Nhà văn/nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã từ giã cõi nhân gian

Nhà văn/nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn

đã từ giã cõi nhân gian

Ông Nguyễn Đình Toàn (ảnh: Uyên Nguyên)

Tin từ thân nhân nhà văn Nguyễn Đình Toàn cho hay ông vừa từ trần vào lúc 7 giờ 15 phút tối 28 Tháng Mười Một 2023 ở tuổi 87.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn sinh ngày 6 Tháng Chín 1936 tại Bồ Đề, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Theo lời họa sĩ Tạ Tỵ, “Gia Lâm bên kia bờ Hồng Hà, nối liền với Hà Nội bằng nhịp cầu Long Biên vươn dài ngang dòng nước đỏ phù sa”. Ông di cư vào Nam năm 1954, viết văn, làm thơ, viết kịch, cộng tác với tạp chí Văn của ông Nguyễn Đình Vượng và tạp chí Văn Học của ông Phan Kim Thịnh.

Từ đầu thập niên 1960, ông đã gây chú ý với tập thơ “Mật đắng” và cuốn tiểu thuyết “Chị em Hải” (1962) như ghi nhận của Tạ Tỵ:

“Nguyễn Đình Toàn mở đầu nghiệp văn của mình bằng tác phẩm ‘Chị em Hải’ đăng từng kỳ trên nhật báo Tự Do và cũng do cơ sở này xuất bản. Tác phẩm ra đời, đưa ngay nhà văn vào hẳn khung trời văn nghệ và được dư luận liệt vào thế hệ ‘đợt sóng mới’ của văn chương Việt Nam”.

Sau “Chị em Hải” là những tiểu thuyết như “Những kẻ đứng bên lề” (1964), “Con đường” (1967), “Ngày tháng” (1968), “Phía ngoài” (1969), “Giờ ra chơi” (1970), “Đêm hè” (1970), “Đêm lãng quên” (1970), “Không một ai” (1971), “Đám cháy” (1971).

Ông được công chúng biết đến khi phụ trách một chương trình ca nhạc trên Đài phát thanh Sài Gòn và khi đặt lời cho ca khúc “Tình khúc thứ nhất” của nhạc sĩ Vũ Thành An vào năm 1965.

Sau ngày 30 Tháng Tư 1975, ông chịu chung số phận với nhiều văn nghệ sĩ miền Nam, sách của ông bị cho là “đồi trụy”, bị tịch thu và bản thân ông bị bắt hai lần, đi cải tạo gần sáu năm. Ông sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, cùng với vợ phụ trách chương trình “Đọc sách” cho Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) và viết cho mục Văn học nghệ thuật trên tuần báo Việt Tide của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu.

Mãi đến khi ông đã định cư ở hải ngoại và tiếp tục hoạt động sáng tác, công chúng mới biết đến những sáng tác âm nhạc của ông và nhận ra một khía cạnh khác của ông như ca sĩ Quỳnh Giao đã ghi nhận: “Nguyễn Đình Toàn là nhà văn, là thi sĩ và giới thiệu nhạc bằng cảm quan của một nhà thơ. Ông cũng là nhạc sĩ đã sáng tác rất nhiều, nhưng tác phẩm bị trùm lấp trong biến cố 1975…”

Ca sĩ Khánh Ly đã thực hiện ở hải ngoại hai album nhạc gồm những ca khúc của Nguyễn Đình Toàn (“Hiên cúc vàng” và “Mưa trên cây hoàng lan”), cho thấy ngoài khả năng thẩm âm tinh tế đã giúp cho ông chọn lựa những giọng ca khi thực hiện chương trình “Nhạc chủ đề” khi xưa, ông còn có khả năng phổ nhạc vào những câu thơ của chính mình.

___________________

Văn/Thơ/Ca Từ Nguyễn Đình Toàn, Như Một Lời Tuyên Cáo!

Thơ, nhạc, hồng vàng và Nguyễn Đình Toàn

Nguyễn Đình Toàn, người gõ cửa ký ức

_____________________

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn. (Hình: Dân Huỳnh)

Nhà thơ Du Tử Lê đã ghi nhận:

“Di cư vào miền Nam năm 1954, Nguyễn Đình Toàn trở thành biên tập viên Đài phát thanh quốc gia (mọi người quen gọi là Đài phát thanh Sài Gòn để phân biệt với Đài Quân đội). Những năm đầu ở miền Nam, ngoài công việc thường lệ của một biên tập viên phát thanh, Nguyễn Đình Toàn còn cùng ký giả Phan Lạc Phúc chủ trương một chương trình văn học, nghệ thuật cho Đài Sài Gòn.

Nhưng ông được quần chúng biết tới nhiều hơn cả khi ông cùng nhạc sĩ Vũ Thành An thực hiện chương trình “Nhạc chủ đề”. Đây cũng là thời gian xuất hiện của hai tình khúc như hai cơn bão nhỏ lay động giới trẻ miền Nam: ca khúc “Tình khúc thứ nhất” và “Em đến thăm anh đêm ba mươi”, nhạc Vũ Thành An, lời Nguyễn Đình Toàn, ra đời với cách nói khác, cách nói luôn mở ra những chân trời mới lạ, ảnh hưởng từ những nhân sinh quan Tây phương. Ở thời điểm cuối thập niên 1950 – đầu thập niên 1960 thì đó là cách nói cực kỳ mới mẻ. Người ta không thể tìm thấy ý niệm “niềm vui trong thiên tai,” “yêu nhau như thời gian làm giông bão” trong bất cứ một ca từ nào của nền tân nhạc Việt Nam, kể từ tiền chiến…”

Nguyễn Đình Toàn đã đưa vào thơ Việt hình ảnh những “thiên thần mắc đọa” (fallen angels) trong tôn giáo Tây phương, những thiên thần đã phạm trọng tội trên thiên đường nên bị Thượng đế đày xuống trần thế hay “đày xuống địa ngục và bị trói chặt bằng xiềng xích của bóng tối cho tới Ngày phán xử cuối cùng” như lời trong Thư Peter II của kinh Tân Ước. Thế nhưng những thiên thần mắc đọa trong bài thơ “Tình khúc thứ nhất” của ông không phải là những kẻ phạm trọng tội mà chỉ là:

