Âm nhạc – liệu pháp miễn phí cho sức khỏe tâm thần
Âm nhạc – liệu pháp miễn phí cho sức khỏe tâm thần
Âm nhạc là một công cụ vô cùng hiệu quả để trị liệu sức khỏe tâm thần. (minh họa: Jordan Whitfield/Unsplash)
Bạn từng tìm bản nhạc yêu thích nào đó, như tìm một người bạn cũ? Chỉ vì khi nghe lại bản nhạc đó, bạn cảm thấy như được thấu hiểu, vỗ về. Âm nhạc như nói chuyện cùng bạn.
Âm nhạc là nghệ thuật của việc sắp xếp âm thanh để tạo ra nhịp điệu hài hòa cho đôi tai. Âm nhạc cân bằng thế giới và nếu không có âm nhạc, thế giới có khả năng sẽ trở nên hỗn loạn. Khi bạn nghe một bản nhạc nào đó, bạn có xu hướng hiểu và nắm bắt lời trong bài hát đó. Mỗi bài hát đều đi sâu vào ý nghĩa đặc biệt duy nhất của nó và đó là điều tạo nên sự đặc biệt của âm nhạc.
Đã có những nghệ sĩ vĩ đại được sinh ra với mục đích duy nhất là tạo ra âm nhạc cho thế giới. Những nghệ sĩ này là một phước lành và khi ai đó nghe nhạc của họ, người đó sẽ bị thu hút bởi một cảm giác đặc biệt và cả sự yên bình. Bản chất của âm nhạc là chữa lành vết thương cho những người đang ưu sầu và đó là lý do tại sao âm nhạc được sinh ra và sử dụng từ nhiều thế kỷ trước. Một số bản nhạc khiến bạn vui, có bài hát gợi cho bạn nỗi buồn… không tên, có khi nghe nhạc, bạn lại cười và nhún nhảy theo giai điệu cho đến khi mệt lừ. Nhưng tất cả đều như nhau, âm nhạc khiến cho tâm trạng của bạn trở nên sâu đậm hơn.
Âm nhạc nhẹ nhàng, chậm rãi giúp giảm căng thẳng, hạ huyết áp và giảm bớt lo lắng. (minh họa: Derek Truninger/Unsplash)
Ngày nay, có những nghệ sĩ phát hành những tác phẩm âm nhạc tuyệt vời, mang nhiều ý nghĩa đến công chúng, như Beyoncé, Ed Sheeran, Tems, Adele, The Weeknd. Những nghệ sĩ này biết kết nối với tâm hồn người nghe và hiểu họ rất rõ. Họ có xu hướng phát hành những bài hát hay, được trau chuốt kỹ lưỡng, trải qua một khâu điều chỉnh công phu để đến tai người nghe.
Ngoài ra, âm nhạc còn được sử dụng trong nhiều thế kỷ như một hình thức trị liệu và chữa bệnh, vì có khả năng ảnh hưởng sâu sắc đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng âm nhạc là công cụ mạnh mẽ trong việc điều trị các tình trạng sức khỏe tâm thần khác nhau như trầm cảm, lo lắng và PTSD.
Beyoncé (ảnh: Michael Kovac/Getty Images for The Recording Academy)
Âm nhạc là một công cụ vô cùng hiệu quả để trị liệu sức khỏe tâm thần, vì nó có khả năng gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ và tạo ra một bầu không khí êm dịu. Dưới đây là một số gợi ý cho việc sử dụng âm nhạc trong liệu pháp sức khỏe tâm thần:
Âm nhạc như một kỹ thuật thư giãn: Âm nhạc nhẹ nhàng, chậm rãi giúp giảm căng thẳng, hạ huyết áp và giảm bớt lo lắng. Khuyến khích người nghe cảm nhận âm nhạc êm dịu trong các bài tập về thư giãn, chẳng hạn như hít thở sâu hoặc thư giãn cơ dần dần.
