỉnh Mỹ Tho, anh em tôi thích ngồi bờ sông Tỉền Giang, nhìn qua bên mặt có nóc đỏ nhà Cercle của người Pháp, nhìn phía trái có rặng cây dương xanh biếc. Hôm nay, chắc em tôi sẽ đến đó. Suy nghĩ như vậy, và do tình thương em dẫn dắt, tôi đạp xe một mạch đến bờ sông. Đến chỗ tôi đoán, tôi rất mừng, vì thấy bóng em ngồi trên thềm gạch, chống tay trên cằm. Tôi đến nhẹ sau lưng em và gọi nhỏ:

– Khê em ơi!Anh hai đi kiếm em về. Cô sẽ không rầy la đâu. Anh hai bảo đảm với em.

– Sao anh Hai biết em ở đây mà đến tìm em?

– Tình thương đã dẫn anh Hai.

Hai anh em ôm nhau không nói gì cứ để cho nước mắt tha hồ tuôn.

Nghe lời tôi khuyên, Trạch chịu về nhà và xin lỗi cô Ba. Tôi chở em tôi bằng xe đạp. Từ Mỹ Tho về làng Vĩnh Kim, 15 cây số đường làng, hôm đó trời mưa xối xả. Hai anh em ướt cả mình mẩy, nhưng lòng tôi vẫn thấy vui ấm vì anh em tôi không vì lẽ gì phải xa nhau.

Trạch thay anh em tôi báo hiếu

Tuy việc bứt dây đờn tranh xảy ra lúc Trạch còn nhỏ tuổi, mà mãi sau này, mỗi lần nhắc lại Trạch lắc đầu như tự trách mình, không biết ơn người cô đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi ba anh em chúng tôi nên người, vì mối tình của mình đã hành động không suy nghĩ, có thể làm đau lòng người cô mà chúng tôi thương kính như cha như mẹ. Nên năm 1944, khi cô tôi đau nặng, bịnh lao đã tới thời kỳ thứ ba, trắc nghiệm trong đàm đã thấy có vi trùng Koch, cô tôi có một người giúp việc rất trung thành, tình nguyện nuôi cô tôi lúc đau ốm.

Nhưng Trạch, sau khi thất bại trong việc làm ăn trên Sài Gòn, nhứt định bỏ cả công việc về làng Vĩnh Kim, vừa tìm việc làm ăn hùn hiệp với một người anh họ để làm lò chén, vừa để mỗi ngày đạp xe lôi đưa cô tôi đi hứng gió ở ngả ba chim chim, cách nhà cô tôi đang ở hơn một cây số. Trạch thuê đóng một chiếc xe lôi có ghế nệm, mỗi ngày khi mặt trời xế bóng về chiều, Trạch đạp xe đạp, đưa cô tôi đi hứng gió.

Năm đó, tôi đang học Y tại Hà Nội, vì nhiều lý do: sinh viên theo phong trào “xếp bút nghiên”, trường Đại học đóng cửa trong hai tháng, tôi bị đau rét rừng nặng phải nghỉ học. Miền Bắc thiếu gạo, nhiều nơi bắt đầu có nạn đói. Tôi về lập với bạn Huỳnh Văn Tiểng một gánh hát sinh viên đi hát trong lục tỉnh, lấy tiền thâu được, mua gạo gởi ra ngoài Bắc cứu đói. Rồi tôi lại lo việc con đầu lòng của tôi sắp ra đời, phải đi dạy học tư tại Sài Gòn để nuôi gia đình. Em gái tôi học nội trú trong trường áo tím Nữ học đường, em Trạch đã thay cho ba anh em chúng tôi báo hiếu với cô Ba chúng tôi.

Trạch bị bắt tại Cần Thơ vì có vợ người Pháp

Anh em lại xa nhau, tôi đi gặp bạn Huỳnh Văn Tiểng tại Chợ Thiên Hộ, và được Ủy ban Kha’ng chiến Nam bộ cử tôi làm “Nhạc trưởng quân đội Nam bộ”, và các bạn tôi đùa gọi tôi là “Tổng tư lịnh Kèn”.

Trạch lúc đó có dịp xuống Mỹ Tho và gặp lại gia đình của một người Pháp sanh ở đảo Corse. Ông nầy thương Trạch từ hồi Trạch còn là học sinh trường Trung học Mỹ Tho, nên lúc Nhựt đảo cha’nh năm 1945, ông bị bắt lên tập trung tại Sài Gòn. Trước khi đi lên trại tập trung, ông gởi gắm gia đình nhờ Trạch trông nom. Ông có một cô gái lớn rất đẹp, và trai tài gặp gái sắc, như sắt gặp đá nam châm. Và cuộc tình đó dẫn đến sự ra đời của em bé A.

