Cung Trầm Tưởng – Nhà Thơ Của Việt Nam Cộng Hòa -1932-2022
Cung Trầm Tưởng – Nhà Thơ Của Việt Nam Cộng Hòa
(1932-2022)
▂ ▃ ▅ ▆ █☆★█ ▆ ▅ ▃
Chân dung Cung Trầm Tưởng (tranh Trần Thế Vĩnh)
I/ Dẫn Nhập
Trước 04/1975, thơ của Cung Trầm Tưởng đầy những hình ảnh âm thanh và lời thơ (Cung Trầm Tưởng gọi “con chữ”, là máu thịt của tác giả) đều mang tính sáng tạo, lãng mạn. Nhiều người còn tìm thấy trong thơ của ông đầy những từ ngữ vừa tân kỳ vừa phảng phất hồn ca dao mà nữ tác giả Thụy Khuê gọi là cổ dao: (Một Hành Trình Thơ – trg 121)
Theo bà, khi tập Tình Ca ra đời (1954-1965), gồm 13 bài thơ mà Phạm Duy đã chọn 6 bài để phổ nhạc. Đó là các bài Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Về Đây, Chiều Đông (nguyên bản Khoác Kín), Bên Ni Bên Nớ (nb Tương Phản), và Chưa Bao Giờ Buồn Thế (nb Tiễn Em).
Người miền Nam ít nhiều đã nghe qua một lần các bài nhạc phổ thơ nêu trên. Ngày nay, người dân hai miền, nếu có dịp, đều ngân nga “lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế”, nói lên tính phổ cập của thơ Cung Trầm Tưởng và nhạc Phạm Duy.
Sau 30/04/1975, Cung Trầm Tưởng đi tù cộng sản 10 năm. Trong tù, ông vẫn làm thơ (trong đầu) và thơ ông, ngoài tính cá biệt hằng hữu, còn mang tính uất hận và tính sử thi, ghi lại một giai đoạn oan khiên của dân tộc.
Tập thơ Lời Viết Hai Tay được thai nghén trong các trại tập trung lao động khổ sai từ Nam ra Bắc như Long Giao, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn và Hàm Tân.
Sau khi ra tù (1985), Cung Trầm Tưởng ra mắt Lời Viết Hai Tay và Bài Ca Níu Quan Tài tại Đức và Mỹ vào thập niên 1990.
Ông tiếp tục sáng tác những tập thơ mang tựa đề rất lạ như:
– Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định
– Thi Bá – Con Tắc Kè và Bà Góa Phụ.
– Mỗi Dặm Đường Một Nghìn Vần Cho Thơ
– Sáng Ký Về Người Tình Đầu.
Năm 2008, Cung Trầm Tưởng ra mắt “Cung Trầm Tưởng – Một Hành Trình Thơ – 1948–2008” (MHTT) do Tiếng Quê Hương phát hành gồm 7 tập mà tập khởi thủy từ từ trước 1975 mang tên Sóng Đầu Dòng, Tình Ca và Quá Độ.
Một Hành Trình Thơ được tái bản năm 2018, trong đó Cung Trầm Tưởng gọi ba tập Lời Viết Hai Tay, Bài Ca Níu Quan Tài và Thi Bá, Con Tắc Kè và Bà Góa Phụ là Tâm Sử Thi
Xin nhắc:
1/ Lời Viết Hai Tay
“Khi hai tay bị còng khóa số 8, khi hai chân bị cùm gông thiết diệp, khi thân xác bị trói gù lưng tôm, cái tâm người thơ cũng trực tiếp bị xúc phạm, nhức nhối và khốn khổ. Tâm chập vào thể, ra một nhất nguyên. Người thơ tù biệt giam – tù của tù – lấy cái đầu viết hộ cho hai tay bị còng, làm thơ như chơi cờ tưởng.” (Cung Trầm Tưởng, MHTT, trang 130)
2/ Bài Ca Níu Quan Tài
“Nhan đề Bài Ca Níu Quan Tài được chuyển sát nghĩa từ từ Hán Việt ‘vãn ca,’ tức hát níu quan tài. Vãn còn có nghĩa là một điệu hát buồn dùng để khóc than. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba động tác khóc, hát và níu đã cung cấp cho người khóc Việt Nam một khả năng lột tả tối ưu nỗi đau ê chề, bề bộn của cảnh sinh ly tử biệt… Vì được viết bằng cái tâm nên sử thi này không thể không là một bản cáo trạng về tội ác của cộng sản” (Cung Trầm Tưởng, MHTT, trang 293)
3/Thi Bá – Con Tắc Kè và Bà Góa Phụ
Tiếng kêu của Con Tắc Kè trong đêm vắng, biểu thị cho nỗi cô đơn. Bà Góa Phụ là nạn nhân của chế độ. Khi tuyệt vọng và cô đơn, Bà Góa Phụ mới phát hiện tiếng kêu của Con Tắc Kè, bà hàn huyên tâm sự với nó. Con Tắc Kè như thông cảm nỗi đau khổ của bà. Con Tắc Kè chính là hóa thân của Thi Bá. Tóm lại, người thi sĩ sinh ra là để ca ngợi và tô điểm cuộc sống, người thi sĩ cũng luôn tìm cách làm vơi đi nỗi khổ của thế nhân.
Tập sử thi này được hình thành như một vở kịch thơ mà “lời thoại” được đẽo gọt qua từng “con chữ” rất Cung Trầm Tưởng, vừa bình dị vừa bác học.
Chúng tôi ước mong quý bậc cao nhân để tâm đọc và bình giải tập thơ có tựa đề kỳ lạ và độc đáo này.
