Chia buồn

Chia buồn (24)

Tiếc thương cựu Đệ Nhất Phu Nhân Rosalynn Carter

 

 
CỰU ĐỆ NHẤT PHU NHÂN ROSALYNN CARTER QUA ĐỜI - TIN ATLANTA 11.20.23 -  YouTube

Tiếc thương cựu Đệ Nhất Phu Nhân Rosalynn Carter, một tấm lòng tận tụy vì con người

Cựu Tổng thống Jimmy Carter và cố Đệ nhất phu nhân Rosalynn tại lễ nhậm chức Tổng thống, năm 1977.
 

Cụ bà Rosalynn Carter, cựu đệ nhất phu nhân và là người hoạt động nhân đạo không mệt mỏi, vừa qua đời, thượng thọ 96 tuổi.

Jimmy and Rosalynn Carter Reveal the Secret to a Happy Marriage
 

Cụ bà Rosalynn Carter đã cống hiến cả đời mình cho các hoạt động phục vụ xã hội, bao gồm các chương trình hỗ trợ nguồn lực chăm sóc sức khỏe cho các bệnh nhân tâm thần, nhân quyền, công bằng xã hội và nhu cầu của người già.


Cố đệ nhất phu nhân thường xuyên cố vấn chính trị cho chồng bà, cựu Tổng thống Jimmy Carter, và bà là tấm gương cho đất nước, đã qua đời hôm Chủ nhật ngày 19 Tháng 11 năm 2023 tại nhà riêng ở Plains, tiểu bang Georgia. Theo tin của Carter Center, cụ đã được chăm sóc cuối đời tại nhà cho tới lúc nhắm mắt ra đi.

Trong một bản tuyên bố, cựu Tổng thống Carter nói: “Rosalynn luôn gắn bó với tôi trong mọi việc tôi từng hoàn thành. Rosalynn đã cho tôi sự hướng dẫn và những lời động viên khôn ngoan khi tôi cần. Chừng nào Rosalynn còn trên đời, tôi luôn biết có người yêu thương và ủng hộ mình”.

Cụ bà Rosalynn Carter được nhiều người ca ngợi vì sự khôn ngoan trong chính trị, đặc biệt là bản năng nhạy bén, sức hấp dẫn và công việc thay mặt Tòa Bạch Ốc, bao gồm cả vai trò đặc sứ Hoa Kỳ tại các nước Châu Mỹ Latinh, lúc ông Carter lãnh đạo nước Hoa Kỳ.

Tại một hội nghị chuyên đề về sức khỏe tâm thần năm 2003, cụ bà Carter nói: “Hai mươi lăm năm trước, chúng tôi không mơ rằng một ngày nào đó mọi người có thể thực sự khỏi bệnh tâm thần. Đối với một người đã làm việc về các vấn đề sức khỏe tâm thần lâu như tôi, thì đây là một sự phát triển kỳ diệu và là câu trả lời cho những lời cầu nguyện của tôi”.

Vào cuối tháng Năm vừa qua, Trung tâm Carter, tổ chức hoạt động nhân quyền của hai ông bà, thông báo rằng cụ bà đã được chẩn đoán mắc chứng bệnh mất trí nhớ. Tổ chức này cho biết trong một tuyên bố: “Cựu đệ nhất phu nhân vẫn tiếp tục sống hạnh phúc ở nhà với chồng, tận hưởng mùa xuân ở Plains và thăm những người thân yêu”.

Trong lịch sử Mỹ, cụ bà Bess Truman, vợ của Tổng thống Harry Truman, là đệ nhất phu nhân duy nhất sống lâu hơn cụ bà Rosalynn Carter. (Cụ Bess Truman qua đời năm 1982, thượng thọ 97 tuổi) 

Jimmy và Rosalynn là cặp vợ chồng Tổng thống kết hôn lâu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Họ gặp nhau khi ông Jimmy Carter mới ba tuổi và bà Rosalynn mới chào đời được một ngày. 

Năm 1927, ở nơi bình nguyên thôn dã Plains, thuộc tiểu bang Georgia, một cậu bé tên là Jimmy Carter sống trong căn nhà mà nhà hàng xóm kế bên là một xưởng sửa xe. 

Xưởng này của ông Francis Smith. Năm đó, bà Smith đang mang thai, và đến tháng Tám thì sinh nở. Bà mẹ của Jimmy, làm nghề y tá, chạy sang nhà hàng xóm đỡ đẻ. Ngày hôm sau, cậu bé Jimmy từ nhà bên này được bồng sang thăm “nhân sự” mới của nhà hàng xóm, đang nằm trong nôi: đứa trẻ sơ sinh là cô bé Rosalynn!

Năm 1946, đôi trẻ cưới nhau.

Họ đã kết hôn được 77 năm – cặp vợ chồng kết hôn lâu nhất trong lịch sử Tổng thống.

Jimmy And Rosalynn Carter Wedding Day
 

Theo lời kể của hai ông bà, Jimmy và Rosalynn Carter không chỉ là vợ chồng mà còn là tri kỷ trọn vẹn và đời sống vợ chồng là thành tựu lớn nhất của hai ông bà. Mối quan hệ của hai ông bà đã trải qua một nhiệm kỳ đầy biến động tại tòa Bạch Ốc, cùng với cuộc chiến chống căn bệnh ung thư của ông Jimmy và cuộc đời dài sau nhiệm kỳ Tổng thống được đánh dấu bằng lối sống khiêm tốn và phục vụ cộng đồng.

Cụ bà Rosalynn qua đời thọ 96 tuổi. Cụ ông Jimmy Carter còn sống, năm nay tuổi 99, vẫn ở nơi bình nguyên Plains và cụ ông lần đầu tiên không có vợ kể từ những năm thiếu niên.

Vậy là hai ông bà “biết” nhau cả thảy 96 năm trong đời họ; tức 100% cuộc đời bà và 97% cuộc đời ông.

Cựu Tổng thống   Jimmy Carter cho biết ông muốn cưới Rosalynn ngay sau buổi hẹn hò đầu tiên. Cặp đôi này lớn lên chỉ cách nhau ba dặm ở Plains, Georgia.

Mẹ của Jimmy là một y tá đã giúp chăm sóc Rosalynn tại một thị trấn không có quá nhiều con trai, và Rosalynn nhanh chóng trở thành bạn thân của em gái Jimmy.

Cựu Đệ nhất phu nhân viết trong hồi ký của mình: “Tôi nghĩ anh ấy là chàng trai trẻ đẹp nhất mà tôi từng gặp”, và bà cũng tiết lộ rằng trong nhiều năm bà đã âm mưu không thành công để cố gắng khiến ông chú ý đến mình.

Mãi đến năm 1945, ở độ tuổi 20 và 17, hai người mới có cuộc hẹn hò đầu tiên. Chàng trai trẻ Jimmy Carter vừa tốt nghiệp sĩ quan của Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis tiểu bang Maryland, và cô gái Rosalynn vừa mới học xong năm đầu tiên tại Georgia Southwestern College.

Họ không thể nhớ mình đã xem bộ phim gì, nhưng Jimmy nhớ rằng Rosalynn xinh đẹp, nhút nhát và thông minh. Ông nhớ lại tâm trạng một người vừa biết yêu trong một bài thơ ông viết trong cuốn sách tựa đề Always a Reckoning xuất bản năm 1995.

JIMMY CARTER & ROSALYNN CARTER Signed Photo AUTOGRAPHED 8X10 39th  PRESIDENT COA | eBay
 

Ông Jimmy viết: “Tôi sẽ trả tiền để ngồi sau cô ấy, không nhìn thấy, dù không xem được những gì đang được chiếu trên màn ảnh mà chỉ thấy hình ảnh nhấp nháy trên tóc cô ấy."

Buổi sáng sau cuộc hẹn hò, Jimmy nói với mẹ rằng Rosalynn chính là cô gái mà anh muốn cưới. Nhưng vài tháng sau, khi Jimmy cầu hôn, Rosalynn lại từ chối.

Rosalynn đã hứa với cha cô lúc cha nằm trên giường bệnh rằng, cô sẽ không kết hôn cho đến khi học xong đại học. Và Rosalynn tiếp tục hẹn hò với những chàng trai khác trong khi đang học lấy bằng.

Nhưng Jimmy vẫn tiếp tục viết thư, gọi điện thoại, nói với Rosalynn rằng anh thực lòng muốn lấy cô làm vợ. Và đến mùa hè, sau khi tốt nghiệp, cô chấp nhận lời cầu hôn của anh. 

Họ kết hôn vào ngày 7 tháng 7 năm 1946 và dọn nhà đến Norfolk, Virginia – nơi làm nhiệm vụ đầu tiên của Jimmy sau khi tốt nghiệp. Nhưng cuộc sống trong một gia đình Hải quân có nghĩa là họ phải di chuyển thường xuyên.

Bốn đứa con của hai ông bà đều sinh ra ở các bang khác nhau: John William ở Virginia, James Earl ở Hawaii, Donnel Jeffrey ở Connecticut và Amy Lynn – con gái duy nhất của họ – ở Georgia.

Gia đình Carters trở thành cặp vợ chồng kết hôn lâu nhất trong lịch sử Tổng thống Mỹ, khi họ vượt qua kỷ lục 73 năm của cố Tổng thống George H.W. Bush và Đệ nhất Phu nhân Barbara Bush.