Âm nhạc cho chánh niệm: Chánh niệm là thực hành hiện diện và nhận thức được những suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Âm nhạc còn là một công cụ hữu ích để tạo điều kiện thuận lợi cho chánh niệm, vì những bài hát sâu lắng sẽ giúp người nghe tập trung và ở trong thời điểm hiện tại. Cân nhắc sử dụng phương pháp thiền có hướng dẫn với âm nhạc để giúp người nghe tập trung và thư giãn.
Âm nhạc để thể hiện cảm xúc: Âm nhạc cũng là một công cụ mạnh mẽ để thể hiện cảm xúc. Khuyến khích người nghe tận hưởng âm nhạc phù hợp với cảm xúc của họ, cho dù đó là những bản nhạc buồn khi họ cảm thấy buồn hay những tiết tấu vui tươi, khi họ cảm thấy hạnh phúc.
Âm nhạc để thể hiện sự sáng tạo: Âm nhạc cũng được sử dụng như một cách để thể hiện sự sáng tạo và kết nối với những người khác. Khuyến khích người yêu nhạc tạo ra âm nhạc của riêng họ hoặc tham gia vào các buổi trị liệu âm nhạc theo nhóm.
Âm nhạc kích thích nhận thức: Nghiên cứu đã chỉ ra rằng âm nhạc có khả năng kích thích não bộ và cải thiện chức năng nhận thức. Khuyến khích nhiều người nghe nhạc để thử thách trí não của họ, chẳng hạn như nhạc cổ điển phức tạp hoặc nhạc jazz.
(ảnh: Simon Noh/Unsplash)
Trong tất cả các cách trên, cách đặc biệt mà liệu pháp âm nhạc mang lại hiệu quả là nhờ khả năng kích thích giải phóng endorphin, là chất hóa học tự nhiên trong não giúp thúc đẩy cảm giác hạnh phúc và khỏe mạnh. Nghe nhạc cũng làm giảm mức độ hormone căng thẳng cortisol, làm giảm cảm giác lo lắng.
Ngoài ra, chơi và sáng tác nhạc là một hình thức để thể hiện bản thân, giúp các cá nhân xử lý và đối phó với những cảm xúc khó khăn. Học chơi một nhạc cụ hoặc hát cũng mang lại cảm giác tự hào và nâng cao lòng tự trọng. Tạo danh sách những bài hát yêu thích của riêng bạn cũng hữu ích. Những ứng dụng phát nhạc, như Spotify, Apple Music và SoundCloud, được tạo ra một cách tỉ mỉ để mang đến cơ hội đưa ra các gợi ý về những bài hát tuyệt vời cho người nghe.
Liệu pháp âm nhạc đã được sử dụng thành công trong nhiều môi trường khác nhau, bao gồm bệnh viện, trường học và phòng khám sức khỏe tâm thần. Liệu pháp được sử dụng như một phương pháp điều trị độc lập hoặc kết hợp với các liệu pháp khác như liệu pháp nói chuyện hoặc dùng thuốc.
Nhìn chung, sức mạnh của âm nhạc trong trị liệu sức khỏe tâm thần là không thể phủ nhận. Cho dù nghe hay viết nhạc, khả năng cải thiện tâm trạng, giảm căng thẳng và lo lắng, đồng thời nâng cao sức khỏe tổng thể đều được thấy rõ. Âm nhạc là công cụ linh hoạt và mạnh mẽ trong liệu pháp sức khỏe tâm thần. Vì vậy, bạn hãy tìm ra loại nhạc phù hợp cho mình và giúp bản thân đạt được mục tiêu trị liệu.
(theo Guardian)
Duy Lê (SGN)
La Paloma, cánh buồm xa xưa
Minh họa: priscilla-du-preez-unsplash
“La Paloma” (trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “chim bồ câu”) là một bài hát Tây Ban Nha. Bài hát đã được phổ biến và cải biên ở rất nhiều quốc gia, nhiều nền văn hóa, nhiều dòng nhạc khác nhau trên toàn thế giới và đã được ghi âm hơn 140 năm trở lại đây.