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng trong chương trình của Jimmy Show (Ảnh The Jimmy TV)
II/ Đặc Điểm Trong Thơ Cung Trầm Tưởng
Qua “Một Hành Trình Thơ” này, chúng tôi xin ghi nhận những đặc tính như sau:
a/ Tính Liên Tục: Tập thơ là một hành trình liên tục và xuyên suốt 60 năm, ghi nhận những thăng trầm của đời người, của dân tộc và lịch sử. Tính xuyên suốt tạo thành một dòng thơ cá biệt, có thể gọi là “Cõi Thơ Cung Trầm Tưởng”: “Riêng bản thân người viết dựa vào kinh nghiệm sáu mươi năm làm thơ của mình, nhận thấy có một liên hệ nhân quả giữa những chữ thơ gieo đầu đời và mùa gặt thơ mai sau.” (Cung Trầm Tưởng, MHHT, trang 30).
b/ Tính Sáng Tạo: Tính sáng tạo hiển hiện trong mỗi bài thơ, nó cũng hiển hiện trong mỗi “con chữ” trong mỗi câu thơ ông viết ra. Ba Thi Tập 5, 6 và 7 chính là ba thi tập mang tính sáng tạo toàn diện. Nếu hiểu sáng tạo là tạo một ngôn ngữ mới, thì Lục Bát Cung Trầm Tưởng mà nhà thơ Viên Linh gọi là “Lục Kinh Bát Quái,” là một thí dụ điển hình: “Tôi về bước bước đăm chiêu/ Tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm/” (…) (Khoác Kín, MHTT, trang 73).
Cung Trầm Tưởng thời trẻ (Ảnh SĐ6KQ Blog)
c/ Tính Trữ Tình và Lãng Mạn: Tính trữ tình và lãng mạn vẫn hiển hiện sau 1975. Khi VietHome phỏng vấn về tính trữ tình trong thơ tù, Cung Trầm Tưởng trả lời: “Có chứ, và khá nhiều đấy. Chất trữ tình nó ở trong máu mình rồi, có muốn cai nó cũng không được” (…). Xin dẫn một số câu thơ: “Nhớ em trông ngóng hằng đêm/ Màn lay tưởng tóc, gối mềm tưởng da/Em về giữa lúc khuya sang/ Mênh mông đức hạnh, dịu dàng ưu tư/ Em đoan trang dáng hiền từ/ Tóc rừng thu liễu rũ bờ vai thương”. (Đường Vào Thiên Thu, MHTT, trg 211)
“Tôi làm chiếc ghế lót trăng đêm/ Mời cô ngồi xuống nồng hơi lụa/ Ðể đá như da cũng biết mềm/ (…)” (Những Dấu Chân LIZ, MHTT, trang 457).
d/ Tính Nhục Thể: Cõi Thơ Cung Trầm Tưởng xuất hiện nhiều bất ngờ mà một trong những bất ngờ thú vị là Tính Nhục Thể: “Chúng ta chỉ có đời này thôi để hưởng thụ/ Ðể ăn bùi, uống lịm, làm tình/ Và làm ra sản phụ/ Bú mớm lớn tương lai/ Cất lợp một vòm đài cho linh hồn trú ngụ.” (Nhả Tụng Cho Một Thân Xác, trang 459)
“Con chim mào đỏ về hong nắng/ Phút ấy đời trai chỉ một lần/…/Rúc tiếng còi sương, đêm khuya rách/ Một hồn con gái rớm tình yêu/ Gối chăn nồng bén hương thân thể/ Biển dưới Trường Sơn khóc mỹ miều” (Những Dấu Chân Liz, trang 450).
Tính nhục thể trong thơ Cung Trầm Tưởng mang tính ẩn dụ, thôi thúc người đọc vận dụng đến trí tưởng từ những câu thơ trau chuốt, bóng bẩy để rồi khi đã vỡ ý ra thì lại cảm thấy sung sướng, hả dạ và thích thú.
e/ Tính Phản Kháng: Khi VietHome phỏng vấn về tính phản kháng trong tù, Cung Trầm Tưởng lại trả lời: “Cũng như thơ của nhiều người tù khác, thơ của tôi có những vần phản kháng và chống kháng mãnh liệt. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Diễm gọi những vần thơ này của tôi là nộ thi. Tôi tự nghĩ rằng, nếu không làm những vần thơ phẫn uất như vậy, tôi sẽ là một kẻ đạo đức giả”. (…)
Xin trích dẫn một số câu thơ điển hình cho dòng nộ thi của tôi: “Cái đau vì nắng rần rần/ Vì thâm thù mới mười lần gớm hơn/ Mồ hôi tuột cán cuốc trơn/ Nắm cho chặt nỗi căm hờn này nhe!/…/ Một nhát quắm sâu dang đứt phựt/ Nghe vùi hun hút một phiền âu/ Hai nhát tông bay rên xiết nứa/ Nghe chôn u uất bốn buồn rầu/…/ Môt quắm. Hai tông. Ba phạt núi/ Bốn tông. Năm quắm. Sáu băng rừng/ Từng ấy rừng băng chân cứng đá/ Mai về đạp vỡ cửa lao lung/ Hãy chặt chặt sâu tông phắt phắt/ Hãy phang phang gắt quắm ào ào/ Mai về đạn nhảy ngay nòng súng/ Trực chỉ đầu thù nổ thật mau!” (MHTT, trang 558)
III/ Nghĩ Về Tâm Sử Thi
Theo thiển ý, Tâm Sử Thi là một bài thơ hay nhiều tập thơ, được thi nhân ghi lại những cảm xúc bén nhạy bằng vần điệu, đề cập đến những sự kiện tiêu biểu của một giai đoạn đặc biệt của lịch sử mà nhiều người cùng cảnh ngộ cùng thời với thi nhân đã trải qua và cảm nhận. Nhiều người cùng cảnh có thể là một cộng đồng hay một dân tộc.