Thật khó để tưởng tượng một cặp vợ chồng Tổng thống khác có thể vượt qua cột mốc đó. Ví dụ, cựu Tổng thống Barack Obama sẽ cần phải sống tới 108 tuổi và cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama cần sống đến 105 tuổi để có được 77 năm chung sống như ông bà Jimmy Carter.

Vintage Postcard President Jimmy Carter First Lady Rosalynn Carter Unused  Card | eBay
 

Cựu Tổng thống Jimmy nói với báo chí rằng, tình yêu trong hôn nhân của hai ông bà là bí quyết giúp ông sống lâu và tràn đầy sức sống. Ông mô tả tình yêu ông dành cho bà Rosalynn quan trọng hơn bất cứ điều gì ông làm với tư cách là Tổng thống và là Tổng tư lệnh tối cao quân đội hoặc thậm chí là sĩ quan Hải quân trong những năm Chiến tranh Lạnh.

Ông Jimmy nói với hãng tin Associated Press vào năm 2021: “Bí mật lớn nhất của tôi là cưới đúng người”.

Nhưng không phải mọi thứ đều thuận buồm xuôi gió. Khi Carter thất bại trong cuộc tái tranh cử năm 1980 và thân phụ ông qua đời, ông quyết định chuyển cả gia đình trở về quê hương nhỏ bé của họ ở Plains mà không nói với Rosalynn. Nhưng bà đã phẫn nộ với quyết định này của chồng trong nhiều năm.

Cựu Tổng thống của đảng Dân chủ này nổi tiếng vì đã từ chối tham gia hội đồng quản trị các công ty lớn hoặc có những bài phát biểu được những khoản tiền lớn, thay vào đó ông chọn một cuộc sống khiêm tốn trong cùng ngôi nhà nơi ông và Rosalynn sống trước khi ông làm Tổng thống.

JIMMY & ROSALYNN CARTER SIGNED 8x10 PHOTO PRESIDENT & FIRST WIFE  BECKETT BAS | eBay
 

Sau khi ông không còn làm Tổng thống, thông qua tổ chức Carter Center ở Atlanta, hai ông bà đã dành trọn thời gian để phục vụ cộng đồng, hoạt động nhân đạo, bảo vệ môi trường sống cho nhân loại và phục vụ nhà thờ địa phương của họ.

Trong những năm sau đó, hai ông bà trở thành người chăm sóc chính cho nhau. Bà Rosalynn luôn luôn ở bên cạnh ông và ông đã ở bên cạnh bà khi gia đình thông báo vào tháng Năm vừa qua rằng bà mắc chứng bệnh mất trí nhớ.

Gia đình Carters đánh dấu kỷ niệm 75 năm ngày cưới bằng một bữa tiệc tại trường trung học cũ của họ. Hai ông bà tích lũy một danh sách dài các sở thích chung, như chơi môn quần vợt, ngắm chim, săn gà tây, câu cá và trượt tuyết.

Cặp đôi hạnh phúc này đi dạo hàng ngày quanh khu phố của họ và người dân thường được nhìn thấy hai cụ cười đùa và nắm tay nhau.

Gia đình Carters được khắp nơi ngưỡng mộ vì các hoạt động nhân đạo của hai ông bà sau khi ông rời Tòa Bạch Ốc. Hai ông bà cam kết cải thiện cuộc sống của người dân trên khắp thế giới.

Năm 1982, hai ông bà thành lập Trung tâm Carter, một tổ chức nhân quyền phi lợi nhuận ra đời với sự cộng tác của Đại học Emory ở Atlanta. Bảy năm sau, bà Rosalynn thành lập Viện chăm sóc các bệnh nhân tâm thần Rosalynn Carter tại Đại học Georgia Southwestern.

 

Cựu Tổng thống Jimmy Carter và cố Đệ nhất phu nhân Rosalynn Carter tại Trung tâm Carter ở Atlanta, GA, năm 2016.

 

Bà đã tổ chức các hội nghị chuyên đề hàng năm về sức khỏe tâm thần tại Trung tâm Carter trong hơn ba mươi năm, đoàn kết các chuyên gia và những người ủng hộ để thảo luận về bệnh tâm thần, cách đối phó của gia đình, tài trợ cho các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ nghiên cứu và giảm bớt sự kỳ thị.

Hai người đã được Tổng thống Bill Clinton trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống vào tháng Tám năm 1999. Tổng thống Clinton, phát biểu tại Trung tâm Carter, ca ngợi cặp đôi này vì những thành tựu nhân đạo của họ.

Clinton nói: “Hiếm khi chúng ta vinh danh hai người đã cống hiến hết mình một cách hiệu quả để thúc đẩy tự do bằng mọi cách. Jimmy và Rosalynn Carter đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho nhiều người ở nhiều nơi hơn bất kỳ cặp đôi nào khác trên Trái đất.”

Cựu Tổng thống Jimmy Carter đã xây bao nhiêu ngôi nhà trong dự án tên là Habitat for Humanity?

Hơn 4.300 ngôi nhà được đặt tên là "Ngôi nhà Carter" vì Carters đã giúp xây dựng với hơn 100.000 tình nguyện viên ở 14 quốc gia trong gần 40 năm

Một phần quan trọng trong di sản của Jimmy Carter không được chú ý nhiều, ngay cả trong bối cảnh gần đây có rất nhiều lời tri ân dành cho vị Tổng thống thứ 39 này của Hoa Kỳ sau khi ông được chăm sóc cuối đời.

Nhiều chục năm sau khi rời Tòa Bạch Ốc, những thành quả mà Tổng thống Carter đã thực hiện trong nhiệm kỳ Tổng thống của mình vẫn đang định hình nước Mỹ.

Điển hình, nhờ quyết định của Tổng thống Carter, hàng trăm ngàn người chạy trốn các chế độ độc tài đã có cơ hội đến Hoa Kỳ tỵ nạn. Và hàng triệu người khác đã tái định cư ở Mỹ sau khi ông rời nhiệm sở.

Kai Bird, người viết tiểu sử về Tổng thống Carter, tác giả cuốn “The Outlier: The Uncomplete Presidency of Jimmy Carter”, cho biết “Tổng thống Carter nhận thức rõ về cái giá phải trả về mặt chính trị, và khi phải giải quyết những vấn đề khó khăn, ông không ngại làm những gì ông cho là đúng.”

Một trong các quyết định đó là vào mùa Hè năm 1979, khi Tổng thống Carter đưa ra một quyết định đi ngược lại những gì mà các cuộc thăm dò cho rằng hầu hết người Mỹ đều không chấp thuận. Nhưng Tổng thống Carter vẫn cương quyết thực hiện.

Cảnh tượng các thuyền nhân Việt Nam thật thương tâm.

Hàng trăm ngàn người phải chạy trốn sự áp bức của Cộng sản Việt Nam đổ ra biển tìm kiếm dự do tại các quốc gia nơi phẩm giá con người được tôn trọng. Nhiều người đã chết trên đường đào thoát.

Cuộc khủng hoảng thuyền nhân Việt Nam bắt đầu trước khi Tổng thống Carter nhậm chức và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Năm 1978, Tổng thống Carter ra lệnh cho tàu Mỹ đón những người tị nạn chạy trốn bằng thuyền. Một năm sau, số thuyền nhân ngày càng gia tăng.

Và khi các nhà lãnh đạo thế giới gặp nhau để thảo luận về những vấn đề hàng đầu mà đất nước họ phải đối mặt khi tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam, Tổng thống Carter đã có một lập trường dứt khoát, tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tăng gấp đôi số lượng người tị nạn được tiếp nhận hàng tháng từ các trại tỵ nạn Đông Nam Á từ 7.000 lên 14.000 người. Quyết định này của Tổng thống Jimmy Carter nhằm mục đích thúc đẩy các quốc gia khác thực hiện các bước quan trọng tương tự.

Là những thuyền nhân Việt Nam, chúng ta biết ơn ông bà Tổng thống Jimmy Carter và chân thành chia buồn với cựu Tổng thống trong thời khắc đau buồn này của ông.

Cá nhân tôi tin chắc chắn là giờ phút này, cụ bà Rosalynn Carter đang thanh thản nơi cõi khác và chờ ngày xum họp với cụ ông Carter để hai cụ mãi mãi không bao giờ chia lìa nhau.

Tê Hát sưu tầm

Xem thêm...

VĨNH BIỆT NHẠC SĨ XUÂN TIÊN 1921-2023

VĨNH BIỆT NHẠC SĨ XUÂN TIÊN – TÁC GIẢ CỦA HẬN ĐỒ BÀN, KHÚC HÁT ÂN TÌNH…

1921-2023

 

Nhạc sĩ XUÂN TIÊN



Nhạc sĩ Xuân Tiên, tác giả của những ca khúc nổi tiếng là Hận Đồ Bàn, Khúc Hát Ân Tình, Về Dưới Mái Nhà, Duyên Tình, Chờ Một Kiếp Mai, Mong Chờ… đã vừa tạ thế ở viện an dưỡng tại Fairfield, miền Nam nước Úc, hưởng thọ 102 tuổi, vào sáng sớm ngày 2/6/2023.

 

Sinh nhật cuối cùng của nhạc sĩ Xuân Tiên vào đầu năm 2023 tại Viện an dưỡng Chỉ trước đó 2 ngày, các thân hữu của nhạc sĩ Xuân Tiên ở Úc là ký giả Nguyễn Toàn, Túy Nguyễn đã đến thăm nhạc sĩ khi thể trạng của ông đã yếu, cơ thể suy sụp nhanh và không còn tiếp nhận được thức ăn.