“Thần tiên gãy cánh đêm xuân

Bước lạc sa xuống trần

Thành tình nhân đứng giữa trời không

Khóc mộng thiên đường…”

Đã trót lạc bước sa xuống trần, những thiên thần mắc đọa đã trở thành những tình nhân luôn quay quắt trong những nỗi đau khôn nguôi vì tình yêu ở chốn trần thế là thứ tình cảm phù du nhất, bao giờ cũng chỉ là:

“Tình vui trong phút giây thôi

Ý sầu nuôi suốt đời…”

hay

“Tình vui theo gió mây trôi

Ý sầu mưa xuống đời…”

Trong những giây phút yêu đương thắm thiết nhất, những tình nhân – thiên thần mắc đọa ấy không hề biết rằng trong sự sum vầy đã có mầm mống của chia phôi và những tâm hồn chìm đắm trong tình yêu bao giờ cũng lẻ loi như những cánh dơi mù bay quờ quạng trong bóng đêm:

“Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai

Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài…”

Ngày tình yêu lên ngôi cũng là ngày mọi khổ đau, dằn vặt bắt đầu vì người ta luôn sợ đánh mất tình yêu hay luôn nhớ tới những phút giây ngây ngất trong tình yêu buổi ban đầu:

“Ngày thần tiên em bước lên ngôi

Đã nghe son vàng tả tơi

Trầm mình trong hương đốt hơi bay

Mong tìm ra phút sum vầy…”

Tình chỉ vui trong phút giây nên người ta khao khát những điều vĩnh cửu, mong có được mãi mãi một tình yêu vững bền hay trở lại với những ngày tươi sáng khi tình yêu vừa chớm nở:

“Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say.

Lá thốt lên lời cây

Gió lú đưa đường mây

Có yêu nhau xin những ngày thơ ngây

Lúc mắt chưa nhạt phai

Lúc tóc chưa đổi thay

Lúc môi chưa biết dối cho lời…”

Mong ước ấy có lẽ sẽ không bao giờ thành hiện thực, nhưng những tình nhân vẫn không hề hối tiếc, sẵn sàng chấp nhận bao đắng cay chỉ để có được những giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi trong tình yêu ở trần thế:

“Ngày về quê xa lắc lê thê

Trót nghe theo lời u mê

Làm tình yêu nuôi cánh bay đi

Nhưng còn dăm phút vui trần thế”.

___________

TÌNH KHÚC THỨ NHẤT

Tình vui theo gió mây trôi

Ý sầu mưa xuống đời

Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi

Mấy tuổi xa người

Ngày thần tiên em bước lên ngôi

Đã nghe son vàng tả tơi

Trầm mình trong hương đốt hơi bay

Mong tìm ra phút sum vầy.

Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai

Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài

Lời nào em không nói em ơi

Tình nào không gian dối

Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say.

Lá thốt lên lời cây

Gió lú đưa đường mây

Có yêu nhau xin những ngày thơ ngây

Lúc mắt chưa nhạt phai

Lúc tóc chưa đổi thay

Lúc môi chưa biết dối cho lời.

Tình vui trong phút giây thôi

Ý sầu nuôi suốt đời

Thì xin giữ lấy niềm tin dẫu mộng không đền

Dù trời đem cay đắng gieo thêm

Cũng xin đón chờ bình yên.

Vì còn đây câu nói yêu em

Âm thầm soi lối vui tìm đến.

Thần tiên gãy cánh đêm xuân

Bước lạc sa xuống trần

Thành tình nhân đứng giữa trời không

Khóc mộng thiên đường

Ngày về quê xa lắc lê thê

Trót nghe theo lời u mê

Làm tình yêu nuôi cánh bay đi

Nhưng còn dăm phút vui trần thế”.

 

Huỳnh Duy Lộc

--------------------

Nguyễn Đình Toàn, Nước Mắt Cho Sài Gòn

 
Tưởng niệm Nguyễn Đình Toàn

Trần yên hòa (trái); nguyễn đình toàn (phải).

Năm 1966, tôi đang học đại học ở Sài Gòn thì cha tôi ở quê viết thư vào bảo: “Quê mình mất an ninh rồi, cha mẹ phải bỏ quê mà tản cư xuống quận lỵ tỵ nạn. Trong một đêm, địch về làng bắn giết, đốt phá nhà cửa của cán bộ làm việc bên phe quốc gia nhiều lắm, cha mẹ sợ quá nên phải tản cư xuống quận lỵ tạm trú, chứ ở quê không yên. Con cố gắng tự túc đi học nghe con.” Tôi đọc thư mà nghe buồn bã quá. Tìm đọc trên mục rao vặt trên các báo Chính Luận, Công Luận, tôi đi dạy kèm, đi giặt đồ cho một công ty thầu giặt đồ cho lính Mỹ, mà lương lậu chẳng đâu vào đâu. Tôi học không vô nữa, bèn nộp đơn xin đi dạy theo một thông cáo tuyển lựa giáo sư tư nhân dạy giờ của Bộ Giáo Dục. Sau đó mấy tháng, tôi được giấy của bộ Giáo Dục bổ nhiệm về dạy ở trường trung học Mộ Đức, Quảng Ngãi. 
    Với nỗi buồn vui lẫn lộn. Buồn vì phải bỏ giảng đường đại học mới tập tểnh bước vào mấy năm. Vui vì mình sắp bước vào con đường mới, con đường dạy học. Đó cũng là mộng ước của tôi thời niên thiếu. Với lại, Quảng Ngãi tôi chưa biết đến bao giờ. Và cả Mộ Đức, một quận lỵ, vẫn nghe đồn rằng, đó là vùng xôi đậu, ban ngày quốc gia, ban đêm “giải phóng”. Nhưng tôi lại nghĩ, mình chỉ là thầy giáo quèn, gỏ đầu trẻ, có gì đâu mà sợ, nên tôi cũng vững tâm đến đó.
    Mộ Đức là một quận lỵ buồn, không có phố xá, chỉ có con đường quốc lộ một chạy qua. Bộ chỉ huy chi khu và văn phòng quận hành chánh đóng chung bên kia đường, đối diện trường trung học, do một trung úy bộ binh làm quận trưởng kiêm luôn chi khu trưởng.
    Tôi đã dạy học ở đó với những em học sinh tóc cháy vàng vì nắng gió và nhờ đó mà tôi vui.
    Những buổi chiều quận lỵ thật buồn. Chênh chếch phía bên kia đường có một loa phóng thanh của chi thông tin bắt trên ngọn cây, hàng ngày thường mở đài Sài Gòn hay đài Quảng Ngãi cho dân chúng nghe tin tức. Một buổi chiều, cũng như mọi buổi chiều khác, tôi được nghe từ loa phóng thanh, một bài hát có tên Tình Khúc Thứ Nhất được xướng ngôn viên giới thiệu tác giả là Vũ Thành An, lời Nguyễn Đình Toàn, bản nhạc này, nhạc đã hay mà lời cũng quá hay:
 