Tâm Sử Thi cũng có thể là lời tự sự, hay một bức tranh vẽ lại những nét chính của toàn cảnh. Qua đó, Tâm Sử Thi phản ánh cảm nhận tập thể. Tập thể ở đây là đồng đội và đồng bào uất ức khốn cùng của thi nhân sau ngày 30/04/1975.
Đồng đội trong lao tù cộng sản (tù trong) và đồng bào (ở đây là toàn thể Dân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hòa) đã bị cộng sản đối xử dã man hung hiểm sau khi chúng cưỡng chiếm miền Nam (tù ngoài).
“Họ lựa chọn lựa chọn ở lại với lịch sử, áp sát vào lòng thời đại để nghe bằng mắt, nhìn bằng tai và nói bằng trái tim đập nhịp đập của cộng đồng, dân tộc và nhân loại”. (Ainsi Parlait Le Poete – Cung Trầm Tưởng, trg 129)
Từ đó, tính sử thi trong thơ Cung Trầm Tưởng cũng là tính Dân tộc. Tính Dân tộc bao gồm con người Việt, không gian Việt và đấu tranh Việt
1/ Con người Việt
Con người Việt bao gồm nhiều sắc dân đã từng sống trên hoặc bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, cùng chung phong tục tập quán, cùng chịu những cay nghiệt của lịch sử, cùng vinh nhục theo vận nước, cùng no đói theo những thác ghềnh kinh tế, cùng đòi hỏi dân chủ nhân quyền dưới mọi chế độ chính trị, nhất là cùng ngôn ngữ để diễn đạt những nồng ấm tình người của văn hóa Việt.
2/ Không gian Việt (thiên nhiên)
Là non sông gấm vóc Việt hình chữ S nằm bên bờ Thái Bình Dương, kéo dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, do tổ tiên Việt bao đời phát triển gìn giữ và trao lại cho con cháu đời nay.
3/ Không gian Chính trị
Là những đấu tranh chống lại ngoại xâm, chống cộng sản miền Bắc xâm lăng miền Nam, chống lại kẻ thống trị, áp bức để đòi tự do bình đẳng và nhân quyền.
Trở lại, “thơ tù của Cung Trầm Tưởng mang tính cách vỗ về, động viên, phấn khích, xoa dịu, chữa bệnh, chống đối, cõng bạn qua song, đưa đôi vai cho những mảnh đời phế tật nương vịn, làm tên phu đòn biết khóc, đào huyệt, chôn quan, truy tiễn bạn bằng một cây lau phất thay cờ hiệu” (MHTT, trg 135).
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng (Ảnh Diễn Đàn Thế Kỷ)
IV/ Dân Tộc Tính Trong Thơ Cung Trầm Tưởng.
1/Cung Trầm Tưởng và chủ nghĩa tam vô, lội ngược dòng lịch sử:
Nó cõng vua Lê và chúa Mác/ Về quê cha giết mẹ hiền lành/ Tang sô bạc xóa đầu con trẻ/ Cỏ ngút sân trường, chợ vắng tanh (MHTT – trg 206)
Tháng 5 trời hạn nắng/ Nứt đá, nẻ đồng khô/ Quê thiêng đẻ rơi Hồ/ Khởi đầu lịch hành quyết. (MHTT – trg 235).
“Hàng năm cứ tháng 9/Hồ hóa kiếp hồ tinh/ Thổi bùa lên gọi quỹ/ Trút mưa xuống Ba Đình” (MHHT – trg 229).
“Xung phong uống máu thù phanh xác”/ Lời hát đeo như một bớt chàm/ Nó tắm trong nồi da xáo thịt/ Sinh làm nô Bắc, tử binh Nam” (MHTT – trg 515)
2/Cung Trầm Tưởng và đồng đội: Tình chiến hữu là có thật ngay trong trại tù tập trung lao động khổ sai của cộng sản:
Cám ơn chim công/ Cõng ta qua sông/Mấy mùa nước lũ/ Lận đận mưa ròng/…”Công bay lên trời/ Vẫn nhìn nhớ đất/ Công chuyền cành quất/ Vẫn không quên trời/Lên trời tìm Đạo/ Xuống đất tìm Nhân/ Tìm thấy chân thân/ Trong trời đất thuận”. (MHTT – trg 192)
Tập Một Hành Trình Thơ của Cung Trầm Tưởng (Ảnh Nguoi-Viet)
Cung Trầm Tưởng từng khiêng bạn tù đi chôn cất và lòng ông như đứt đoạn với những vần thơ bi tráng:
”Gió lên như địch thổi/ Đưa ai qua trường giang/ Nay cô liêu bạt ngàn/ Tiễn ta vào bất tử”…
”Đau thương là vinh dự/ Chân đi hất hồng trần/ Anh hùng phải quên thân/ Hy sinh là tất yếu”…
”Mưa về gióng lê thê/ Nai kêu nguồn đâu đó/ Xưa nay tù ngục đỏ/ Mấy ai đã trở về”/…/”Đã đi trăm hùng vĩ/ Xông pha lắm đoạn trường/ Về làm đá hoa cương/ Gởi đời sau tạc tượng”/…(MHTT – trg 164)
3/ Cung Trầm Tưởng và nỗi thống khổ của đồng bào miền Bắc
“Bàn thờ gỗ tạp chung ba ảnh/Mốc ẩm thời gian mắt nhạt nhòa/Giấy chứng nhận chồng là liệt sĩ/ Hai con: bướm mộng về cùng cha” (MHTT, trg 529)
4/ Cung Trầm Tưởng và nỗi thống khổ của đồng bào miền Nam.
Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, CS áp dụng một chủ trương tàn bạo sắt máu với người dân, “một thứ bạo lực nguội vì không có khói và lửa. Một thứ lăng trì tân thời, có kế hoạch làm chảy máu trắng, nên hữu hiệu hơn một phát súng hành quyết nóng vội tại pháp trường”. (MHTT, trg 286)
“Đau vì búa, điếng vì liềm/ Cái đau đói bụng đánh chìm trí khôn”
“Lạnh từ trận gió bấc lay/ Buốt cha cóng mẹ, căm bầy con thơ”
“ Đêm Kinh Tế Mới ngủ bờ/ Về thành phố cũ ngủ nhờ sân ga/ Ngủ công viên, ngủ tha ma/ Xóa tên hộ khẩu ngủ nhà vạn gian”
“ Ngón đòn lý lịch ly kỳ/ Cha là ngụy, phạm trường quy con rồi”
“ Kinh bang sao chép Nga Tàu/ Bình quân là chặt cái đầu cao hơn/ Tiến là tại chỗ giậm chân/ Dìm miền Nam xuống cùng bần nấc thang”
“ Một bầy táng tận lương tâm/ Ăn hồ, ăn giẻ ăn vần ngày công/ Ăn tranh trẻ đói lọt lòng (1)/ Ăn lường tiếng khóc khép vòng tử sinh” (2)/
Ghi chú (1, 2): đầu cơ sữa trẻ sơ sinh và nhà hòm quốc doanh độc quyền
5/ Cung Trầm Tưởng và kiến thức dân gian và bác học.
“Chào lim lưng trời tựa/ Lẫy lừng rừng bạch dương/ Phi lao lớn phi thường/ Chào hào hùng trắc bá”/…/ “Chào glai-ơn ngôi nhất/ Rất đắt uất kim hương/ Chào thiên lý thuần hương/ Chào anh đào văn vẻ”/
“Chào đứng ngay thân bách/ Chào bất khuất xương rồng/ Chào phượng điệp sầu đông/ Chào thiết tha thược dược”
“Chào ném lao phi yến/ Thế vận hội vàng anh/ Chào khứu khách đua tranh/ Vành khuyên giòn kỷ lục”
“Nước nguồn gom làm suối/ Suối cuốn góp làm sông/ Đem sông ra làm biển/ Biển sâu muối mặn nồng/ Hóa thành giông, thành chớp/ Mang mưa trở lại nguồn”
Mưa nuôi đời phồn thực/Làm thành thế giới xanh/ Người ngoan đất cũng lành”
Vì Trời hằng muốn thế/ Trời Đất chỉ biết cho/ Nên Đất Trời bất tử” (MHTT, trg 565)
…
“Trời Lý Bạch lấp lánh/ Trăng, ta và bóng ta”/…/ “Hỏi trời Vương Phạm Chí/ Sinh ta để làm gì/ Hận ca Bạch Cư Dị/ Miên miên vô tuyệt kỹ”/…/ “Lầu trơ bóng Thôi Hiệu/ Hạc vàng khuất từ lâu”/…/ Bến sông đứng tần ngần/ Một linh hồn Đỗ Phủ”/…/ “Mạnh Giao bút sôi nhịp/ Áo con kịp ngày đi”/…/ “Chinh nhân nhạc ngựa ruổi/ Bản hùng ca Vương Hàn”/…/ “Trương Duy xoay đột ngột/ Trời siêu thực rẽ sang”/…/ “Quạ kêu trăng bàng bạc/ Trương Kế thả hồn phiêu/ Hóa đêm thành cảm giác/ Gieo bốn câu Phong Kiều”/…/ “Rồi lại Bạch Cư Dị/ Lòng rỉ xót âm thanh/ Ôm cây đàn nghiệp dĩ/ Vuốt đau Tỳ Bà Hành”/…/ (MHTT, trg 200)
6/ Cung Trầm Tưởng và tù phụ
Người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa đã hứng chịu bao gian truân vì chồng con vì đất nước, một đất nước triền miên chiến tranh với thù trong giặc ngoài. Đặc biệt trong cuộc chiến ý thức hệ vừa qua, những bà mẹ, bà vợ của người tù lao động khổ sai dưới dạng cải tạo, sự gian truân của họ thành cấp số nhân:
“Liềm thù lại hái thêm cô phụ/ Chồng chết nằm co manh chiếu tù” (MHTT, 159)
“Mưa gió quất lưng tre cong phần phật”/…/ “Đất lầy lội, đường quê trơn khấp khểnh/ Mẹ long đong lận đận dáng lưng gù” (MHTT, 203)
“Có chồng mà tưởng như chồng mất/ Hương nhang đã cháy ở trong lòng/ Em là dòng dõi nàng Tô Thị/ Nghìn năm hóa đá vẫn chờ mong”/…/ “Tóc vấn phong ba em đứng mũi/ Một thuyền lèo lái cõi càn khôn” (MHHT, trg 207)
“Da nhăn, thịt lõm, xương lòi/ Bảy mươi tuổi mẹ khóc đòi chồng con/ Trả tôi mảnh đất vuông tròn/ Ruộng vườn là lẽ sống còn của tôi”/…/ “Tôi không đòi đẹp đòi cao/ Tôi đòi trả giọt máu đào tôi nuôi/ Tôi đòi trả xác chồng tôi/ Dâu hèn cháu mọn các người không tha/ Tôi đòi trả mả mẹ cha/ Dừa thôn yêu dấu, xoài nhà mến thương”/…/ (MHTT, trg 324)
V/ Tạm Kết
Trong Lời Tựa của tập thơ “Lời Viết Hai Tay” Cung Trầm Tưởng có ghi: “Người thơ xưa nói lên tâm thức bộ lạc. Người thơ tù ‘cải tạo’ bây giờ, một nạn nhân kiêm chứng nhân, nói lên tâm thức cộng đồng của những người tù cải tạo”.