 

Nhạc sĩ Xuân Tiên những ngày cuối đời. Ảnh: Tuy Nguyen Tuy là tác giả của nhiều bài hát nổi tiếng, nhưng nhạc sĩ Xuân Tiên tự nhận rằng đối với ông sáng tác chỉ là nghề tay trái, và nghề chính của ông là nhạc công chơi đàn trong các ban nhạc, với khả năng sử dụng nhuần nhuyễn đến 25 loại nhạc cụ khác nhau, cả nhạc cụ cổ truyền lẫn của Tây, trong đó thành thạo nhất là kèn saxophone.

Sau đây là sơ lược tiểu sử nhạc sĩ Xuân Tiên:

Nhạc sĩ Xuân Tiên tên thật là Phạm Xuân Tiên, sinh ngày 28 tháng 1 năm 1921 tại Hà Nội, trong gia đình có 6 anh em trai, người anh kế của ông chính là nhạc sĩ Xuân Lôi (sinh năm 1917) nổi tiếng với ca khúc Nhạt Nắng (viết chung với Y Vân).

Nhạc sĩ Xuân Tiên thuở ấu thơ Cha của ông từng có thời gian qua Trung Quốc để học một số nhạc cụ cổ truyền Trung Hoa, giống với nhạc cụ của Việt Nam nhưng khác một chút về âm điệu, sau đó về lại Việt Nam dạy nhạc ở hội Khai Trí Tiến Đức của Phạm Quỳnh (cha của nhạc sĩ Phạm Tuyên) và Phạm Duy Tốn (cha của nhạc sĩ Phạm Duy). Từ năm 6 tuổi, nhạc sĩ Xuân Tiên đã được cha dạy về nhạc cụ cổ truyền, nhưng chỉ là học về âm điệu, còn lại thì đa phần là do ông mày mò tự học, đầu tiên là đàn mandoline.

Tuy biết đàn nhưng ban đầu nhạc sĩ Xuân Tiên vẫn không biết nốt, nhờ có anh cả là Xuân Thư tốt nghiệp Viễn Đông Nhạc Viện của Pháp ở Hà Nội nên đã hướng dẫn căn bản cho ông về ký âm pháp, sau đó ông mua tờ nhạc của Pháp về tự nghiên cứu thêm về ký âm. Lớn hơn một chút, nhạc sĩ Xuân Tiên mua kèn saxo cũ về tự học, và đó trở thành nhạc cụ mà ông yêu thích và chơi thành thạo nhất. Thời điểm đó hầu như không có người Việt Nam chơi saxo, ngoại trừ một số ít người Pháp chơi trong ban nhạc. Không có người để theo học hỏi, thầy dạy người Pháp thì học phí quá đắt, nên ông lại chủ yếu tự mày mò để học.

 

 

Có một thời gian vào thập niên 1930, anh cả Xuân Thư của ông vào Huế để lấy vợ là một khuê nữ hoàng tộc, Xuân Tiên đã theo vào sống một thời gian. Nhân lúc này có gánh hát cải lương Phụng Hảo danh tiếng của miền Nam ra Hà Nội diễn đi ngang qua Huế, Xuân Tiên đi xem và thấy trong đoàn hát có một ban nhạc người Phi Luật Tân có người thổi kèn saxo, ông liền xin theo gánh hát, tham gia ban nhạc, mà chủ yếu là để theo học lỏm môn kèn saxo, chỉ bằng cách nhìn và bắt chước theo. Được một thời gian, gánh hát trở lại vào Nam, ông vào theo được ít tháng thì trở lại ra Hà Nội tham gia gánh cải lương Tố Như năm 1940.

 

Cùng trong năm 1940, ở tuổi 19, nhạc sĩ Xuân Tiên lấy vợ cùng tuổi là Hoàng Thị Hương và chung sống hạnh phúc với nhau suốt hơn 80 năm. Có thể nói vợ chồng nhạc sĩ Xuân Tiên là đôi vợ chồng cùng sống hơn trăm tuổi hiếm hoi trên thế giới. Cụ bà Hoàng Thị Hương đã qua đời ở tuổi 100 vào ngày 18/6/2021.

 

Vợ chồng nhạc sĩ Xuân Tiên năm 2015, được chính quyền ở Úc trao chứng nhận 75 năm bên nhau

 

Cuối năm 1942, nhạc sĩ Xuân Tiên cùng anh trai là nhạc sĩ Xuân Lôi theo gánh hát Tố Như vào miền Nam trình diễn ở Sài Gòn và lục tỉnh. Trong quá trình đi trình diễn nhạc và sinh sống ở nhiều miền, ông đã thu thập được kiến thức về các loại hình nhạc của các miền khác, có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu thêm âm nhạc cổ truyền của các vùng miền.

 

Thời trẻ, những anh em Xuân Tiên đều chăm chỉ tập luyện thể thao và đều có thân hình lực lưỡng. Vì siêng năng luyện tập, đặc biệt là vật tay, nhạc sĩ Xuân Tiên lúc đó đi diễn thường xuyên thách đấu vật tay với dân địa phương, đều thắng cả. Sau này, có võ sĩ Trung Quốc sang Việt Nam thấy vậy cũng thi với Xuân Tiên, thì sau đó Xuân Tiên cũng thắng nốt.

“Lực sĩ” Xuân Tiên

Từ năm 1942 đến 1946, ông trở về Hà Nội và chơi nhạc trong các ban ở vũ trường đang mọc lên rất nhiều.

 

Năm 1946, trong thời gian đi tản cư, Xuân Tiên và anh trai Xuân Lôi lập ban nhạc Lôi Tiên đi diễn lưu động và đàn cho gánh cải lương Bích Hợp. Thời gian theo gánh hát của Bích Hợp

Từ năm 1949 tới 1950, hai anh em lên tận vùng Thái Nguyên nhập vào ban văn hoá vụ với trưởng ban là Hoài Thanh. Ông có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ nổ tiếng như: Phan Khôi, Tố Hữu, Thế Lữ, Văn Cao, Canh Thân, Lê Hoàng Long, Quốc Vũ, Nguyễn Tuân.

 

Ðỗ Thế Phiệt, Xuân Khuê, Xuân Lôi, Xuân Tiên – Ðống Nam 1948.

Năm 1951 hai anh em ông đi Nam Ðịnh làm việc ở dancing Văn Hoa. Ít lâu sau với một thành phần 12 nhạc sĩ, ông cùng họ làm việc tại nhà hàng Le Coq d’Or.

Ðỗ Văn Ngọc, Xuân Tuấn, Xuân Lôi, Xuân Tiên, Văn Bính, Lê Chuyên. Dancing Văn Hoa năm 1952

 

Năm 1952, một người bạn cũ của Xuân Tiên là nhạc sĩ Ngọc Bích vào Nam, sau đó viết thư gửi ngược lại cho Xuân Tiên mời vào Sài Gòn tham gia chung ban nhạc đang cần người ở Cinema Văn Cầm. Nhạc sĩ Xuân Tiên viết trong hồi ký: “Tôi đã từng đi và từng sống ở mọi miền đất nước, thấy miền nam khí hậu ấm áp, dân tình hiền hòa, trong khi Hà Nội lạnh lắm không thích. Lòng tôi đã muốn đổi vào Sài Gòn làm ăn, có dịp sẽ vào làm trước để thăm thú công việc, rồi sẽ dời cả gia đình vào sau. Thế là tôi vào Sài Gòn với Ngọc Bích. Bấy giờ thì tôi đã có thể thuê nhà, sắm sửa đồ đạc đầy đủ sẵn sàng để đón vợ con vào, tiếp đó đón anh Xuân Lôi, rồi sau đó đón cha mẹ vào. Ông bà thân sinh tôi không chịu đi vì còn bà nội già không muốn rời xa quê hương. Các anh em tôi kẻ trước người sau đều vô Sài Gòn làm nhạc và sinh sống tại đây từ năm 1952 ngoại trừ anh cả Xuân Thư. Thế là ông bà thân sinh và anh Xuân Thư ở lại miền Bắc rồi kẹt luôn ở đó sau khi chia đôi đất nước.

 

” Bài hát đầu tiên của nhạc sĩ Xuân Tiên được phát hành là tại Sài Gòn, đó là bài Chờ Một Kiếp Mai, do Ngọc Bích viết lời. Tuy nhiên việc viết nhạc chỉ là công việc phụ nên ông sáng tác không nhiều, mà công việc chính là tham gia trong nhiều ban nhạc và làm việc cho tất cả các đài phát thanh tại Sài Gòn, chơi nhạc cho các hãng phát hành băng và đĩa hát, đến đêm thì đến chơi nhạc tại các vũ trường cho đến năm 1975. Ông là trưởng ban nhạc tại các phòng trà – vũ trường là Kim Sơn, Văn Cảnh. Blue Diamond, Eden Rock, Mỹ Phụng, Palace Hotel, Bách hỷ, Tour d’Ivoire, Đại Kim Đô, Maxim’s.

Thời gian làm trong ban nhạc đài Tiếng Nói Quân Đội, ông có dịp theo đoàn đi trình diễn ở nhiều nước: – Năm 1955 sang Lào dự hội chợ That Luang, cùng đi và cùng biểu diễn chung với ban nhạc của Mỹ. – Năm 1956 sang Thái Lan trình diễn nhạc tại đài phát thanh Bangkok. – Năm 1961 sang Phi Luật Tân biểu diễn tại trường đại học Manila.