Tiếp theo là phong trào Việt Minh nổi dậy. Lúc đó ai có quần áo 3 màu xanh – trắng – đỏ thường bị gán cho danh từ “Việt gian”. Trạch có vợ đầm, có đứa con lai, cảm thấy mình bị đe dọa. Nghe nói tôi ở trong vùng kha’ng chiến miền Tây, nên Trạch đi liều, gặp Thanh niên tiền phong hay Thanh niên cứu quốc đều nói đi xuống Bạc Liêu tìm “anh hai tôi” trong vùng kha’ng chiến. Lúc đó Trạch vừa mới ra trường Trung học Mỹ Tho. Chưa đi hát, không ai biết tên, nên bị bắt mấy lần nhưng được thả ra. Đến Cần Thơ, hai vợ chồng bị nhốt để đợi ủy ban kha’ng chiến xét xử. Rất may cho Trạch, lúc đó có cậu Sáu là một người quen thân trong gia đình đang làm Thanh tra chánh trị. Cậu Sáu nghe nói có trường hợp một thanh niên có vợ Pháp mà muốn đi xuống tận Năm Căn tìm anh là Trần Văn Khê, cậu Sáu liền lãnh phần giải quyết trường hợp đó. Cậu khuyên vợ Trạch làm giấy từ bỏ quốc tịch Pháp, và cậu cấp cho Trạch một giấy đi đường đến tỉnh Bạc Liêu tìm tôi.

Trần Văn Khê – Trần Văn Trạch – Lê Thương

Trạch, binh nhì trong Đội quân nhạc Nam bộ. Anh em hội ngộ

Lúc đó tôi phải đưa đội quân nhạc đến vùng Cái Nước, vì cả Ban Quân Y phải lui về vùng Lẫm Biện Tú, không có tiền lẻ để mua thức ăn trong vùng nhà quê. Ban Quân Y chỉ nhận được giấy 500 đồng khó lưu dụng ở thôn quê. Mỗi ngày cả đoàn quân nhạc chúng tôi tổ chức những đêm hát có ca, nhạc cách mạng, có dân ca ba miền, góp được tiền lẻ, giữ 30 phần trăm cho đội, 70 phần trăm để giúp trạm Y tế Lẫm Biện Tú mua thịt cá, rau cải cho các bịnh nhân.

Một hôm, các anh trong ủy ban kháng chiến đến gặp tôi và cho biết rằng tôi có người em, có vợ Pháp, và con còn nhỏ, từ Hậu Giang đến tìm tôi, rồi mời tôi theo anh ra trụ sở của Ủy ban. Vừa gặp tôi, Trạch chảy nước mắt, chạy lại ôm tôi, hai anh em không nói tiếng nào. Các anh trong ủy ban, đưa giấy giới thiệu của Thanh tra Chánh trị, tôi đọc qua rồi nói với các anh:

– Thanh Tra chánh trị mà anh em tôi trong gia đình gọi là cậu Sáu đã gởi giấy giới thiệu. Dầu cho không có người giới thiệu mà nếu em tôi đến tìm tôi, tôi cũng sẵn sàng bảo bọc em tôi và gia đình. Tôi xin làm tờ bảo lãnh cho em tôi. Từ giờ nầy, em tôi được vào Đội quân nhạc và nếu em tôi có làm chi sai lầm, tôi xin chịu trách nhiệm trước ủy ban.

Trong thời gian mấy tháng, anh em sống lại cuộc đời thuở nhỏ, cùng ăn một mâm, cùng ngủ dưới một mái nhà, khi đi từ nhà đến bịnh viên, chống xuồng qua các rạch các kinh, Trạch khỏi sợ bị bắt như một “Việt gian” vì có vợ Pháp. Tôi vui vì trong cảnh xa nhà xa làng Vĩnh Kim, được chung sống với em tôi và gia đình của em. Ai có ngờ người nghệ sĩ quái kiệt đã có lúc vì tình phải mang tiếng “Việt gian”, khi ngộ biến đã trong mấy tháng trời làm “binh nhì” trong đội Quân nhạc Nam bộ?

Rồi anh em lại xa nhau

Nhưng cuộc hội ngộ nào cũng đi đến lúc chia tay. Khi tất cả các cơ sở thuộc Nam bộ đều đi ra Bắc hay chạy theo căn cứ quân sự, chúng tôi phải trở về Cần Thơ, nơi anh Hai con cậu Năm tôi có một xưởng làm nước mắm mang hiệu Quê Hương. Trạch và gia đình được cậu Năm tôi đùm bọc, tôi đi về Lộc Ninh tá túc nhà nhạc mẫu tôi, bà ngoại của mấy cháu.