Cộng đồng ở đây là quân dân miền Nam, là Việt Nam Cộng Hòa.
Dùng thơ để diễn đạt tâm tình riêng là chuyện bình thường. Trong Tâm Sử Thi, Cung Trầm Tưởng đã dùng thơ để diễn đạt tình và cảnh của người tù trong “trại cải tạo” lẫn đồng bào ở ngoài xã hội (tù ngoài) do cộng sản áp đặt, qua sáu dẫn chứng vừa nêu, là cả một “quá trình động não” phi thường!
Không phải chỉ có “nộ thi”, thơ Cung Trầm Tưởng còn là chứng nhân, là một chiến sĩ văn hóa, mang sứ mạng “giúp nhau viết lại từng trang sử” về một chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử.
“Thơ bị nhốt, thơ gào ánh sáng/ Xé toang tăm tối, vạch ngu lầm/ Bây giờ thơ phải cùng tay súng/ Giải phóng con người bị hãm giam”/ Hãy gắng cùng nhau gìn trí nhớ/ Giữa rừng dày đặc lưỡi điêu ngoa/ Giúp nhau viết lại từng trang sử/ Trả bút cho nhân chứng thật thà” (MHHT, 252).
Không riêng gì Tâm Sử Thi mà cả Một Hành Trình Thơ 60 năm (1948-2018) của Cung Trầm Tưởng, là một đóng góp đáng kể cho văn học Việt Nam, cho một dân tộc có truyền thống hiếu học (nhất sĩ nhì nông), cách riêng, qua mấy vần lục bát truyền cảm nói về chữ nghĩa trong Bài Ca Níu Quan Tài, diễn đạt lúc người tù trở về:
…/ “Giá còn sách gấm hằng thân/ Mẹ vùi giấu lúc lửa Tần bùng thiêu/ Hỏi thăm con đủ trăm điều/ Nhẫn đành bán vốn, sách liều cất chôn/ Sách là máu dưỡng trí khôn/ Chữ là một nửa thần hồn cha con/ Chữ thành ra nước hóa non/ Bia tan đá nát, tiếng còn truyền lưu/ Quỷ dù trăm chước nghìn mưu/ Sách còn ghi trận phục cừu nhuốc nhơ”/…/ (MHTT, trg 331).
Là một bạn tù của Cung Trầm Tưởng, tôi từng vịn câu thơ của ông để đứng dậy trong ngục tù. Tôi cũng học theo nhân cách của cây vầu trong bài Biểu Tượng của Cung tiên sinh: “vầu đanh như thép sáng ngời, nắng mưa thì vẫn trọn đời đứng ngay”.
Đó cũng là cách vinh danh một thi sĩ cũng là một chiến sĩ của Việt Nam Cộng Hòa, của Dân Tộc Việt Nam không cộng sản.
Bắc Đẩu Võ Ý
Theo SGN News ngày 13 tháng 5, 2022
**********
Bạn đang sao chép nội dung của page fb.com/1xuaxua. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn chuyenxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense
Bạn đang sao chép nội dung của page fb.com/1xuaxua. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn chuyenxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense
Bạn đang sao chép nội dung của page fb.com/1xuaxua. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn chuyenxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense
Bạn đang sao chép nội dung của page fb.com/1xuaxua. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn chuyenxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense
Bạn đang sao chép nội dung của page fb.com/1xuaxua. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn chuyenxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense
Thi sĩ Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thức Cần, là một nhà thơ hiện đại Việt Nam đang định cư ở Hoa Kỳ.
Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi (1947) ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là Sóng Đầu Dòng (chưa in).
Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup Laubat (nay là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Sài Gòn).
Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ Sư Không Quân ở Salon-de-Provence.
Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là “Mùa Thu Paris” và “Vô Đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập “Đất Đứng” của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.
Năm 1958, ông đứng ra chủ trương tờ Văn Nghệ Mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng Tạo, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành…
Trong khoảng thời gian này, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của ông, đó là những bài “Mùa Thu Paris”, “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” (Phạm Duy gộp lại và lấy tên là “Tiễn em”), “Bên Ni Bên Nớ”, “Chiều Đông”, “Kiếp Sau”, “Về Đây”… Tổng cộng trong 13 bài thơ trong tập “Tình Ca” của ông thì 6 bài Phạm Duy chọn phổ nhạc.
Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng, đậu Tiến sĩ Khí Tượng học tại Đại học Saint Louis. Sau đó, ông trở về Sài Gòn tiếp tục làm việc trong binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa với cấp bực cuối cùng là Trung Tá (1975). Dưới chế độ cộng sản, ông bị bắt đưa đi cải tạo 10 năm trong 8 trại giam và thả về với thêm 3 năm quản chế.
Năm 1993, ông sang Hoa Kỳ định cư.