“La Paloma” được sáng tác bởi nhà soạn nhạc Sebastián Iradier người Tây Ban Nha sau khi Iradier trở về từ chuyến du lịch tới Cuba năm 1861. Có tư liệu cho rằng Iradier đã sáng tác “La Paloma” vào khoảng năm 1863, chỉ hai năm trước khi ông từ trần. Và tất nhiên, ông không hề biết “đứa con tinh thần” của mình trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất thế giới.
“La Paloma” được ảnh hưởng bởi dòng nhạc “habanera” của người dân Cuba, vì thế đã có những đặc trưng và giai điệu rất riêng biệt. Nhân đây xin nói thêm một chút về “habanera”. “Habanera” là một điệu nhạc, điệu vũ được hình thành vào tiền bán thế kỷ thứ 19 với bản “habanera” xưa nhất được viết vào năm 1835. Tới năm 1870, thể điệu “habanera” đã phổ biến khắp châu Mỹ Latin, và ở cả Anh, Pháp. Riêng tại Tây Ban Nha, “habanera” đã được các thủy thủ mang theo về, và rất được phổ biến, yêu chuộng.
Điều thú vị là tuy phát xuất từ Cuba, nhưng tại hòn đảo này, “habanera” lại được gọi là “contradanza”, hay đầy đủ hơn, là “Cuban contradanza”. “Contradanza” nguyên là chữ “contredanse” trong tiếng Pháp để gọi một điệu nhảy dân gian đặt căn bản trên những bước nhảy của người Phi Châu. Còn “habanera” là tên mà người Tây Ban Nha đặt cho thể điệu “Cuban contradanza”. Chỉ sau khi “habanera” đã trở nên phổ biến trên trường quốc tế vào cuối thế kỷ thứ 19, người Cuba mới sử dụng chữ “habanera” cho đồng nhất.
Minh họa: marieke-koenders-unsplash
Trở lại với “La Paloma”
Không lâu sau khi ra đời, “La Paloma” đã trở nên rất thịnh hành ở Mexico và sau đó lan sang nhiều nước khác trên thế giới. Ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ như Afghanistan, Tây Ban Nha, Hawaii, Philippines, Đức, Rumani… bài hát trở thành một bài bán dân ca của khu vực đó. Nhiều năm trôi qua, mức độ phổ biến của “La Paloma” cũng trải qua nhiều thăng trầm nhưng nó chưa bao giờ bị quên lãng. Có thể nói “La Paloma” là một trong những bài hát đầu tiên được nhanh chóng phổ biến trên toàn thế giới và lôi cuốn nhiều ca nhạc sĩ thuộc các dòng nhạc khác nhau.
Chủ đề của bài “La Paloma” nói tới câu chuyện có nguồn gốc từ cuộc xâm lược xứ Hy Lạp của vua Darius I nước Ba Tư vào năm 492 trước Công nguyên. Lúc đó, hạm đội Ba Tư đã gặp phải một trận bão ngoài khơi đỉnh Athos, khiến nhiều thuyền chiến đã bị đắm trong trận bão này. Người Hy Lạp đã nhìn thấy nhiều chú chim bồ câu bay ra khỏi các xác tàu Ba Tư bị đắm và cho rằng những chú chim này mang về đất liền những thông điệp tình yêu cuối cùng của những thủy thủ đã bỏ mình giữa biển cả.
Dù nội dung bản nhạc gốc nói về mối liên hệ cuối cùng của tình yêu để vượt qua cả cái chết và sự chia ly đã được nhắc tới trong bài “La Paloma”, nhưng dù lời bài hát ở các phiên bản ngoại ngữ có thể không đúng so với nguyên bản, nhưng tinh thần đó của bài hát vẫn được gìn giữ sau nhiều lần thu âm. Dù dưới dạng nào, bài hát vẫn thể hiện được kịch tính, mâu thuẫn giữa sự chia ly với nỗi cô đơn, giữ cái chết uổng oan và tình yêu bất tử.