Thời gian cuối thập niên 1960, vì tình trạng an ninh phòng trà bị chính quyền đóng cửa một thời gian, ban nhạc Xuân tiên chuyển sang chơi nhạc tại các club Mỹ.

Ban nhạc Xuân Tiên Tuy sáng tác không nhiều nhưng các ca khúc của nhạc sĩ Xuân Tiên rất đa dạng và có nhiều bài nổi tiếng, đặc biệt là đều mang đậm tính dân tộc, được cảm hứng từ những làn điệu của quê hương của cả 3 miền. Bài hát nổi tiếng có âm điệu xứ Bắc của ông là Duyên Tình, Khúc Hát Ân Tình, còn làn điệu âm hưởng dân ca Nam Bộ có Cùng Một Mái Nhà và Khúc Hát Đồng Xanh. Nhạc âm hưởng Huế có các ca khúc Mong Chờ, Tiếng Hát Trong Sương. Ngoài ra ông còn có ca khúc nổi tiếng Hận Đồ Bàn mang hơi thở của dân Chàm vùng Nam Trung Bộ.

Click để nghe Việt Ấn hát Hận Đồ Bàn.

 

 

Việt Ấn cũng là một thành viên trong ban nhạc Xuân Tiên Nói về hoàn cảnh sáng tác Hận Đồ Bàn, nhạc sĩ Xuân Tiên kể lại rằng trong thời gian theo gánh hát, ông và anh là nhạc sĩ Xuân Lôi có điều kiện đi dọc đất nước và tìm hiểu về các âm điệu nhạc dân tộc các miền. Một lần đi qua vùng Bình Định, ông ấn tượng với những tháp Chàm rêu phong đứng chơ vơ hiu quạnh. Sau nay khi đã vào Sài Gòn và làm việc trong đài phát thanh, vì muốn sáng tác một ca khúc có chủ đề khác biệt so với các nhạc sĩ đồng nghiệp đa số viết về tình yêu đôi lưa, nhạc sĩ Xuân Tiên nhớ lại Tháp Chàm năm xưa, nên quyết định ra lại miền Trung để tìm hiểu dân Chàm, nghiên cứu sâu hơn về âm điệu, về phong tục lịch sử nơi đây để viết Hận Đồ Bàn.

Riêng bài hát Mong Chờ, nhạc sĩ Xuân Tiên kể lại hoàn cảnh sáng tác như sau: “Thời gian tham gia ban nhạc đài Tiếng Nói Quân Đội, toàn ban văn nghệ ra Huế biểu diễn một đêm. Sau khi diễn xong, có ông nhạc sĩ đàn Huế có con gái ông là ca sĩ của Đài Phát Thanh Huế vì thích bản nhạc Khúc Hát Ân Tình mà mời tôi và ông Vĩnh Phan xuống thuyền chơi với ông một đêm. Cùng đi có một ông bạn nhạc sĩ cũng chơi đàn Huế tại Đài Phát Thanh Huế, cùng xuống thuyền hòa nhạc chơi. Tôi cũng chơi nhạc Huế với các ông ấy và cô ca sĩ ca, ăn uống, có các hàng quà ở thuyền đi bán đêm. Ăn xong chúng tôi chia nhau ngủ ở hai thuyền ghép lại với nhau. Ông Vĩnh Phan, cô ca sĩ và tôi ngủ một thuyền. Cô ca sĩ và tôi thức không ngủ nói chuyện đến sáng, rồi bố con cô ca sĩ mời tôi và Vĩnh Phan về nhà ăn quà sáng rồi tiễn chúng tôi ra máy bay để về Sài Gòn. Tôi về Sài Gòn rồi cứ nhớ mãi buổi gặp gỡ đó với dư âm Huế và cô ca sĩ đó, nên tôi mới sáng tác ra bản nhạc Mong Chờ.”

Click để nghe Hoàng Oanh hát Mong Chờ trước 1975

 

Bài hát nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của nhạc sĩ Xuân Tiên phải kể đến là Khúc Hát Ân Tình, được sáng tác khoảng năm 1958, trong bối cảnh nhiều người dân miền Bắc di cư vào Nam sinh sống sau Hiệp định Genève năm 1954. Bài hát kêu gọi mọi người dù là từ miền nào thì cũng hãy sống thân ái với nhau, đồng thời cũng ngợi ca tình yêu không phân biệt Bắc-Nam.

Click để nghe Phương Dung hát Khúc Hát Ân Tình trước 1975

 

Nói về quan điểm sáng tác của mình, nhạc sĩ Xuân Tiên nói trong một lần trả lời phỏng vấn: “Nói chung thì trong sáng tác, tôi rất chú trọng đến giai điệu và thể điệu của bài hát. Giai điệu được giải nghĩa một cách nôm na là cấu trúc của những câu nhạc sao cho có đầy đủ nhạc tính và phẩm chất của hòa âm, để mình nghe thấy hay, dù cho không cần lời hát, chỉ hòa tấu nbng nhạc cụ không thôi cũng thấy hay. Nếu không có giai điệu hay thì không thể có bài hát hay được. Còn thể điệu thì ví dụ như điệu valve, tango, rumba… Nhạc Việt mình vốn nghèo về thể điệu, cho nên tôi chủ trương dùng nhiều thể điệu khác nhau cho những ca khúc để tạo những đổi mới ngay trong chính những tác phẩm của mình. Tôi thích những âm hưởng lạc quan yêu đời, tôi yêu những lời hát ca ngợi quê hương dân tộc. Tôi cũng có làm những loại nhạc tình yêu lứa đôi và nhạc buồn nhưng không có sầu thương ủy mị quá. Có buồn những cũng chỉ là chớm buồn chút thôi. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong sáng tác là mình không được lặp lại của người khác, mà mình cũng không được lặp lại chính mình, nghĩa là mỗi một tác phẩm của mình phải hoàn toàn không giống ai.”

 

Sau năm 1975, nhạc sĩ Xuân Tiên ở lại Việt Nam. Ông kể về thời gian khó khăn đó như sau: “Tất cả các nghệ sĩ đều phải đi học tập 21 ngày tại nhà hát lớn. Tất cả các nghệ sĩ đều lao đao sống chật vật gượng gạo. Chúng tôi, một số nhạc sĩ giỏi họp nhau lại thành lập một ban nhạc để hợp tác với ban kịch nói Kim Cương. Trình diễn phần đầu, phần thứ 2 là kịch. Đi trình diễn khắp trong nước, rất được công chúng hoan nghênh nhưng đồng lương thì rẻ lắm. Cố gượng gạo làm để sống qua ngày. Làm nhiều mà không đủ tiền nuôi gia đình, may mà vợ tôi buôn bán tạm để nuôi gia đình. Vậy mà ban nhạc chúng tôi cũng kéo dài được 5 năm mới nghỉ được gánh Kim Cương. Ban hát cải lương Minh Tơ thấy tôi nghỉ ở ban Kịch Nói Kim Cương, mới mời tôi về làm. Tôi cùng Lang Thoại Nguyên và Xướng người Trung Hoa về làm Minh Tơ, là ban hát cải lương Hồ Quảng. Được hơn một năm thì tôi nghỉ về làm phòng trà tại một tụ điểm được mấy tháng thì có giấy gọi đi định cư ở Úc.”

 

Mười năm đầu nhạc sĩ Xuân Tiên sống tại Canberra, được ban nhạc người Úc mời chơi nhạc tại các club. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, ông nghỉ và ở nhà nhận sửa chữa tất cả các loại kèn sáo, khách hàng là các trường học, trường nhạc, các ban nhạc tư nhân. Nghề này không có trường dạy ở Úc, mà nhờ Xuân Tiên phải tự sửa những nhạc cụ của mình trong bao nhiêu năm theo nghề nhạc mà thành thạo và có kinh nghiệm. Làm được 10 năm thì ông dọn về Sydney mà nghỉ hưu từ đó đến nay.

 

Ngoài đóng góp lớn cho âm nhạc miền Nam trong 2 mảng sáng tác và trình diễn, nhạc sĩ Xuân Tiên còn là người có nhiều cải tiến và sáng tạo các loại nhạc cụ dân tộc. Sáo tre vốn dĩ chỉ có sáu lỗ. Năm 1950, ông đã cùng với anh là Xuân Lôi cải tiến loại nhạc cụ này thành hai loại là 10 lỗ và 13 lỗ có khả năng chơi được nhiều âm giai khác nhau. Người chơi sáo 10 lỗ cần dùng 10 ngón tay và có thể chơi tất cả những bán cung, vì thế sáo không bị giới hạn trong bất cứ âm giai nào. Sáo 13 lỗ dùng để tạo ra những âm thanh thấp hơn khi cần. Hiện hai loại sáo này đang được trưng bày tại Musée de l’Homme, Paris, Pháp. Năm 1976, ông chế tác cây đàn 60 dây chơi được tất cả âm giai.

 

Tiếng đàn tương tự tiếng đàn tranh nhưng mạnh và chắc hơn. Năm 1980, ông cải tiến cây đàn bầu cổ truyền với thân đàn làm từ trái bầu dài làm hộp khuếch âm. Đàn này đã nhiều lần được đem đi triển lãm ở Úc, thường được gọi là Đàn bầu Xuân Tiên.