Tác phẩm của ông đã xuất bản:
– Tình Ca (Nxb. Công Đàn, Sài Gòn, 1959)
– Lục Bát Cung Trầm Tưởng (Nxb. Con Đuông, Sài Gòn, 1970)
– Lời Viết Hai Tay (Nxb. Imn, Bonn, 1994)
– Bài Ca Níu Quan Tài (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001)
– Một Hành Trình Thơ (Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Falls Church, Virginia, Hoa Kỳ, 2012)
Thi phẩm “Mùa Thu Paris” (Thi sĩ Cung Trầm Tưởng)
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
…
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Mùa thu Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì
Mùa thu không lời
Son nhạt đôi môi
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời
…
Thi khúc “Mùa Thu Paris” (Nhạc sĩ Phạm Duy)
Mùa Thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Hẹn em quán nhỏ
Rượu rưng rưng ly đỏ tràn chề
Mùa Thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công viên lá đổ
Công viên lá đổ
Chờ mong em gắng khổ từng giờ
Mùa Thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá
Ngồi quen ghế đá
Không em ôi buốt giá từ tâm
Mùa Thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Tóc vàng sợi nhỏ
Chờ mong em chín đỏ trái sầu
Mùa Thu Paris
Tràn lấp đôi mi
Người em gác trọ
Người em gác trọ
Phòng anh đôi gót nhỏ thầm thì
Mùa Thu im hơi
Son nhạt đôi môi
Ngày em trở lại
Ngày em trở lại
Hờn căm em hối cải cuộc đời
Mùa Thu ơi Thu
Trời mây âm u
Yêu người độ lượng
Yêu người độ lượng
Và trong em tâm tưởng giam tù
Mùa Thu Paris
Mùa Thu Paris
Với tình Thu…
Thi phẩm “Chiều Đông” (Thi sĩ Cung Trầm Tưởng)
Chiều đông tuyết lũng âm u
Bâng khuâng chiều tới tiếp thu chiều buồn
Ngày đi tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon
Đường xa nhịp sắt bon bon
Tàu như dưới tỉnh núi non vọng ầm
Nhà ga dột mái lâm râm
Máu đi có nhớ hồi tâm chiều nào…
Thi khúc “Chiều Đông” (Nhạc sĩ Phạm Duy)
Chiều Đông tuyết lũng âm u
Bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Ngày đi tầu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon.
Phường xa nhịp sắt bon bon
Tầu như dưới tỉnh núi non vọng ầm
Nhà ga dột mái lâm râm
Máu đi có nhớ hồi tâm chiều nào.
Một mình tôi với tuyết non cao
Với cồn phố tịnh buốt vào thịt da
Với mây trôi nhợt trăng tà
Với đèn xóm Hạ cũng là tịch liêu
Chiều Đông tuyết lũng âm u
Bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Mình tôi nhịp bước đăm đăm
Tâm tư khoác kín chiều căm lạnh nhiều.
Thi phẩm “Tương Phản” (Thi sĩ Cung Trầm Tưởng)
Đêm chớm ngày tàn
Theo tiếng xe lăn về viễn phố
Em ơi !
Sương rơi
Ngoài song đêm hạ
Ôi buồn phố xá…
Hoang liêu về chết tha ma
Tiếng chân gõ guốc : người xa vắng người
Em có nghe dồn giã
Bước ai vất vả
Bóng ai chập chờn
Hồn ai cô đơn
Say sưa tìm về ấm cúng
Em có nghe bi ai
Tình ai ấp úng
Thương ai lạc loài
Ăn mày sáng lạn một ngày mai
Đêm nay say đất lở
Em có nghe rạn vỡ
Ra muôn mảnh ly rơi
Pha lê vạn chuỗi cười
Bên nớ dạ thành khoe tráng lệ
Trơ trẽn giai nhân phô lõa thể
Bên ni phố vắng lòng ngoại ô
Em có nghe mơ hồ
Bước ai thao thức
Gõ nhịp hẹn hò
In dài ngõ cụt
Bóng ai giang hồ
Bên nớ bên ni đêm lạnh cả
Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng
Em ơi bên trong
Dù chia ly đôi phút
Đồng mang nhớ đèo mong
Hai tâm hồn giam kín
Bốn mắt xanh bịn rịn
Anh ngồi làm thơ
Anh ngồi bấm đốt con thơ ra đời
Bên ngoài liếp ngỏ sương rơi
Bên trong kín gió ấm ơi là tình!
Nhạc sĩ Phạm Duy.
Thi khúc “Bên Ni Bên Nớ” (Nhạc sĩ Phạm Duy)
1.
Đêm chớm ngày tàn
Theo tiếng xe về
Lăn về viễn xứ
Em hỡi sương rơi ngoài song đêm hạ
Ôi buồn… phố xá hoang liêu về chết tha ma
Tiếng chân gõ guốc xa xa
Người xa vắng người
Người xa vắng người
Em có nghe rộn rã bước chân vất vả, bóng ai chập chờn
Hồn ai cô đơn tìm về ấm cúng
Em có nghe bi ai tình ai ấp úng
Thương ai lạc loài
Ăn mày xán lạn ngày mai
Đêm nay ai say đất lở
Em ơi có nghe rạn vỡ
Vạn mảnh li tan theo chuỗi cười
Bên tê thành phố tráng lệ
Giai nhân nằm khoe loã thể
Bên ni phố vắng ôi lòng ngoại ô
2.
Đêm chớm ngày tàn
Theo tiếng xe về
Lăn về viễn xứ
Em hỡi sương rơi ngoài song đêm hạ
Ôi buồn… phố xá hoang liêu về chết tha ma
Tiếng chân gõ guốc xa xa
Người xa vắng người
Người xa vắng người
Em có nghe hồ như bước ai gõ nhịp, bóng ai giang hồ
Hẹn ai bên ni dài nhìn ngõ cũ
Em có nghe bên ni lạnh hơn bên nớ
Phút giây chia lìa, trong lòng vẫn phải đèo mong
Hai tâm linh giam kín lại
Bấm đốt ngón tay chờ đợi
Chờ ngày con thơ, thơ cũng ra đời
Em ơi ngoài kia liếp ngỏ
Sương rơi ngoài song khép hờ
Bên trong kín gió ấm ơi là tình
Thi phẩm “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” (Thi sĩ Cung Trầm Tưởng)
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này rồi
Chia tay nhau tức khắc
Khóc đi em, khóc đi em
Hỡi người yêu xóm học
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em…
Thi khúc “Tiễn Em” (Nhạc sĩ Phạm Duy)
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly.