Tình vui theo gió mây trôi
Ý sầu mưa xuống đời
Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi
Mấy tuổi xa người
Ngày thần tiên em bước lên ngôi
Đã nghe son vàng tả tơi
Trầm mình trong hương đốt hơi bay
Mong tìm ra phút sum vầy
Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai
Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài
Lời nào em không nói em ơi
Tình nào không gian dối
Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say
Lá thốt lên lời cây
Gió lú đưa đường mây
Có yêu nhau xin ngày thơ ngây
Lúc mắt chưa nhạt phai
Lúc tóc chưa đổi thay
Lúc môi chưa biết dối cho lời
Tình vui trong phút giây thôi
Ý sầu nuôi suốt đời
Thì xin giữ lấy niềm tin dẫu mộng không đền
Dù trời đem cay đắng gieo thêm
Cũng xin đón chờ bình yên
Vì còn đây câu nói yêu em
Âm thầm soi lối vui tìm đến
Thần tiên gẫy cánh đêm xuân
Bước lạc sa xuống trần
Thành tình nhân đứng giữa trời không
Khóc mộng thiên đường
Ngày về quê xa lắc lê thê
Trót nghe theo lời u mê
Làm tình yêu nuôi cánh bay đi
Nhưng còn dăm phút vui trần thế
 
Lúc này, Vũ Thành An và Nguyễn Đình Toàn chứa nổi, tác giả chỉ là cái tên, nhưng bản nhạc quá hay nên có tôi cảm tình với tác giả ngay, nhất là tác giả viết lời. Lúc đó, tôi cứ nghĩ Vũ Thành An đã phổ từ một bài thơ nào đó của Nguyễn Đình Toàn. Nhưng sau này, khi tôi đọc trên một tờ báo nào đó, mới biết là nhạc phẩm này của Vũ Thành An, Nguyễn Đình Toàn viết lời.
    Chúng ta hãy đọc lại mấy câu, ông dùng ngôn ngữ rất lạ mà rất thơ:
 
Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi
Mấy tuổi xa người
Ngày thần tiên em bước lên ngôi
Đã nghe son vàng tả tơi
Trầm mình trong hương đốt hơi bay
Mong tìm ra phút sum vầy…
Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai
Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài
 
Bản nhạc này, tôi nghe (sau đó được nghe lại mấy lần) và tự nhiên thuộc lời, rồi tôi đã đem lời nhạc này đọc cho học sinh trong lớp tôi dạy (vì tôi dạy môn Việt văn nên tôi tha hồ mà bình luận, bốc phét, thêm nhưn nhị vào bài thơ, những ý tưởng mà có lẽ tác giả cũng không nghĩ ra). Có thể nhờ bản nhạc này mà tôi có một (vài) mối tình rất thơ với một (vài) cô gái Mộ Đức, một cô gái có tên là Nề, mà sau này tôi có viết trong một truyện ngắn, truyện Nề xưa. Bây giờ tất cả đã xa lắc lơ, chỉ còn là kỷ niệm. Cám ơn nhà thơ Nguyễn Đình Toàn.
    Sau này, cũng thời gian năm 66 hay 67 gì đó, tôi có đọc một bài thơ của Nguyễn Đình Toàn ở đâu đó, và rất mê. Nhưng lâu rồi cũng quên nhan đề, sau khi tìm kiếm, lục lọi, mới biết đó là bài Khi Em Về. Tôi xin ghi lại như sau:
 
Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều quá lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo
Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó
Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau
Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi hoa ngâu
Rồi Tết đến, rồi lòng anh nhớ quá
Khi em về bước chân chừng xa lạ
Và cỏ hoa tất cả đã lắng im
Giấc ngủ ấy một đời anh ao ước
Từ máu mình hoài rứt khỏi đường tim
Em đừng khóc, đừng buồn, đừng nhìn nữa
Cứ cúi đầu cứ thế rồi ra đi
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
Và dấu giầy mai sẽ lá sương che
 
Nguyễn Đình Toàn còn có bài thơ Khúc Ca Phạm Thái cũng rất nổi tiếng. Bài thơ ghi lại hình ảnh chàng tráng sĩ Phạm Thái yêu Trương Quỳnh Như, em ruột của người bạn thân là Trương Quang Ngọc, mối tình đó đã trở thành tình sử trong văn học Việt Nam mà Khái Hưng đã viết thành tiểu thuyết Tiêu Sơn Tráng Sĩ. Bài thơ với ngôn ngữ mang mang hào sảng, nói lên chí khí của người tráng sĩ mang gươm đi cứu nước, nhưng thất bại, phải dẹp bỏ cuộc tình riêng, giọng thơ hào khí ngất trời. (hơi thơ giống bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác). Cho nên trong những cuộc vui chơi với bằng hữu, những người thích thơ, biết làm thơ hay cảm thơ, mỗi khi ngồi uống rượu với nhau thường ngâm bài thơ này:
 
Ta tráng sĩ hề, lòng không mềm bằng kiếm,
Ta anh hùng hề, sự nghiệp có đầy đôi mắt Trương Quỳnh Như.
Chí nhỏ lòng kiêu, đổ thưà vận rủi,
Tài sơ sức mỏi, trách với thời cơ .
Lòng chua cay uống mãi rượu giang hồ,
Nâng chén lửa đốt tàn dần năm tháng.
Em ơi tám hướng sông hồ,
Mười năm ngang dọc, bây giờ là đây ..
Sự đời chừ đã trắng tay,
Ngủ vùi một giấc, cho đầy gối tham .
Ta say hay ta tỉnh?
Nàng buồn hay nàng vui?
Ngọc châu pha vỡ tiếng cười ,
Lược gương xin chải ngậm ngùi cho nhau .
 