Nếu “Blue Danube” (tựa tiếng Pháp: “Le Beau Danube Bleu”) của Johannes Strauss được ghi nhận là bản hòa tấu phổ biến nhất thế giới, thì “La Paloma” là một trong những ca khúc được ưa chuộng nhất trên địa cầu!
Ngày nay, do thị hiếu của người nghe nhạc cũng như nhu cầu của giới khiêu vũ, bản “La Paloma” đã được một số ban nhạc và ca sĩ trình bày theo thể điệu tango, trong khi trên thực tế, nửa thế kỷ sau khi Sebastian Iradier viết bản “La Paloma”, thể điệu tango mới ra đời. Nhưng âm nhạc vốn không có biên giới, và trong trường hợp của bản “La Paloma”, thể điệu “habanera” phối hợp với giai điệu độc đáo, đã có sức thu hút ngay tự nét nhạc của nó. Ngoài dạng ca khúc trữ tình, “La Paloma” còn được trình diễn dưới nhiều hình thức khác, như opera, nhạc jazz, nhạc rock, nhạc quân hành…
Trong cuốn video tựa đề “La Paloma: The History and Mystery of the World’s Most Popular Song” có những thông tin khá thú vị: Trong khi tại Zanzibar, “La Paloma” được ban nhạc chơi vào cuối tiệc đám cưới thì tại Romani, nhạc khúc này lại được sử dụng vào cuối đám tang. Tại Mexixco, “La Paloma” là nhạc thiều của cách mạng; nhưng tại Đức, “La Paloma” là bản nhạc than vãn của các thủy thủ xa nhà…
Riêng tại thiên đường hạ giới Hawaii, “La Paloma” được xem là bản nhạc “nằm lòng” của các tay đàn guitar Hawaii; đến nỗi, người ta cũng không thể khẳng định nhờ tiếng guitar Hawaii dìu dặt mà “La Paloma” thêm nổi tiếng, hay nhờ giai điệu thu hút của “La Paloma” mà có thêm nhiều người thích đàn guitar Hawaii. Có lẽ cả hai điều này đều đúng.
SEBASTIÁN DE IRADIER
Sebastián Iradier (1809-1865), là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người xứ Basque thuộc Tây Ban Nha – một vùng nằm sát biên giới Pháp – từng đứng lên chống lại nhà cầm quyền để đòi tự trị ở Tây Ban Nha.
Sebastián Iradier qua đời trong lặng lẽ vào năm 1865, khi ông mới 56 tuổi. Thật đáng tiếc là ông đã không sống thêm một thời gian nữa để thấy kiệt tác ”La Paloma” của mình trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất thế giới.
Chính vì Sebastian Iradier chỉ nổi tiếng sau khi đã qua đời, cho nên người ta cũng chẳng được biết nhiều về thân thế của ông. Đặc biệt, ông có cái tên khá dài và khó nhớ là Sebastian de Iradier y Salaverri, nên để thuận tiện trong việc in ấn các bản nhạc, các nhà xuất bản ở Paris đã thuyết phục ông sửa đổi và rút ngắn thành Sebastian Iradier cho dễ đọc, dễ nhớ.
Có tư liệu nói rằng Sebastian Iradier đã tới Cuba vào năm 1861 và chỉ sống ở đó một thời gian ngắn thôi, nhưng cũng là đủ dài cho một mối tình yên ắng giữa ông và một cô giúp việc người dân địa phương. Năm 1863, sau khi trở về Tây Ban Nha, Iradier vẫn không thể nào quên được người tình của mình, nên đã gửi gấm tâm sự qua bản “La Paloma” mà chúng ta đã biết.
PHIÊN BẢN “LA PALOMA” NÀO HAY NHẤT?