Tiễn em về xứ Mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Tuyết rơi mỏng manh buồn
Ga Lyon đèn vàng
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng.
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly.
Hôn nhau phút này
Chia tay tức thì
Em ơi khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em
Sao rơi rớt rụng
Vai em ướt mềm
Em ơi khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em.
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly.
Hỡi em người xóm học
Sương thấm hè phố đêm
Trên con đường anh đi
Lệ em buồn vương vấn.
Tuyết rơi phủ con tầu
Trong toa em lạnh đầy
Làm sao em không rét
Cho ấm mộng đêm nay?
Nơi em có trăng soi
Anh một mình ở lại
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời thèm trăng soi
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Dưới đây mình có bài:
– Lục bát Cung Trầm Tưởng, một đóng góp lớn cho văn học
Cùng với 14 clips tổng hợp các thi khúc “Mùa Thu Paris”, “Chiều Đông”, “Bên Ni Bên Nớ”, “Tiễn Em” do các ca sĩ lừng danh xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện tham khảo cùng thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Từ trái qua: Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy, Ngy Cao Uyên. (Hình phamduy.com)
Lục bát Cung Trầm Tưởng, một đóng góp lớn cho văn học
(Du Tử Lê)
Giữa thập niên (19)90, trong một buổi ra mắt sách ở quán café Tao Nhân, nằm trên đường Westminster, thành phố Garden Grove, miền Nam tiểu bang California, mở đầu phần phát biểu của mình, cố nhà văn Mai Thảo đã làm một so sánh chói gắt về sự xuất hiện của tác giả thi phẩm được giới thiệu trong đêm, với sự xuất hiện của hai tác giả nổi tiếng rất sớm, trong sinh hoạt văn chương miền Nam, trước tháng 4, 1975.
Ðại ý tác giả “Ta thấy hình ta những miếu đền” nói rằng, vào những năm cuối thập niên (19)50, có hai tiếng thơ đã tạo chấn động vang dội, ngay khi những bài thơ thứ nhất.
Trừ những người trẻ, tham dự buổi giới thiệu tác phẩm vừa kể, vốn không có cơ hội biết nhiều về sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam những năm (19)50, (19)60; kỳ dư, các tân khách còn lại, khi nghe nhắc tới Cung Trầm Tưởng, đa số đã liên tưởng tới thơ bốn chữ, năm chữ và, lục bát của họ Cung. (1)
Liên tưởng tức thì này, không có nghĩa tất cả những vị đó đều đọc, nhớ thơ Cung Trầm Tưởng qua tạp chí Sáng Tạo. Họ biết, nhớ, thuộc và, yêu mến tiếng thơ này, qua một số ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ thơ Cung Trầm Tưởng. Thí dụ, ca khúc “Mùa thu Paris,” hay “Tiễn em” (Phạm Duy đổi từ nhan đề gốc “Chưa bao giờ buồn thế”…
Nếu ký ức chưa tệ hại đến mức phản bội tôi thì, tôi nhớ đó là năm 1959, giữa bối cảnh hiu hắt, “thiếu niềm tin” của độc giả trong lãnh vực thi ca, thi phẩm “Tình Ca” của Cung Trầm Tưởng ra đời.
“Tình Ca” của Cung Trầm Tưởng chỉ có tổng cộng 13 bài mà, hết 6 bài được nhạc sĩ Phạm Duy soạn thành ca khúc; với bìa, phụ bản rực rỡ, mới lạ của họa sĩ Ngy Cao Uyên (cũng về từ Pháp, như Cung Trầm Tưởng,) đã là một xuất hiện “lộng lẫy,” như khi lục bát Cung Trầm Tưởng xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo vậy. (2)
“Tình ca” Cung Trầm Tưởng còn “lộng lẫy” hơn nữa trong đêm ra mắt ở nhà hàng Anh Vũ. Với con số 3+1 là Cung Trầm Tưởng, Ngy Cao Uyên, Phạm Duy và, tiếng hát Thái Thanh, buổi ra mắt tựa dự báo một bình minh khác, cho sinh hoạt thi ca miền Nam, thời đó.
Không biết tôi có quá lời chăng, khi nói rằng, đó là thời điểm họ Cung “đánh cắp” tất cả mọi ngọn đèn rực rỡ nhất của tiền trường sân khấu sinh hoạt thi ca miền Nam. Tất cả mọi ngợi ca đổ dồn về ông, như nước chảy về chỗ trũng. Những vòng nguyệt quế tìm đến ông, tựa đó là điều gì không thể tự nhiên hơn…
Cùng lúc, hiện tượng hay phong trào khát khao có được một lần được thấy “mùa thu Paris” (như trong thơ Cung Trầm Tưởng,) trở thành cơn sốt trên 40 độ C. trong tâm tưởng của nhiều người trẻ thành phố:
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu…
(Trích “Mùa Thu Paris, CTT)
Hay ước nguyện cuối cùng trước khi nhắm mắt, không chỉ của giới trẻ mà, của rất nhiều văn nghệ sĩ thời đó là, một lần được đứng dưới những ngọn đèn vàng của ga Lyon! Ðược thấy sông Seine (qua thơ Nguyên Sa,) hay được đặt chân vào một quán rượu ở Paris. Khi Paris qua thơ của hai nhà thơ này trở thành những mơ ước khôn cùng…
Paris càng trở nên quyến rũ hơn nữa, khi ca khúc “Tiễn em” phổ cập quần chúng:
Lên xe tiễn em đi
chưa bao giờ buồn thế
trời mùa Ðông Paris
suốt đời làm chia ly
(……)
Ga Lyon đèn vàng
tuyết rơi buồn mênh mang
cầm tay em muốn khóc
nói chi cũng muộn màng
(……)
khóc đi em. khóc đi em
hỡi người yêu xóm học
để sương thấm bờ đêm…”
(Trích “Chưa bao giờ buồn thế,” CTT)
Những hình ảnh lãng mạn, mới mẻ như những khối thuốc nổ cực mạnh, gây chấn thương nặng nề tâm thức người nghe/đọc, như “Người em mắt nâu/Tóc vàng sợi nhỏ,” hay “Ga Lyon đèn vàng/tuyết rơi buồn mênh mang”… đã nhức nhối “bám trụ” trong sâu, kín tâm tư của nhiều người.