 
Từ lâu, nghĩa là từ trước năm bảy lăm, tôi nghĩ là Nguyễn Đình Toàn chỉ làm thơ và viết văn thôi, nếu cùng lắm thì ông đặt lời cho nhạc như bài Tình Khúc Thứ Nhất. Nhưng sau này tôi biết ông còn sáng tác nhạc, ông viết rất nhiều ca khúc. Trong những ca khúc của ông tôi thích đâu 3, 4 bài, như bài Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên, mà nhiều người biết đến, sau đây:
 
“Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên – như dòng sông nước quẩn quanh buồn – như người đi cách mặt xa lòng ta hỏi thầm em có nhớ không… Sài Gòn ơi, đến những ngày ôi thành phố xôn xao – trong niềm vui tiếng hỏi câu chào – sáng đời tươi thắm vạn sắc màu – còn gì đâu…”
 
Theo tôi, bản nhạc này là bản nhạc hay nhất của nhạc Việt Nam viết về Sài Gòn sau khi mất nước và lúc Sài Gòn đã thay đổi tên. 2 bản đứng thứ nhì đồng hạng là bài Đêm Nhớ Về Sài Gòn của Trầm Tử Thiêng và bài Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn nhạc Phạm Đình Chương phổ thơ Du Tử Lê. Sau rót mới đến bản Sài Gòn Vĩnh Biệt của Nam Lộc. Bản nhạc Sài Gòn Vĩnh Biệt được mọi người biết đến nhiều có lẽ nhạc phẩm này ra đời sớm, khoảng đâu sau bảy lăm một hai năm, trong lúc đó, lòng người Việt Nam, nhất là những người di tản từ ba mươi tháng tư bảy lăm, luôn luôn khắc khoải trong lòng nổi nhớ quê hương, mà Sài Gòn là biểu tượng một quê hương trong lòng mọi người, nên mất đi Sài Gòn, rời xa Sài Gòn, ai cũng tưởng tiếc, cũng nhớ về. Kể cả những người đi ở tù cộng sản như chúng tôi, khi nghe bản Vĩnh Biệt Sài Gòn (được đưa chui vào trại tù), chúng tôi nghe cũng thật bùi ngùi, cảm động (lúc đó tôi ở Long Khánh, có tin truyền miệng nhạc phẩm Vĩnh Biệt Sài Gòn là của một sĩ quan sư đoàn 5 bộ binh sáng tác). Đến khi qua Mỹ, tôi mới biết tác giả là Nam Lộc. Và theo tôi đánh giá về nghệ thuật, bản nhạc này lời rất giản dị, bình thường, ca từ không có gì mới lạ, có nhiều câu, suy cho kỹ thì phản ý của người di tản hay người vượt biên, ví dụ như câu “bây giờ tôi như con thú hoang lạc đàn”, sao lại là “con thú hoang”? Nếu như vậy thì đất nước Việt Nam Cộng Hòa trước bảy lăm và những người sống trong đất nước đó là đàn thú hoang sao?. Và sau đó có những câu như “Sài Gòn ơi ta xin hứa là ta sẽ về.” Sao đã vĩnh biệt rồi, như theo đề tựa, vĩnh biệt là không bao giờ gặp lại, mà sao hứa sẽ trở về? Cho nên, bản nhạc này được nhiều người nghe là do tâm trạng thương nhớ Sài Gòn có sẳn trong lòng, chứ không phải là bản nhạc hay.
    Nguyễn Đình Toàn sáng tác nhạc rất nhiều, sau khi ra hải ngoại ông đã cho ra mắt 2 CD, đó là: Hiên Cúc Vàng với chỉ một giọng ca Khánh Ly, và Tình Ca Việt Nam với Duy Trác, Khánh Ly, Sĩ Phú, Thái Thanh, Võ Anh Tuấn, Lệ Thu.
    Nhạc Nguyễn Đình Toàn mang hơi hám của một người lưu vong luôn luôn nhớ về những kỷ niệm cũ, một hoài niệm không rời với hồi ức, thường buồn hơn vui, đã đưa người nghe vào một không gian âm thanh sâu lắng, không sôi nỗi xáo động, nó trầm lắng, dịu dàng, nên lớp người cũ đã sống trước bảy lăm ở miền Nam rất thích nghe.
    Từ Giờ Ra Chơi đến Áo Mơ Phai
    Truyện Giờ Ra Chơi của Nguyễn Đình Toàn do nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng in năm 1970. Tôi mua quyển truyện này tại một tiệm sách ở khu Hòa Bình trong một chủ nhât đi phép. Đời SVSQ/CTCT ngày phép thường ra bát phố Đà Lạt, sau khi đã vào tiệm tắm nước nóng tắm để rũ sạch bụi đỏ quân trường, sau đó đi ăn phở Bằng hay vào quán Tùng uống cà phê hay ra bờ Hồ Xuân Hương vào Thủy Tạ ăn kem. Nhưng tôi thì hay đi loanh quanh mấy tiệm sách để tìm mua những tác phẩm mới xuất bản của các nhà văn mình yêu thích. Thời điểm đó, truyện dài Giờ Ra Chơi của Nguyễn Đình Toàn mới phát hành nên tôi nhìn thấy là chộp mua ngay.
    Giờ Ra Chơi kể lại mối tình của cô gái học trò Đà Lạt tên Thục và tình yêu của tuổi mới lớn của Thục. Truyện nhẹ nhàng êm dịu, thơ mộng như trời mây non nước xứ Đà Lạt. Lúc này tôi có một người bạn gái là một cô học trò trường Hồng Đức, Đà Nẵng, tôi liền mua thêm một cuốn gởi về tặng cô gái và tả tình tả cảnh Đà Lạt, cũng như mối tình đẹp của cô học trò tên Thục trong truyện. Tôi cố rũ người bạn gái lên Đà Lạt học trường Chính Trị Kinh Doanh để được gần tôi, cuối cùng cô gái nghe lời “dụ dỗ” của tôi mà lên Đà Lạt theo học. Rất tiếc là khi cô lên Đà Lạt thì tôi cũng xong hai năm thụ huấn. Tôi đổi đi xa nên mối tình cũng bay theo sương khói.
    Áo Mơ Phai, tập truyện dài của Nguyễn Đình Toàn đăng “phơidơtông” ở Nhật Báo Tiền Tuyến, được nhiều người đón nhận, theo dõi say mê từng ngày. Sau này in thành sách và được giải văn chương toàn quốc năm 1972.
    Truyện Áo Mơ Phai kể lại những mối tình thơ mông ở Hà Nội trước ngày di cư năm 1954, khi Hà Nội còn là ngàn năm văn vật đất Thăng Long, cùng với một Hà Nội thơ mộng trữ tình là sự dùng dằng, ra đi hay ở lại của những người Hà Nội trong giai đoạn lịch sử năm 1954, chia đôi đất nước.
    Chúng hãy đọc một đoạn ngắn trong Áo Mơ Phai khi tác giả tả những cái đáng yêu của Hà Nội:
 