“La Paloma” được dịch lời hát hoặc đặt lời hát mới bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Đa số những phiên bản ngoại ngữ đều có lời hát khác với nguyên bản, nhưng dù khác lời, tinh thần của những phiên bản ấy đều đề cập tới tình yêu, chia ly, cô đơn, và cái chết.
Trong những bản dịch, “La Paloma” lời tiếng Anh do nam danh ca Mỹ Dean Martin thu đĩa, không chỉ được xem là sát nghĩa nhất, mà phần nhạc đệm còn trung thành với thể điệu “habanera” trong nguyên tác của Iradier.
Năm 1961, giai điệu của “La Paloma”, trên nền nhạc với tiếng đàn guitar Hawaii, Elvis Presley đã lên tới một đỉnh cao mới với ca khúc “No More” (phiên bản tiếng Anh của “La Paloma”) trong cuốn phim “Blue Hawaii”. So với bản “La Paloma” lời Anh do Dean Martin hát trước đó 15 năm, bản “No More” này đã thay đổi toàn bộ lời hát trong các phiên khúc, và trong điệp khúc cũng chẳng hề nhắc tới hình ảnh con chim bồ câu đậu trên thành cửa sổ trong nguyên tác. Nhưng cũng chính lời hát trữ tình và dễ hiểu ấy, qua giọng hát trầm ấm của Elvis Presley, La Paloma càng thêm phổ biến, nhất là với hình ảnh của ông hoàng nhạc pop… ở trần, mặc quần bơi, ngồi trên thuyền vừa đàn vừa hát, quyến rũ vô cùng!
“La Paloma” với bản gốc tiếng Tây Ban Nha, được thể hiện qua nam danh ca Julio Iglesias, khiến người nghe như bị hớp hồn. Với nữ danh ca người Pháp Mireille Mathieu, qua phiên bản tiếng Pháp “La Paloma Adieu”, ai nghe qua cũng cho rằng nó có nội dung sầu thảm và lời hát bi lụy vô đối! Năm 2004, một ban hợp xướng vĩ đại nhất thế giới gồm 88,600 người đã hợp ca bản “La Paloma” tại thành phố Hamburg, nước Đức, và đã được ghi vào sách kỷ lục thế giới Guinness Book of World Records.
CÁNH BUỒM XA XƯA
Tại Việt Nam trước năm 1975, “La Paloma” đã được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt với tựa “Cánh Buồm Xa Xưa”. Lời hát trong ca khúc này hoàn toàn khác với nguyên tác “La Paloma” của Iradier, nhưng nhạc sĩ Phạm Duy vẫn thể hiện được tinh thần chung của ca khúc nguyên thủy, đó là chia ly và hoài niệm, có khác chăng là nỗi nhớ bâng khuâng man mác được khắc ghi đậm nét hơn là những tình cảm thảm sầu bi lụy.
Vi vu đồi thông reo xao xác lá chiều nay thu về
Em ơi cánh buồm xa ngày xưa còn vương bao lời thề
Xa xa đàn chim ưng dang cánh biếc trời mây tung hoành
Sương lam lắng chìm trong hoàng hôn khi tâm tư tan tành.
Thuyền ai đang lênh đênh vượt sóng biếc cho tan vơi cơn sầu
Ai đang đắm đuối trên lưng muôn con sóng xanh bạc đầu?
Biệt ly sao chua cay làm mắt ướt tóc xanh nay phai màu
Nhớ mãi, nhớ mãi môi em cười khi bến xa con tàu.
Yêu em qua chuỗi ngày thơ
Mà giờ lòng còn vương thương nhớ
Nhớ người xưa chiều nay mình ta bao ước mơ
Niềm riêng se sắt bên lòng.
Thu ơi gieo mấy lần tang
Mà lòng người tàn theo năm tháng?
Ý thu vương trách sao lòng người mau lãng quên
Chiều nay thu vẫn mơ màng.
Lê Hồng minh (SGN)