 

Đàn bầu Xuân Tiên

Gia đình Xuân Tiên sau khi di cư vào Sài Gòn năm 1952 có thể gọi là một đại gia đình, với 2 vợ chồng, mẹ vợ, 8 người con, ngoài ra ông còn nhận nuôi 4 người cháu ruột (con của người anh thứ 2) và 2 người làm, tổng cộng 17 người, một tay Xuân Tiên làm việc để chu toàn cho tất cả bằng sức lao động hăng say và miệt mài, bằng tài năng và cố công nghiên cứu trau dồi kiến thức. Nhạc sĩ Xuân Tiên nói rằng ông có quan niệm có tiền là để xài cho thoải mái đời sống, cho nên ông không bao giờ giàu, cũng không bao giờ mang tiếng keo kiệt. Bao giờ cũng sung túc, nhưng không bao giờ lo lắng giữ của. Tới bây giờ ông càng cảm thấy thoải mái, không phải là một thứ gì trong đời sống. Có lẽ là vì sự thoải mái trong suy nghĩ đó là một phần bí quyết cho sự trường thọ của ông.

 

Nguồn: chuyenxua.net


Xem thêm...

TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH (March12,1990 - March12, 2023)


 SAO MAI
 là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời, báo hiệu cho sự bắt đầu tốt đẹp, rực rỡ và một ngày mai tươi sáng.
 
 
HD wallpaper: silhouette photo of trees under purple shining star, sky,  mountain | Wallpaper Flare

 ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ۩ ۩ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ۩ ۩ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
 
 

      TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH      

(March 12, 1990/March 12/2023)

 

Đi về nhà Chúa

Đi về nhà Chúa tim con reo hoan lạc Chúa ơi,

đi về nhà Chúa ôi bao nhiêu mến thương ngập trời

Lạy Chúa, đi về nhà Chúa tim con reo hoan lạc Chúa ơi,

đi về nhà Chúa đi về nhà Chúa

Ôi bao nhiêu mến thương ngập trời.

Đi về nhà Chúa như dân xưa đi về Thánh đô.

Đi về nhà Chúa tâm tư con đã bao đợi chờ.

Lạy Chúa ,đi về nhà Chúa như dân xưa đi về Thánh đô.

Đi về nhà Chúa tâm tư con đã bao đợi chờ.... 

 ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

 

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa tác sinh muôn loài. Vì yêu con tay Chúa thương an bài. Cho con một đời vui sống thiết tha.

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa chết treo khổ hình. Vì yêu con nên đã quên thân mình. Cho con được làm con Chúa suốt đời. 

   Chúa (Chúa) chính là gia nghiệp đời con (gia nghiệp đời con). Con xin được đáp lại tình yêu (xin được đáp lại tình yêu). 

   Sông nào chẳng đủ miền xuôi. Con người có thủa nằm nôi. Thời gian đưa chiếc lá bay qua rồi. Đời vương vương như áng mây bên trời. Tim con bồi hồi xao xuyến mãi thôi. 

   Ân tình Chúa đủ chẳng vơi. Con nào thấu lòng trời cao. Tình yêu thương vẫn thiết tha tuôn trào. Tình dâng cao trong ngất ngây tâm hồn. Gieo vui một niềm cảm mến vô bờ. 
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
Tưởng nhớ Cha Antôn Vũ Như Huỳnh
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
 
Tưởng nhớ và tri ân
Cố Linh mục Antôn Vũ Như Huỳnh

(1990 - 2023)

▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

Tưởng nhớ CHA ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH

▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH

(March 12, 1990/March 12, 2023)

Kính Thưa Quý Thầy Cô cùng toàn thể cựu học sinh Sao Mai trên khắp các nẻo đường thế giới,
 
   “Uống nước nhớ nguồn” là đạo lý làm người được đúc kết từ bao đời nay. Đối với học sinh chúng ta, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi là cách đền ơn thiết thực nhất với công lao của Cha Mẹ, Thầy Cô và xã hội.
 
   Thấm thoát đã 33 năm trôi qua (1990-2023) kể từ ngày Cha Cố Antôn Vũ Như Huỳnh được Chúa thương gọi về. Trong tâm tình thương tiếc, quý mến, chúng ta bày tỏ lòng tri ân đến Cha Cố Antôn Vũ Như Huỳnh, Hiệu Trưởng trường Trung Tiểu học Sao Mai Đà Nẵng - Việt Nam từ 1965 đến 1975 .
 
   Chúng ta cùng nhớ về hình ảnh người Cha kính yêu, người Cha đã cho chúng ta trọn niềm vui của thời thanh xuân, của tuổi học trò dưới mái trường thân thương Sao Mai Đà Nẵng. Ở đây, chúng ta đã được Cha cùng quý Thầy Cô hướng dẫn, dạy bảo và luôn đồng hành trên con đường học vấn, để chúng ta có thể tự tin bước vào những cuộc hành trình mới.

   Biến cố lịch sử thăng trầm của đất nước khiến chúng ta phải chia tay nhau mỗi người một hướng theo dòng đời trôi. Sau bao nhiêu năm thất lạc, chúng ta đã có Duyên may được gặp lại nhau trên trang Góc Nhỏ Sân Trường yêu thương này để nối kết lại tình Thầy Trò, nghĩa Bạn bè đã một thời bên nhau...


   Và hôm nay,chúng ta cùng hướng lòng về người Cha kính yêu - Cố LM. Antôn Vũ Như Huỳnh nhân ngày Giỗ lần thứ 33.

   Tri Ân - Tiếc Thương và Tưởng Nhớ đến Ngài, chúng con tha thiết nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho Linh Hồn Cha Cố Antôn qua những công lao sâu nặng Ngài đã dành cho chúng con là đoàn con học sinh của Ngài.

   Chúng con tin tưởng rằng Chúa Nhân Lành đoái thương nhậm lời nguyện cầu của chúng con, đón nhận Linh Hồn vị Cha Cố đáng kính Antôn vào hưởng hạnh phúc Nước Trời.
 
 
 
 
 
 
 
Anh Nguyễn Ngọc Quang đng cạnh người ch mặc áo dài xanh
 
 
 
 
 

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa tác sinh muôn loài. Vì yêu con tay Chúa thương an bài. Cho con một đời vui sống thiết tha.

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa chết treo khổ hình. Vì yêu con nên đã quên thân mình. Cho con được làm con Chúa suốt đời. 

   Chúa (Chúa) chính là gia nghiệp đời con (gia nghiệp đời con). Con xin được đáp lại tình yêu (xin được đáp lại tình yêu). 

    Sông nào chẳng đủ miền xuôi. Con người có thủa nằm nôi. Thời gian đưa chiếc lá bay qua rồi. Đời vương vương như áng mây bên trời. Tim con bồi hồi xao xuyến mãi thôi. 

   Ân tình Chúa đủ chẳng vơi. Con nào thấu lòng trời cao. Tình yêu thương vẫn thiết tha tuôn trào. Tình dâng cao trong ngất ngây tâm hồn. Gieo vui một niềm cảm mến vô bờ.

✬▬▬▬▬ஜ۩ ۩ஜ▬▬▬▬✬

Tưởng nhớ và tri ân cố Linh Mục

Antôn Vũ Như Huỳnh

(1990 - 2018)

   Một Thánh lễ Misa cầu nguyện cho ngày giỗ Cha Cố Antôn Vũ Như Huỳnh - một vị Cha già đã từng là một thời lèo lái con thuyền Sao Mai của những cơn sóng gió. Một Thánh lễ đơn sơ nhưng đã chứa đựng thật nhiều tình thiêng liêng cao cả... đốí với những "người con Sao Mai hôm nay" tại quê nhà... chúng tôi vẫn nhận thấy đầy đủ mọi thành phần của ngôi nhà mẹ Sao Mai của ngày ấy và hôm nay... Thánh lễ diễn ra không tiếng chuông nhà thờ báo hiệu, một buổi lễ diễn ra trong sự im lặng và tưởng nhớ, không chỉ với những "người con của nhà mẹ" mà còn có cả những "cô dâu, chú rễ của Sao Mai ngày hôm nay" 

   Một sự cảm xúc và thiêng liêng trân trọng - duy chỉ trong một căn phòng nhỏ chưa trọn vẹn mười mấy mét vuông thực tế, nhưng trong đó đã chứa đựng cả một sự huyền bí lớn lao về cõi tâm linh và sự trung thành của khoảng hai mươi mấy người con Sao Mai đã vinh dự đại diện cho cả một ngôi trường mấy ngàn cựu học sinh của ngày ấy... 

Không cao sang, không quyền quý
Không là trong ngôi thánh đường cao sang và lộng lẫy. 
Không là nơi đài các khuê văn, cũng không là nơi chốn lầu hoa danh vọng...

Mà chỉ là một căn phòng nhỏ trong căn nhà hưu dưỡng của giáo xứ Thái lạc, Long Thành... 

Lời kinh trầm lắng mở đầu cho Thánh lễ Misa... 