“Những tiếng động nhỏ ấy, những hương vị mờ nhạt ngửi thấy, cây cối trong mùa mưa, phấn hương của người quen thuộc, những món ăn, thức uống, những câu thơ, những bài hát, Hà Nội giống như một cái chuông và những tiếng kêu ấy là những cách khua động, người ta tự gõ vào trí tưởng mình, tự xé lòng mình, để nhẹ bớt nỗi nhớ mong, ám ảnh của Hà Nội, Hà Nội đã biến thành khuôn mặt người tình đầu tiên, khi người ta ghé môi hôn thì cũng là lúc cái hình ảnh ấy khắc sâu vào tâm khảm. Những khu phố dịu dàng dưới sương đêm, sáng cái ánh sáng của vầng trăng lúc nào cũng giống như, trăng khi còn thơ ấu, và những cơn gió nhẹ thổi trên các lối đi, thổi lên các cành cây, chẳng khác những hơi thở nồng nàn tình ái, người ta không thể biết rõ cái vẻ dịu dàng của Hà Nội được tẩm đẫm nhan sắc, dáng vẻ của những người đàn bà, những cô gái Hà Nội, hay chính những người này thừa hưởng cái không khí êm đềm đó, những trận gió mang đầy hơi phù sa của sông Hồng, mùi cỏ của con đê Yên Phụ, mùi rượu ngang, rêu phong của những mái nhà cũ kỹ, của những bức tường thành của ngày Hà Nội bị xâm chiếm xa xưa, của các xưởng máy, của hoa đào, hoa sấu, sắc đỏ của những bông gạo vừa tàn rụng hết trong ngày hè với muôn ngàn tiếng chim kêu hót…”
 
Nguyễn Đình Toàn đã hiến cho đời những tác phẩm hay, với riêng với tôi, tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn đã theo bước chân thời gian của cuộc đời đeo đuổi tôi, qua những cuộc tình học trò, sinh viên, thơ mộng, dịu êm. Còn ngoài đời, tôi chỉ gặp ông đâu có hai, ba lần gì đó, cũng chẳng được dịp nói chuyện lâu, nhưng trong lòng tôi, lúc nào cũng mến mộ Nguyễn Đình Toàn.
    Rất cảm ơn nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
 

– Trần Yên Hoà

 
 --------------------------
 

Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi!

“Hãy thắp cho anh một ngọn đèn. Dù mịt mùng xa xăm. Hãy thắp cho anh một ngọn đèn. Dù chẳng còn hơi ấm...

 

 

Sài Gòn ơi!

Đâu những chiều khoác áo ra đi…

Nguyễn Đình Toàn (1936-2023)

 

Lời người viết:

Bài viết nguyên ủy “Văn/Thơ/Ca Từ Nguyễn Đình Toàn- Như Một Lời Tuyên Cáo” được thành hình từ 24 Tháng Tư 2022 nhân buổi Ra Mắt Sách nơi nhà sách Tự Lực do Đinh Quang Anh Thái tổ chức, điều hành. Buổi Ra Mắt Sách có mặt hai Danh Tính Lớn/Lớn Nhất của nền Văn Học Miền Nam trước 1975 ở Sài Gòn, và sau 1975 nơi hải ngoại: Nhà Văn Niên Trưởng Doãn Quốc Sỹ, và Nguyễn Đình Toàn.

Một khách mời tham dự, cô Nhã Lan, Đài Little Sài Gòn có nhận xét: “Khi hỏi chuyện, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ 100 tuổi (sinh 1923) chỉ ngồi cười không nhớ!, và nhà văn Nguyễn Đình Toàn (sinh 1936) thì: “Tay run không ký tròn chữ được trong tập “Thơ và Ca Từ”. Bài viết nầy vì thế được viết nên (lần thứ nhất) nhằm nói cho ra lẽ: Dạng Tướng-Tính Chất-Tiếng Lời riêng biệt của Nhà Văn-Nhà Thơ-Nhạc Sĩ Nguyễn Đình Toàn.

Và nay, kể từ 17:15 giờ, ngày 28 Tháng Mười Một 2023, Nguyễn Đình Toàn không còn nơi cuộc sống trần thế. Người Nghệ Sĩ Lớn của Miền Nam/của Việt Nam dần mất dấu như âm thanh thăm thẳm thắm thiết của Sài Gòn đã, đang dần xa…

Một.