Hoặc chỉ với bốn chữ “người em xóm học,” lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Việt Nam, tự thân cũng đã đủ làm thành cơn bão mang tên những mơ ước nghìn trùng, hạnh ngộ hãn hữu, của những người một đời chưa bước khỏi biên cương đất nước.
Nhưng với văn giới miền Nam thời đó, đỉnh điểm tài hoa thi ca Cung Trầm Tưởng vẫn là những bài thơ lục bát của ông.
Nói tới lục bát Cung Trầm Tưởng, tôi không rõ họ Cung có biết, những người bạn một thời Sáng Tạo, đã gọi ông một cách yêu mến là …“Bà Huyện Thanh Quan thời đại mới”?
Người kể lại chuyện này là cố nhà văn Mai Thảo. Sinh thời, trong những cuộc họp mặt văn nghệ giới hạn tại nhà riêng một vài thân hữu, dù không ai hỏi, chủ nhiệm Sáng Tạo vẫn thường nhắc tới những bằng hữu trong nhóm Sáng Tạo của mình. Nhất là những người bạn còn trong tù. Hơn một lần, ông kể:
“…Anh em Sáng Tạo thích lục bát Cung Trầm Tưởng lắm. Dù nó chỉ làm được ít bài rồi thôi. Chúng tôi từng gọi nó là ‘Bà Huyện Thanh Quan thời đại mới’…”
Mọi người lắng nghe. Bất ngờ. Thích thú. Cũng trong bất ngờ, tôi hỏi tác giả “Ðêm giã từ Hà Nội,” khi anh em Sáng Tạo “sắc phong” cho Cung Trầm Tưởng là một thứ “Bà Huyện Thanh Quan thời đại mới” thì họ y cứ trên những tương đồng nào, giữa hai cõi giới thi ca đó?
Vẫn nụ cười móm mém hóm hỉnh và, cái nheo mắt tinh quái, cố nhà văn Mai Thảo lúc lắc đầu, trước khi trả lời:
“…Ờ… thì anh em thấy lục bát của nó mượt mà, óng ả như nhung lụa vậy mà…”
Có thể tác giả “Mười đêm nhà ngọc” không chờ đợi nơi tôi một câu hỏi, như thế! Như số anh em có mặt buổi tối vừa kể, cũng không chờ đợi nhà văn Mai Thảo trả lời, như vậy!
Tôi không biết số bằng hữu hiện diện trong họp mặt kia, cảm nhận ra sao về lục bát Cung Trầm Tưởng. Tuy nhiên, tôi nghĩ, ai đó, nếu có một kiến thức căn bản về thể thơ lục bát, cùng sự hiểu biết thấu đáo về những biến chuyển, vận hành trải qua nhiều giai đoạn của thể thơ truyền thống này, sẽ phải nhìn nhận rằng, đóng góp vào sự đổi mới lục bát của Cung Trầm Tưởng, những năm (19)50 là một đóng góp lớn cho văn học miền Nam, nói riêng, Việt Nam, nói chung.
Chú thích:
1. Theo tuyển tập “Cung Trầm Tưởng một hành trình thơ (1948-2008)” do nhà Tiếng Quê Hương, Hoa Kỳ, ấn hành 2012 thì, nhà thơ Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thúc Cần, sinh ngày 28 tháng 2, 1932 tại Hà Nội. Ông là cựu sĩ quan cấp tá của quân chủng Không Quân VNCH cũ. Sau 10 năm tù cải tạo và 3 năm bị quản chế, ông cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1993.
2. Họa sĩ Ngy Cao Uyên, tên thật Nguyễn Cao Nguyên, tốt nghiệp ngành Cơ Khí Không Quân tại Pháp, như Cung Trầm Tưởng. Ông là chủ tịch đầu tiên của Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, Saigon, 1966. Ngy Cao Uyên hiện cư ngụ tại tiểu bang Virgina, Hoa Kỳ.
oOo
Mùa Thu Paris – Ca sĩ Ý Lan:
Mùa Thu Paris – Ca sĩ Tuấn Ngọc:
Mùa Thu Paris – Ca sĩ Vũ Khanh:
Bên Ni Bên Nớ – Ca sĩ Khánh Ly:
Trần Lê Túy Phượng (ĐCN)
Bạn đang sao chép nội dung của page fb.com/1xuaxua. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn chuyenxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense
Bạn đang sao chép nội dung của nhacxua.vn. Nếu sử dụng cho blog cá nhân, vui lòng ghi rõ nguồn nhacxua.vn kèm theo link bài viết. Nếu là website, kênh truyền thông hoặc liên quan đến thương mại, vui lòng liên hệ trước để được đồng ý. Mọi hình thức vi phạm bản quyền nội dung để kiếm tiền thông qua MMO đều sẽ bị report đến Facebook và Adsense. KHÔNG được đọc lại bài viết để tạo video trên YouTube
*********