Giây phút "sám hối" - mở đầu cho Thánh lễ

   Cũng với đầy đủ mọi nghi thức của một thánh lễ Misa bình thường theo truyền thống tôn giáo, cũng với một chí hướng và đồng tâm hiệp lực từ một cõi vô hình để cùng nhau đưa đến một triết lý vĩnh hằng của "một đời người" mà ngày hôm nay Thượng Thiên đã "gọi về" - bỏ lại trần gian một đôi chút vướng bận về một sự tưởng nhớ... duy không có những dòng lệ rơi, không có những tiếng than khóc "Cha ơi...", không có những sầu thương đau đớn, nhưng hầu như "tất cả những người con" hiện diện hôm nay trong ngày 18/03/2012 này đều cùng nhau cất lên cho chính mình từ một cõi hư không nào đó để trong suốt thánh lễ giỗ tưởng niệm... ai ai cũng "cầu xin Chúa mau sớm dẫn đưa linh hồn Cha Cố Anthony cũng như linh hồn Cha Cố Giuse được hưởng phúc Nhan Thánh"

   Ngày hôm nay - tuy chỉ là tại "nhà hưu dưỡng của Giáo xứ Thái Lạc - Long Thành" tuy không là "tiếng chuông thánh thót của một ngôi đại giáo đường báo hiệu giờ kinh nguyện cầu... tuy không là những hồi chuông báo hiệu trong giây phút Thánh Thể... tuy không là những âm vang của một Ca đoàn đại quy mô trong một thánh lễ tưởng niệm lớn lao nào.... nhưng trong cái không gian tĩnh mịch này, chỉ trong cái ngày 18/03/2012 vào lúc 10.00h... đã cất lên chỉ vài câu kinh nguyện sau một cử chỉ "làm dấu thánh giá" - chúng tôi nghĩ rằng: tại phương trời xa xôi nào đó bên tận trời Âu Philadelphia, Pennsylvania ... linh hồn Cha Cố Anthony cũng như tại nơi an nghỉ vĩnh hằng Đại Chủng viện Giuse Xuân Lộc linh hồn Cha Cố Giuse "chắc cũng đã mỉm cười tại nơi cung vàng chín suối... 

   Ngày xưa là "một người thầy" - hôm nay "là một vị linh mục già đã về hưu" - Cha Đỗ Văn Nguyên - có lẽ cũng đã mãn nguyện cho chính mình một sự hài lòng, cũng như "mấy chục con người trần thế hôm nay" đại diện cho mấy ngàn con người để rồi cùng nhau cất lên lời kinh thắm thiết, những lời ca như đã bay bổng để mong cầu xin nơi chốn thiên quốc một Hồng ân trong cõi tâm linh sống của những con người mà chính vào giờ phút thiêng liêng này trở thành một triết lý sống - một triết lý sống chứa đựng rất đầy đủ ý nghĩa của một cõi đời với những con người hôm nay đang còn trên con thuyền Sao Mai tại trần gian này... 

   Chúng tôi còn nhớ - ngày 12/03/2012 tại Giáo xứ Ngọc Lâm với những nghi thức "còn vang mãi những lời kinh..." thì hôm nay - ngày 18/03 tại một nơi chốn "nhà hưu dưỡng Thái lạc, Long Thành" một thánh lễ Misa duy chỉ đơn sơ và đạm bạc.... hoặc một nơi nào đó bên trời Âu cũng đã "tưởng niệm về cho vị Cha già của ngày xưa..... tất cả đều cũng chỉ là một hướng đi, tôi còn nhớ một đoạn Kinh Thánh nào đó mà ngày xưa Thánh Phaolo viết trong thư gửi cho cộng đoàn tín hữu Corhinto: Anh em hãy yêu thương nhau như Cha trên Trời đã yêu thương anh em, anh em hãy luôn luôn chú tâm vào sự thờ phượng duy chỉ có một Thiên Chúa là Cha chung của chúng ta.....

   Dẫu cho cuộc đời chỉ là ngắn ngủi, là kiếp phù du, là một cơn gió thoảng, là những con người không phải là có đạo, và không chỉ là những con người SaoMai của "ngày ấy", nhưng chúng tôi cũng luôn luôn có những sự trân trọng và kính phục về cho những "cô dâu và chú rễ Sao Mai" của ngày hôm nay... tuy chỉ là trong một căn phòng nhỏ bé, không tiếng chuông báo lễ, không lộng lẫy đèn hoa, không tiếng nhạc thánh thót của một ca đoàn - nhưng hầu như với những con người hiện diện hôm nay cùng với "vị Cựu Tổng Giám Thị" của ngày nào... có lẽ cũng đã thoả nguyện rất lớn và chứa đựng được nỗi vui mừng vì "đã sống đúng với "đạo làm con" con tinh thần hiếu đễ của nhân bản một con người...

Bài đọc 1 - với "con chiên Bùi Mai"

Bài đọc 2 - với "con chiên Phạm Thanh Long"

Thánh lễ cũng có những lời giảng của "vị Chủ tế"...


   Trong bài giảng Cha Đỗ Văn Nguyên hầu như không còn nhắc đến cái triết lý "sắc có như không..." nữa, mà trong bài giảng tuy ngắn ngủi, nhưng chứa đựng rất nhiều những thâm tình hiếu để của những con người hôm nay... Cha đã nêu cao tinh thần truyền thống Uống nước nhớ nguồn, tinh thần Sao Mai bất khuất của những Cựu học trò, và tinh thần rực lửa bất diệt của những con người Sao Mai của hôm nay.... tất cả cũng chỉ là một sự hiếu để của một đời người đang thực hiện một triết lý sống: Cuộc đời sắc có như không, phải chăng chỉ một tấm lòng mà thôi...

Giây phút "Hiệp nhất Phép Thánh Thể" 

   Từ những điểm nhấn ấy, duy ngày hôm nay 18/03 tại Thái Lạc - Long Thành Đồng Nai, cũng như ngày 12/03 vừa qua tại Giáo xứ Ngọc Lâm, hoặc đã một ngày nào đó phía bên kia bờ đại đương.... cũng đã có những giây phút như thế, một trong những buổi lễ tưởng niệm như thế... nhưng chúng tôi thiết nghĩ "tất cả cũng chỉ là một mà thôi" trong sự thực hiện tinh thần "hiếu đễ của con người" như lời vị Cựu Tổng Giám thị đã nhấn mạnh trong những buổi họp mặt và chuyện trò thân mật ngày nào... thì hôm nay, trong cái căn phòng nhỏ bé này, trong giây phút tưởng nhớ thiêng liêng và huyền bí này... cái đạo làm người của những người con Sao Mai cũng đã một lòng nhớ về cho những người Cha già như thế.... 

Lời cảm tạ của đại diện học sinh Sao Mai với "Thầy Tổng"

   Không chỉ là những miếng ăn ngon, không chỉ là vài ba mâm cổ đầy, không chỉ là những chiếc bánh sake lạ mắt và ngon miệng... mà giờ phút họp mặt có tính mini này cùng với những câu chuyện trò, những kỷ niệm được khơi dậy lại, những ký ức ngày xưa.... hầu như cũng đã nói lên được mối thâm tình hiếu để và tâm giao của những con người của nhà mẹ này vậy... 

   Trên con đường về lại Sàigòn, cũng những có những người con phải quay về xứ núi mây ngàn Phương Lâm... chúng tôi rất bùi ngùi và thật sự xúc động vì chính mình đã làm tròn bổn phận hiếu để của những người con Sao Mai, duy cánh biển Vũng tàu chiều hôm ấy có gió thôi rất nhiều, có những đợt sóng vỗ xô bờ, duy đứng trên một tháp cao bên cạnh ngọn núi Tao Phùng với hình ảnh Chúa Giêsu đang dang tay đón nhận và sẵn sàng ban phép lành cho tất cả những người con như chúng tôi, cũng như trên đoạn đường dọc theo bờ biển bao la và còn mãi lê thê ấy... chúng tôi cũng như vị Cựu Tổng Giám Thị của ngày xưa, ai nấy cũng đã mãn nguyện và mỉm cười vì đã làm tròn cho chính mình hiện diện (cũng ngư những người vắng mặt) đầy đủ một bổn phận trách nhiệm thiêng liêng và cao cả: sự hiếu để của một con người

   Thành phố giờ này đã lên đèn, màn đêm đã buông phủ, không phải những ánh đèn xanh đỏ tím vàng hoa lệ của một thành phố vật chất xa hoa kia đã điểm... mà chúng tôi có thể mãn nguyện và mỉm cười: có lẽ chính trong tâm linh của những người con Sao Mai hôm nay... vẫn còn có hàng triệu hàng triệu ánh đèn đủ sắc màu đang rực cháy, và còn sáng sáng mãi trong một tinh thần Sao Mai hiếu để và thanh cao ấy vậy... 

    Nguyễn Ngọc Hải

Ghi nhận từ buổi lể ngày 18/03 tại Thái Lạc...

●▬▬▬▬▬๑۩      GNST       ۩๑▬▬▬▬▬●

GNST chân thành cảm ơn anh Nguyễn Ngọc Hải.

 

GNST chân thành cảm ơn chị Hồng Vân

 

▬▬▬▬※ Gia đình GNST ※ ▬▬▬▬

▬▬▬▬Peace & Love always▬▬▬▬

✬▬▬▬▬ஜ ۩ ۩ ஜ▬▬▬▬

 

 

 

               

                                                                                                                            

Xem thêm...

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng–Trần Hoan Trinh, thi sĩ của sân trường

Người Thầy Dạy Toán Làm Thơ, Thi sĩ Trần Hoan Trinh


Ông thầy dạy Toán một thời
Mà thơ tình lại tuyệt vời thế sao!
Như cổ tích, như chiêm bao
Nửa khao khát mộng, nửa ngao ngán đời!