Suốt một thời gian qua hơn nửa thế kỷ cầm viết, bản thân anh luôn (tự) giữ nguyên tắc: Không viết hay nói đến những nhân vật trong giới văn học-nghệ thuật đương thời, còn sống… Cụ thể (nếu) nói, viết về Đỗ Ngọc Yến, Như Phong, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Huấn, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Bảo Trúc, Đào Vũ Anh Hùng, Huy Phương… chỉ sau khi những người thân nầy đã qua đời. Anh (tự) giải thích về “nguyên tắc tự biên/tự diễn” nầy như sau:

Không viết/nói về những người còn sống nhằm tránh rơi vào “khuyết điểm/thật là một cái bẫy” những người cầm bút Miền Nam trước 1975, hoặc sau nầy ở hải ngoại hầu như thường vấp phải: Ấy là quá xưng tụng, tung hô, hoặc đối lập là phê phán, chỉ trích theo quan điểm cá nhân chủ quan.

Thế nhưng, hôm nay anh cần nói (thêm một lần) về Niên Trưởng Nguyễn Đình Toàn vì hai lẽ, khách quan và chủ quan, với mục đích và yêu cầu trình bày đủ/chính xác Sự Lớn Lao của Chữ và Người Nguyễn Đình Toàn – Qua tác phẩm cuối cuộc của một Tác Giả với độ tuổi 80, 90 vẫn tiếp tục làm việc, sau cơn bão lửa rúng động tận căn cơ mấy chục triệu người Miền Nam/Cũng toàn thể Việt Nam suốt 48 năm sau ngày 30 Tháng Tư 1975. Sự đơn giản tưởng như một phép lạ nầy sao không ai thấy ra? Sao không mấy ai nói ra?

Anh cũng cần phải viết lên vì còn mấy ai hiện nay nơi hải ngoại, ở trong nước biết rõ, đủ về người và việc tại những năm 50, 60, 70 nơi Miền Nam, ở Sài Gòn… mà (chỉ) thoáng 40 năm hơn sau 1975, những sự kiện, con người mươi năm trước đã hóa nên cũ kỹ, mau chóng lãng quên!

Là một người lính đơn vị đóng ở Phi Trường Biên Hòa, mỗi lần về phép Sài Gòn thường đến quán La Pagode (Cái Chùa), góc đường Tự Do/Lê Thánh Tôn nơi tụ họp thường xuyên giới làm báo, viết văn Sài Gòn để gặp những bạn bè cùng thế hệ (phần đông gốc người Bắc, hay Trung) trong báo giới, văn giới. Tới Quán Chùa, anh thường thấy Nguyễn Đình Toàn, người đàn ông gầy, ngồi lặng lẽ trong chiếc ghế bành màu đỏ với chiếc tẩu thuốc.

Cách ngồi trầm tĩnh với ống tẩu tạo cho ông một cách thế riêng biệt rất dễ nhận trông đám đông ồn ào xởi lởi của một quán nước, nơi tập trung của giới người chuyên nghề “nói và viết”. Nguyễn Đình Toàn vốn ít nói, có nói cũng chỉ với tiếng nhỏ, ngắn lời. Tuy nhiên mỗi lời nói ngắn, nhỏ kia chứa đựng sức nặng đáng kể khó ai phản bác, chống đỡ. Ví dụ, khi nhận xét về một nhân vật đang giữ chức vụ cao trong chính quyền có thói quen tuyên bố lớn tiếng, ồn ào, thái độ, đi đứng mạnh mẽ trong khi thể hình không mấy cao lớn, Nguyễn Đình Toàn đưa nhận xét:

“Nện gót giày kêu to, vung tay mạnh mẽ, tuyên bố ồn ào không làm cho người… cao thêm chút nào cả!”

Kẻ bị/được nhận xét không (thể) có được một lời, một tiếng phản đối! Tất cả người ngồi bàn nước chững lại không một ai biết được sau khuôn mặt bình thản kia có những phản ứng dữ dội ngấm ngầm thế nào?

Từ lời nói, việc làm cụ thể như vừa kể ra, dẫu không phải là người thân cận, anh nhìn thấy Nguyễn Đình Toàn quả là một người có bản lãnh, sắc sảo đáng quý trọng. Ông không hề khoa trương, lớn lối. Đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật 1973 với giá hiện kim tương đương 40 lượng vàng, được hỏi sao không mua chiếc xe hơi đi cho nhàn hạ. Ông chỉ cười kín đáo: Thì đi Honda cũng sang chán!

Nhận xét khách quan như trên về Nguyễn Đình Toàn thêm được củng cố sau năm 1968, khi gia đình người em gái có chồng là nhân viên hành chánh Ban Mê Thuột đổi về tỉnh Gia Định. Gia đình em anh trở nên là hàng xóm thân thiết với nhà Nguyễn Đình Toàn qua hai căn nhà đối lưng trong Khu Làng Báo Chí Thủ Đức. Sau năm 1975, bản thân gia đình anh, người em, và Nguyễn Đình Toàn đồng lâm cơn đại loạn cùng lần nước mất nhà tan mà sống qua mỗi ngày, mỗi đêm là một lo sợ.

Sợ ngày mai sẽ đến! Gặp lại ở Mỹ, vùng Nam Cali, anh và Nguyễn Đình Toàn là hai người cầm bút còn (sống) sót của Miền Nam vẫn tiếp tục công việc từ trước 1975 ở Sài Gòn: Sống/Chiến Đấu/Viết không khoan nhượng với người, chế độ Hà Nội. Dẫu Nguyễn Đình Toàn không hề lên tiếng phê phán gay gắt. Mến mộ trong lòng anh trước 1975 trở thành một Niềm Kính Phục toàn phần cố kết.

Hai.

Hiện nay, nước Việt Nam bên kia Thái Bình Dương bị độc trị bởi một chế độ chủ trương tận diệt tất cả di sản của người, và việc VNCH. Chủ trương độc hại nầy được hiện thực với Nghị Quyết 36 nhằm đánh sập Hệ Thống Chính Trị-Kinh Tế-Văn Hóa-Xã Hội” của Người Việt Tỵ Nạn cộng sản nơi hải ngoại. Chiến dịch NQ36 được khởi động từ 2008 với mục tiêu điển hình cụ thể, vùng Little Saigon, Nam Cali. Trong cuộc chiến đấu không cân sức quyết liệt nầy – Chữ và Lời của Nguyễn Đình Toàn nói chung/cụ thể qua Thơ và Ca Từ có giá trị chiến đấu với công lực vô cùng mạnh mẽ.