Năm 1949 tôi sang Pháp, Trạch làm việc tại Nhà hàng Théophile. Anh em lại xa nhau. Tôi nghiên cứu cổ nhạc. Em tôi nổi tiếng nhờ tân nhạc và được danh hiệu quái kiệt trong làng nghệ sĩ.

Khi nghiên cứu âm nhạc truyền thống và soạn luận án Tấn sĩ tôi được vào Trung tâm nghiên cứu khoa học nhưng vì muốn xây dựng một Trung tâm học nhạc Đông phương để dạy nhạc châu Á theo phong cách truyền khẩu truyền ngón, nên tôi chỉ làm việc bán thời gian cho Trung tâm nghiên cứu khoa học, còn phân nửa thời gian thì làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu âm nhạc Đông phương và làm Cố vấn nghệ thuật cho anh Ph.V. M. Giám đốc Nhà hàng La Table du Mandarin. Tôi bày ra trò chơi L’Election du Mandarin (Cuộc bầu cử Thượng quan của Nhà hàng) được diễn gần 20 năm mỗi buổi chiều. Lúc đó Bích Chiêu, Bạch Yến, Thiên Hương được hát tại La Table du Mandarin là do sau khi tôi nghe và bằng lòng đề nghị cho Anh Ph.V.M ký hợp đồng. Khi Trạch đến hát tại La Table du Mandarin, tôi đang giao việc giới thiệu chương trình bầu cử Thượng quan cho Nhạc sĩ Đan Trường. Nhưng anh em thỉnh thoảng gặp nhau tại Paris.

Trạch đến thường trú tại Pháp

Đến năm 1977, ban giám đốc nhà hàng La Table du Mandarin gọi điện thoại báo tin cho tôi biết Trạch mới từ Việt Nam sang Pháp và muốn gặp tôi. Lúc đó tôi đã không còn làm Cố vấn chương trình nghệ thuật của Hiệu La Tabe du Mandarin, nên không có thể giúp Trạch tìm việc làm tại đây. Trạch phải đi nơi khác. Nhưng anh em lại có dịp cuối tuần về nhà tôi, anh em đờn hát thâu thanh tại nhà tôi, hay tại nhà nữ Bác Sĩ J. Ph.

Tuy cùng sống trên đất Pháp, vì công việc khác nhau, tôi đang “bôn ba bốn biển năm châu”, Trạch đang tìm cách sanh sống bằng thương mãi, anh em gặp nhau trong những ngày Tết Việt Nam, hay những ngày họp mặt gia đình tại nhà Trạch. Mỗi khi Trạch có việc buồn thường hay gọi điện thoại cho tôi để đến gặp tôi, Trạch thèm ca Vọng cổ và muốn tôi đờn tranh phụ họa cho em.

Trần Văn Trạch và cháu ruột – nhạc sĩ Trần Quang Hải, năm 1983

Phút cuối cùng

Đến khi tôi hay tin em tôi bị đau nặng nằm tại bịnh viện, tôi thường vào thăm và Trạch một hôm “trối” với tôi:

– Anh Hai sắp đi Việt Nam theo chương trình làm việc cho Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp. Em chỉ ước ao một điều. Khi em phải từ giã cõi đời, em muốn có anh hai đưa em đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Tôi hứa với em:

– Dầu cho anh Hai đi đâu trên trái đất nầy, khi biết tin em vĩnh viễn anh Hai sẽ trở lại Pháp để lo việc đưa em về nơi an nghỉ cuối cùng. Anh Hai sắp đi xa. Anh Hai nhắc cho em nghe một câu phỏng theo ý của một nhà văn mà anh Hai không nhớ tên: Ngày em ra đời, em khóc mà mọi người quanh nôi em cười vui. Ngày em phải lìa đời, khi mọi người khóc thương tiếc em, thì em sẽ mỉm cười ra đi, vì em đã làm xong tất cả nhiệm vụ của em trên đời.

Trạch mỉm cười siết chặt tay tôi và nói:

– Anh Hai yên lòng đi về nước làm việc. Mong rằng sẽ gặp lại anh Hai khi anh hai trở lại Pháp. Nếu có mệnh hệ nào, em sẽ mỉm cười ra đi. Và anh Hai sẽ về để đưa em về nơi an nghỉ cuối cùng.

Lần đó là lần cuối cùng tôi gặp em tôi khi em còn sống. Và câu nói đó là câu cuối cùng mà tai tôi nghe tiếng em tôi nói. Và như đã hứa, tôi đã trở về từ Việt Nam và làm chủ tang cho đám tang của Trần Văn Trạch, em Khê em của tôi.

 

Trần Văn Khê

 

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %07 %080 %2022 %20:%09
back to top