    MỘT THỜI CHO SAO MAI     

– Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng 
– Trần Hoan Trinh, thi sĩ của sân trường

        CẢM ƠN        

- Thơ Trần Hoan Trinh

- Ca sĩ Hoàng Hoa / Nhạc Nguyễn Hoàng

 
 
 

 
    CHO SAO MAI    

- Tặng các em học sinh cũ SAO MAI -

Dù trường đã biến thành đường
Nhưng ta vẫn thấy phố phường như xưa !
Sơn Chà thấp thoáng sương mưa
Một đàn chim trắng bay đùa thinh không

Mơ màng sóng vỗ Hà Thân
Đò ai lặng lẽ trôi dòng Hàn giang
Mây đùn lũng thấp Mân Quang
Thuyền về lưới dựng  dọc ngang bãi chiều

Bờ sông bước nhỏ xiêu xiêu
Gió đùa  áo trắng nửa yêu nửa tình
Cổ Viện Chàm vẫn im lìm
Tượng Chàm trơ mắt đứng nhìn đổi thay

Bóng thầy xa hút chân mây
Lời thầy vẫn vọng đâu đây vỗ về
Nghìn trùng vạn dặm sơn khê
Lòng học trò vẫn nhớ về trường xưa

Thuyền tình đã đổi người đưa
 Nhưng hồn trường vẫn còn thừa yêu thương
 Dù trường đã biến thành đường
Trong ta vẫn có ngôi trường đẹp sao !
 
Trần Hoan Trinh
Đà nẵng, 2015
Một chiều đứng trên thềm Cổ Viện Chàm.

 
 

Thơ: Cám Ơn (Trần Hoan Trinh)

CamOnCám ơn người còn nhớ đến tôi
Mây trắng mây đen chiều nay đầy trời
Tôi một mình lang thang phố cũ
Nhặt chút ân tình một thuở rụng rơi.
Cám ơn người vẫn chưa quên tôi
Còn đẩy đưa dăm câu hỏi mời
Tôi bây giờ buồn vui cũng thế
Mặc kệ đời sớm nổi chiều trôi.
Cám ơn người còn nhắc đến tôi
Bục giảng bảng đen phấn trắng xưa rồi
Tôi bây giờ qua trường cúi mặt
Dấu cả lòng mình chẳng dám phanh phơi.
Cám ơn người! Chiều nay bờ sông
Tôi đi lang thang tìm kiếm lại mình
Một thuở thương yêu một thời tha thiết
Sông lặng lòng sao sóng trập trùng.
Cám ơn người! Cũng đành thế thôi!
Một thuở đã xa một thuở quên rồi!
Tôi như con thuyền trở về bến cũ
Nằm nhớ mỏi mòn con nước trùng khơi.
Trần Hoan Trinh

    Cho Sao Mai - Thơ Trần Hoan Trinh    

GNST nhận được bài thơ "Cho Sao Mai" từ Thầy Trần Hoan Trinh tặng riêng cho các cựu học sinh trường Sao Mai Đà Nẵng.
Chân thành cám ơn Thầy và xin trân trọng giới thiệu đến Diễn Đàn.
   Đôi dòng tiểu sử Thầy Trần Hoan Trinh   
 
http://4.bp.blogspot.com/-uuJ5G_-w2g8/U0_oAXc__2I/AAAAAAAACdo/XRpfYMcOsi0/s1600/thayTang.jpg

Tên thật : Trần đại Tăng
Sinh ngày : 3-8-1937 tại Huế
Tốt nghiệp Ðại Học Sài Gòn
Giáo sư dạy Toán tại Ðà Nẵng từ năm 1958
Làm thơ từ năm 1952
Thi phẩm đã xuất bản:
  • - Tôi Khóc Em Cười
  • - Bỏ Trường Mà Ði
  • - Tóc Trắng Sân Trường
  • - Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp
  • - Cháy bỏng như lửa mặt trời (2013)
         CHO SAO MAI    

- Tặng các em học sinh cũ SAO MAI -

Dù trường đã biến thành đường
Nhưng ta vẫn thấy phố phường như xưa !
Sơn Chà thấp thoáng sương mưa
Một đàn chim trắng bay đùa thinh không

Mơ màng sóng vỗ Hà Thân
Đò ai lặng lẽ trôi dòng Hàn giang
Mây đùn lũng thấp Mân Quang
Thuyền về lưới dựng  dọc ngang bãi chiều

Bờ sông bước nhỏ xiêu xiêu
Gió đùa  áo trắng nửa yêu nửa tình
Cổ Viện Chàm vẫn im lìm
Tượng Chàm trơ mắt đứng nhìn đổi thay

Bóng thầy xa hút chân mây
Lời thầy vẫn vọng đâu đây vỗ về
Nghìn trùng vạn dặm sơn khê
Lòng học trò vẫn nhớ về trường xưa

Thuyền tình đã đổi người đưa
 Nhưng hồn trường vẫn còn thừa yêu thương
 Dù trường đã biến thành đường
Trong ta vẫn có ngôi trường đẹp sao !
 
Trần Hoan Trinh
Đà nẵng, 2015
Một chiều đứng trên thềm Cổ Viện Chàm.

Cảm Tạ (Trần Hoan Trinh)
 
CamTa-A

Cám ơn bình minh vẫn lảnh lót tiếng chim
Dù đêm tối đã phong ba bão tố
Chim nhảy nhót chân chuyền cành tìm tổ
Tiếng oanh vàng cao vút tận trời xanh.
Cám ơn sông mãi mãi xanh trong
Muôn thuở lặng lờ soi bóng trăng
Một con thuyền tình neo bến mộng
Thoang thoảng trong sương tiếng nguyệt cầm.
Cám ơn đêm đã cho ngọn lửa hồng
Cháy bập bùng ấm áp mùa đông
Cho quê hương chẳng còn tăm tối
Cho trẻ thơ ngủ trọn giấc nồng.
Cám ơn đời có những bản tình ca
Ve vuốt cho lòng bao thiết tha
Thổn thức ngọt ngào bâng khuâng mơ mộng
Cho cả trăm năm bỗng đậm đà.
Cám ơn hoa nở ngát bốn mùa
Đem sắc đem hương tặng cho đời
Hồng đỏ cúc vàng lan huệ tím
Như một bức tranh đẹp tuyệt vời.
Cám ơn em! Cám ơn người!
Cho ta sống giữa trần gian thật đẹp
Trời rộng bao la cỏ cây xanh biếc
Am thanh đầy và ngan ngát hương hoa.
Cám ơn người! Cám ơn ta!
Đã sống hết một cuộc đời đáng sống
Trăng ngọc nắng hồng gió mây lồng lộng
Hương sắc nhiệm mầu và tình ái ngất ngây.
Em này em nghĩa nặng tình đầy.

Trần Hoan Trinh
 
Cám Ơn (Trần Hoan Trinh)
 
CamOn
 
Cám ơn người còn nhớ đến tôi
Mây trắng mây đen chiều nay đầy trời
Tôi một mình lang thang phố cũ
Nhặt chút ân tình một thuở rụng rơi.
Cám ơn người vẫn chưa quên tôi
Còn đẩy đưa dăm câu hỏi mời
Tôi bây giờ buồn vui cũng thế
Mặc kệ đời sớm nổi chiều trôi.
Cám ơn người còn nhắc đến tôi
Bục giảng bảng đen phấn trắng xưa rồi
Tôi bây giờ qua trường cúi mặt
Dấu cả lòng mình chẳng dám phanh phơi.
Cám ơn người! Chiều nay bờ sông
Tôi đi lang thang tìm kiếm lại mình
Một thuở thương yêu một thời tha thiết
Sông lặng lòng sao sóng trập trùng.
Cám ơn người! Cũng đành thế thôi!
Một thuở đã xa một thuở quên rồi!
Tôi như con thuyền trở về bến cũ
Nằm nhớ mỏi mòn con nước trùng khơi.
 
Trần Hoan Trinh
 
Đã Thấy Thu Về (Trần Hoan Trinh)
 
DaThayThuVe
 
Đã thấy thu về trong mắt em
Đã nghe gió buốt thoảng qua thềm
Đã nghe se lạnh trong chăn ấm
Và tiếng mưa buồn rã rích đêm.
Đã thấy vườn sau cúc nở hoa
Đài hoa lóng lánh giọt sương sa
Có đôi bướm trắng mơn mơn nhụy
Gió động vờn nhau bay thướt tha.
Nắng đã vàng hoe tự bao giờ
Trên trời mây mỏng nõn như tơ
Con sông nước lặng xanh như ngọc
Sóng gợn lăn tăn vỗ vỗ bờ.
Đã thấy tóc em bồng gió thu
Nhìn heo may động lá vi vu
Cuối trời có một đàn chim trắng
Ảo ảo hư hư giữa khói mù.
Hồn bỗng chùng như có tiếng đàn
Run run theo tiếng thở thời gian
Xa vời như tự nghìn năm trước
Trên bước chân đi giữa lá vàng
Bỗng thấy tình yêu chút hững hờ
Nửa như say đắm nửa bơ vơ
Lòng như có chút gì xa cách
Đến nụ hôn em cũng thẩn thờ !
 