Trước tiên, liên quan đến những cuốn sách viết trong một thời gian dài từ sau thập niên 1950, 60… đến trước 1975, và sau 1975 ở hải ngoại; điển hình với Thơ và Ca Từ được giới thiệu ngày 24 Tháng Tư 2022. Nhằm để trình bày đầy đủ, người viết sử dụng hai tiểu luận: Một của NTV, hai của Lưu Na về Nguyễn Đình Toàn. Hai tiểu luận của hai tác giả khác xa thế hệ, viết trước, sau 1975 ở Sài Gòn, và nay ở hải ngoại với hai nhận định khác hẳn… Từ đấy, có thể tìm ra Điểm Chung Nhất về Nguyễn Đình Toàn mà bài viết (lần thứ hai) muốn nêu rõ.

Cách ngồi trầm tĩnh với ống tẩu tạo cho ông một cách thế riêng biệt rất dễ nhận trông đám đông ồn ào xởi lởi của một quán nước, nơi tập trung của giới người chuyên nghề “nói và viết”. Nguyễn Đình Toàn vốn ít nói, có nói cũng chỉ với tiếng nhỏ, ngắn lời. Tuy nhiên mỗi lời nói ngắn, nhỏ kia chứa đựng sức nặng đáng kể khó ai phản bác, chống đỡ. Ví dụ, khi nhận xét về một nhân vật đang giữ chức vụ cao trong chính quyền có thói quen tuyên bố lớn tiếng, ồn ào, thái độ, đi đứng mạnh mẽ trong khi thể hình không mấy cao lớn, Nguyễn Đình Toàn đưa nhận xét:

“Nện gót giày kêu to, vung tay mạnh mẽ, tuyên bố ồn ào không làm cho người… cao thêm chút nào cả!”

Kẻ bị/được nhận xét không (thể) có được một lời, một tiếng phản đối! Tất cả người ngồi bàn nước chững lại không một ai biết được sau khuôn mặt bình thản kia có những phản ứng dữ dội ngấm ngầm thế nào?

Từ lời nói, việc làm cụ thể như vừa kể ra, dẫu không phải là người thân cận, anh nhìn thấy Nguyễn Đình Toàn quả là một người có bản lãnh, sắc sảo đáng quý trọng. Ông không hề khoa trương, lớn lối. Đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật 1973 với giá hiện kim tương đương 40 lượng vàng, được hỏi sao không mua chiếc xe hơi đi cho nhàn hạ. Ông chỉ cười kín đáo: Thì đi Honda cũng sang chán!

Nhận xét khách quan như trên về Nguyễn Đình Toàn thêm được củng cố sau năm 1968, khi gia đình người em gái có chồng là nhân viên hành chánh Ban Mê Thuột đổi về tỉnh Gia Định. Gia đình em anh trở nên là hàng xóm thân thiết với nhà Nguyễn Đình Toàn qua hai căn nhà đối lưng trong Khu Làng Báo Chí Thủ Đức. Sau năm 1975, bản thân gia đình anh, người em, và Nguyễn Đình Toàn đồng lâm cơn đại loạn cùng lần nước mất nhà tan mà sống qua mỗi ngày, mỗi đêm là một lo sợ.

Sợ ngày mai sẽ đến! Gặp lại ở Mỹ, vùng Nam Cali, anh và Nguyễn Đình Toàn là hai người cầm bút còn (sống) sót của Miền Nam vẫn tiếp tục công việc từ trước 1975 ở Sài Gòn: Sống/Chiến Đấu/Viết không khoan nhượng với người, chế độ Hà Nội. Dẫu Nguyễn Đình Toàn không hề lên tiếng phê phán gay gắt. Mến mộ trong lòng anh trước 1975 trở thành một Niềm Kính Phục toàn phần cố kết.

Hai.

Hiện nay, nước Việt Nam bên kia Thái Bình Dương bị độc trị bởi một chế độ chủ trương tận diệt tất cả di sản của người, và việc VNCH. Chủ trương độc hại nầy được hiện thực với Nghị Quyết 36 nhằm đánh sập Hệ Thống Chính Trị-Kinh Tế-Văn Hóa-Xã Hội” của Người Việt Tỵ Nạn cộng sản nơi hải ngoại. Chiến dịch NQ36 được khởi động từ 2008 với mục tiêu điển hình cụ thể, vùng Little Saigon, Nam Cali. Trong cuộc chiến đấu không cân sức quyết liệt nầy – Chữ và Lời của Nguyễn Đình Toàn nói chung/cụ thể qua Thơ và Ca Từ có giá trị chiến đấu với công lực vô cùng mạnh mẽ.

Trước tiên, liên quan đến những cuốn sách viết trong một thời gian dài từ sau thập niên 1950, 60… đến trước 1975, và sau 1975 ở hải ngoại; điển hình với Thơ và Ca Từ được giới thiệu ngày 24 Tháng Tư 2022. Nhằm để trình bày đầy đủ, người viết sử dụng hai tiểu luận: Một của NTV, hai của Lưu Na về Nguyễn Đình Toàn. Hai tiểu luận của hai tác giả khác xa thế hệ, viết trước, sau 1975 ở Sài Gòn, và nay ở hải ngoại với hai nhận định khác hẳn… Từ đấy, có thể tìm ra Điểm Chung Nhất về Nguyễn Đình Toàn mà bài viết (lần thứ hai) muốn nêu rõ.

“Sài Gòn ơi Ta mất Người như người đã mất tên. Như dòng sông nước quẩn quanh buồn. Như người đi cách mặt xa lòng. Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên. Như mộ bia đá lạnh hương nguyền. Như trời sâu đã bỏ đất sầu…”

Cám ơn Nguyễn Đình Toàn. Cám ơn Người Viết Ca Từ Nguyễn Đình Toàn.

Bốn.

Cuối cùng, dẫu viết văn, viết nhạc qua mọi hình thái biểu hiện, Nguyễn Đình Toàn trước tiên, chung nhất vẫn là/luôn là Một Thi Sĩ tức là tổng hợp của “Người Viết Văn-Viết Nhạc-Soạn Kịch-Viết Nhạc Chủ Đề” – Tất cả chỉ là hóa thân từ Tâm Chất của Thi Sĩ tức là Người Viết/Sống/Với Thơ là Một.

Ngày trước, Nguyễn Du phải viết Truyện Kiều. Thời đại chúng ta có Bùi Giáng; Tô Thùy Yên… phải làm Thơ. Tương tự Phạm Duy phải viết Nhạc. Trường hợp của Nguyễn Đình Toàn, anh nghĩ cũng không khác. Cụ thể,  buổi ra mắt sách (đã là cuối cuộc) trong ngày 24 Tháng Tư 2022 là một tập Thơ: Thơ và Ca Từ – Những chữ nghĩa của ông đúc kết trong tác phẩm sau cùng nầy. Chúng ta hãy đọc lại những lời khốc liệt:

“Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi. Bằng sức người vô hạn. Đầu đội trăm tấn bom. Tim mang nghìn dấu đạn. Tôi đã đổ mồ hôi. Đổ máu tươi. Để mong ở lại đây. Dù thế nào. Cũng ở lại đây…”

Không thế nào có những chữ, lời can đảm, chịu đựng hơn thế nữa. Những chữ, lời đã chuẩn bị thấy ra từ ngày 17 tuổi, 1954 khi xa Hà Nội với… “những đêm khuya, những buổi chiều. Hà Nội như một cơ thể mắc chứng hoại huyết. Từ những vùng quê xa, từng đoàn người lam lũ, lầm lũi, ngày ngày gồng gánh, lếch thếch dắt díu nhau về Hà Nội… chờ để được đưa đi tới các phi trường, bến tàu – Di cư vào Nam (Áo Mơ Phai).”

Thơ Nguyễn Đình Toàn nay được viết (lại) sau năm 1975 vì những gì (chế độ cộng sản Hà Nội) đốt được thì đã không còn… Tất cả hình ảnh của ngày phát giải Văn Học Nghệ Thuật 1973 (với Áo Mơ Phai) và sách Nguyễn Đình Toàn đồng được/bị xếp vào loại “văn hoá đồi truỵ” nên tất cả đã bị tịch thu và trở thành “Tro Than”, như tên một tác phẩm định mệnh trong chiến dịch đốt sách khắp Miền Nam sau 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng như một phép lạ có thật, chiếc Huy Chương Đồng mạ Vàng của giải thưởng năm 1973 xa xưa kia đã được một người trẻ tuổi (vô tình) mua lại trên vỉa hè Hà Nội và giao lại cho ông tại Mỹ. Và quả thật là một phép lạ, với vóc dáng gầy yếu thêm mang bịnh lao phổi từ thập niên 60, Người Viết Thơ Nguyễn Đình Toàn đã vượt sống với một tinh thần chiến đấu quyết liệt…

“Hãy thắp cho anh một ngọn đèn. Dù mịt mùng xa xăm. Một ngọn đèn trong đêm mờ ám. Hãy thắp cho anh một ngọn đèn. Dù chẳng còn hơi ấm. Và kỳ diệu biết bao… Cố thắp cho em một ngọn đèn. Để dù trong xa vắng. Em còn được cháy trong lòng anh.”

Ai trong chúng ta có thể nói những lời yêu thương đơn giản nhưng thắm thiết đến nhường nầy. Cách nói của “Những Người Viết Thơ”:

“Thế rồi, tôi sẽ đi tìm. Tìm em như thể là Người Đầu Tiên (Bùi Giáng)”;

hoặc “Ta về dẫu phải đi chân đất. Khắp thế gian nầy để gặp em…” của Tô Thùy Yên.

Cám ơn thêm một lần. Cám ơn rất nhiều lần những THI SĨ từ Miền Nam. Của Miền Nam.

Hậu Từ.

Nguyễn Đình Toàn khi trả lời phỏng vấn của Hoàng Khởi Phong trên RFA năm 2006, có lời tường trình: “Có những người thức thời, nhìn xa trông rộng, có thể tiên đoán dự liệu được những biến chuyển của thời cuộc, dĩ nhiên có những điều họ tiên đoán cũng có điều sai. Mà đúng hay sai thì chỉ khi nào sự việc xảy ra thì họ mới biết được. Tôi viết cuốn sách đó (Áo Mơ Phai, Sài Gòn, 1973-Pnn) chỉ dựa trên những dự cảm đối với hoàn cảnh lịch sử (Hà Nội-1954-Pnn) cho một người chịu đựng hoàn cảnh lịch sử như chịu đựng sự đổi thay của thời tiết”.

Phát biểu của Nguyễn Đình Toàn được NTVinh so sánh với diễn văn của Albert Camus khi dự lễ nhận giải Nobel Văn chương 1957. Camus nhận định rằng: “Ngày nay nhân loại gồm số nhỏ người làm lịch sử và đông đảo những người phải gánh chịu những hậu quả do biến cố lịch sử. Và Albert Camus cho rằng vị trí của những người làm văn học nghệ thuật là đứng về phía những Người Khổ Đau Vì Lịch Sử.

Không có thể bảo: Ai khổ hơn Ai? Kẻ làm nên lịch sử, hay số đông thường nhân (vô tình/cố ý) phải nhận mối oan nghiệt lịch sử ấy?! Và nhà văn hoặc người dân thường muốn hay không muốn cũng phải nhận lấy. Chỉ riêng Nguyễn Đình Toàn thì nói rõ:

TÔI ĐÃ CỐ BÁM LẤY ĐẤT NƯỚC TÔI

Rất đông Người Việt cũng có quyết tâm ấy. Chỉ khác, chúng ta không có điều kiện để nói ra như Nhà Văn-Nhạc Sĩ- Thi Sĩ Nguyễn Đình Toàn mà thôi.

Nguyễn Đình Toàn lớn lao đến ngần nào.

Cali, 28 Tháng Mười Một 2023

Ngày Nguyễn Đình Toàn vắng mặt sau “Giờ Ra Chơi”

 

Phan Nhật Nam

Kim phượng sưu tầm & tổng hợp

 

 
Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %04 %990 %2023 %17:%12
back to top