Trần Hoan Trinh
 
 
Tưởng Nhớ Cựu Giáo Sư Toán Trần Đại Tăng – nhà thơ Trần Hoan Trinh (Phần 1)
 
BBT: Để Tưởng Nhớ vị Thầy khả kính với 40 năm cùng phấn trắng, bảng đen mà chưa một ai có thể tính (đếm) được số lượng học sinh thuộc nhiều trường Trung học từ công lập, bán công, đến tư thục, v.v…ở Quảng Nam-Đà Nẵng đã và được theo học với Thầy trong suốt 40 năm, vừa mới từ giã cõi trần hôm Thứ Năm 6.8.2015, BBT một thời 6673 Phan Châu Trinh, Đà Nẵng (motthoi6673pctdn.com) sẽ liên tục trong nhiều bài kế tiếp đăng tải các bài viết của chính Thầy, và các thân hữu viết về Thầy…
Trước hết là Tiểu Sử:
 
MotThoiPCT_01A
 
Tên thật: Trần Đại Tăng. Sanh ngày 3.8.1937 tại Dương Nỗ, Phú Vang, Thừa Thiên-Huế.

Thầy tốt nghiệp Cao Đẳng Sư phạm Sài Gòn (Normale Supérieure de Pédagogie). Sau khi tốt nghiệp đã đảm nhận dạy Toán tại Trường THPT Phan Châu Trinh Đà Nẵng từ năm 1958 cùng nhiều trường Trung học tại Đà Nẵng lúc bấy giờ. Thầy nghỉ hưu vào năm 1998 sau 40 năm liên tục dạy học tại Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng – một thời gian kỷ lục…
Thầy có 4 người con. Thầy sống cùng con cái cả tại Sài Gòn và Đà Nẵng. Thầy đã được Thiên Chúa gọi về vào lúc 14.25 giờ Thứ Năm ngày 6.8.2015 tại tư gia số K33/18 đường Cao Thắng, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Hưởng thọ 79 tuổi.
Ngoài việc dạy học, Thầy còn làm thơ, viết văn ….
Thầy Trần Đại Tăng – nhà thơ Trần Hoan Trinh là một người thầy đáng kính, một nhà thơ chân thành và nặng tình. Thầy đã sống trọn vẹn “một đời thầy, một đời thơ” … Thầy qua đời nhưng Thầy để lại nhiều thương tiếc cho đồng nghiệp, giới văn nghệ và nhiều thế hệ học trò của Thầy ở các trường trung học Đà thành (Đà Nẵng).
 
Bắt đầu làm thơ từ năm 1952 đến ngày từ giã cõi trần, thi sĩ Trần Hoan Trinh (nhà giáo Trần Đại Tăng) đã trải qua trên 60 năm thơ và với 40 năm dạy học, Thầy đã sáng tác rất nhiều bài thơ với nhiều thi tập đã phát hành, tiêu biểu: • Tôi Khóc Em Cười • Bỏ Trường Mà Đi (in năm 1997) • Tóc Trắng Sân Trường (NXB Trẻ in năm 1997) • Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp (NXB Trẻ in năm 2002) • Tuyển Tập Thơ Trần Hoan Trinh (in năm 2002) • và mới đây nhất là Tuyển Tập Thơ với tựa “Cháy Bỏng Như Lửa Mặt Trời”. Nội dung tuyển tập này bao gồm 3 tập thơ gần đây nhất của thầy: 1. Quê Hương Thơ Và Em; 2. Cháy Bỏng Như Lửa Mặt Trời; và 3. Bỗng Dưng Nhớ Phố Nhớ Phường” là do các con của Thầy Cô thực hiện nhân kỷ niệm 50 ngày Thành Hôn của Thầy Cô. Tập thơ “Cháy Bỏng Như Lửa Mặt Trời” với 200 bài thơ, dày khoảng 350 trang do Nhà Xuất Bản Văn Học ấn hành vào năm 2013•
Thơ của Thầy lúc nào cũng nhẹ nhàng, đằm thắm tình nghĩa thầy trò, trường xưa, đồng nghiệp, tình yêu, cuộc đời, thân phận, và quê hương đất nước…
Thơ của Thầy phần lớn được đăng rải rác sau này trên các trang mạng của các Hội Ái Hữu, các Cựu Học sinh các trường Trung học Quảng Nam-Đà Nẵng, đặc biệt Trường Phan Châu Trinh, và thân hữu…

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 2/10 – Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) (1/4)

BBT: Lần này xin trích đăng bài ” Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh)” và bài được chia làm 4 phần.
***
Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) – Phần 1/4
* Viết nhân Kỷ Niệm 60 năm thành lập trường Phan Châu Trinh
 
MotThoiPCT_02A
 
Cầm Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm trong tay, tôi leo lên chuyến tàu hỏa tốc hành Sài Gòn – Huế đến trường trung học Phan Châu Trinh – Đà Nẵng nhận việc.
Một đêm tháng 9 năm 1958. Mưa gió suốt cuộc hành trình. Miền Trung đang có bão. Chiếc tàu chạy ỳ à ỳ ạch qua những cánh đồng bao la nước, qua những cánh rừng ướt đẫm mưa, qua những con sông nước tràn lan lấp loáng bờ. Xa xa bên dưới, biển động ầm ầm, sóng vỗ trắng xóa. Đến Quảng Ngãi vào tối mịt ngày hôm sau, tàu không thể chạy tiếp nữa. Nhiều đoạn đường sắt đã chìm hẳn trong nước…
Tôi bỏ tàu, leo lên một chiếc xe hàng đầy ứ khách đi tiếp. Chiếc xe phủ bạt kín mít, lăn đi trong mưa, trong đêm tối om. Tôi ngồi khuất một góc sâu trong xe, chỉ nghe tiếng mưa rơi ào ạt và tiếng người phụ xe thỉnh thoảng gọi tên những địa danh xe sắp đến. Xe vào bến Đà Nẵng giữa khuya. Bến xe vắng ngắt, lác đác vài quán ăn còn mở cửa, đèn mờ leo lét.
 
Bến xe Đà Nẵng lúc đó còn nằm trên đường Hùng Vương, cạnh Chợ Cồn, vị trí bây giờ là Siêu Thị BIG C. Xách chiếc vali trên tay, tôi đặt bước chân đầu tiên của mình xuống thành phố Đà Nẵng. Thành phố này hoàn toàn xa lạ với tôi, tôi chưa hề đến đây lần nào, và cũng chẳng có thân thích, bà con nào ở đây cả. Đường sá vắng hiu, buồn tênh, mặt đường ướt át, đầy xác lá và cành cây gãy, sau cơn bão. Tôi ngơ ngác nhìn quanh nơi mình sẽ sống, nơi mình chập chững những bước đầu tiên vào đời. Xa lạ. Bỡ ngỡ. Thích thú. Lúc bấy giờ, được bổ nhiệm về Đà Nẵng xem như bị đi đày. Đà Nẵng lúc đó còn nhỏ, nhỏ lắm, nhỏ hơn Huế, Nha Trang nhiều. Tôi vẫn đinh ninh trong lòng: thôi cứ dạy ở đây vài năm, sẽ tìm cách đổi về Huế, quê hương của mình, hay Sài Gòn, nơi mình mới khăn gói ra đi. Thế mà tôi đã ở đây cả cuộc đời ! Thế mà tôi đã dạy riêng tại Phan Châu Trinh, Đà Nẵng 40 năm đăng đẳng !
 
Âu là nghiệp dĩ ! Những năm tháng ngày tàn bóng xế, lạc lõng xa lạ giữa thành phố này, bị lãng quên giữa thành phố này, những sớm, rất sớm, một mình đếm từng bước lang thang trên con đường bờ sông Bạch Đằng hay trên con đường dọc bãi biển Thanh Bình, để tập thể dục, nhưng dụng ý chính là tìm chút thoải mái, thanh thoát cho tâm hồn, đã nhiều lần tôi tự hỏi mình: quyết định của tôi để cả một cuộc đời ở Đà Nẵng này là Đúng hay Sai ! ? Làm thầy một đời ở Đất Quảng này của tôi tựu trung là thành công hay thất bại ? ! Để rồi hồn bâng khuâng, buồn vô hạn !
 
Thời gian học Trung học, tôi đã nuôi mộng sau này theo nghề dạy, nhưng theo một hướng khác. Thế mà dòng đời đưa đẩy, tôi lại vào nghiệp dạy theo một hướng khác, chính quy luôn !
Thuở ấy, đậu xong Tú Tài 2, muốn học lên nữa thì phải vào tận Sài Gòn thôi. Các trường Đại học khác (Huế, Đà Lạt, …) mãi đến sau năm 1958 mới được thành lập. Thuở tiểu học, tôi học tại trường Thế Dạ. Thuở trung học, tôi học Đệ nhất cấp tại trường Pellerin, Huế. Năm Đệ Tam (lớp 10), tôi học tại trường Tư Thục Nguyễn Du, Huế, mới thành lập, tọa lạc trên đường Hàng Đường, cạnh chân cầu Đông Ba. Tôi học Đệ Nhị, Đệ Nhất (lớp 11, 12) tại trường Khải Định. Lúc bấy giờ trường Khải Định còn học chung với trường con gái Đồng Khánh, dãy lầu phía bên phải, vì cơ sở trường còn bị Pháp chiếm làm trại lính. Đến cuối năm Đệ Nhất, trường Khải Định mới được Pháp trao trả cho Việt Nam, chúng tôi khiên bàn, khiên ghế, khiên bảng đen, bục giảng, … về học tại trường của mình. Cũng cuối năm đó, trường được đổi tên là Quốc Học Ngô Đình Diệm (từ năm sau chỉ gọi là Quốc Học Huế). Tôi học lớp Đệ Nhất B3. Thầy dạy Toán của tôi năm này là thầy N. V. H., vị thầy thần tượng của tôi lúc đó. Thầy làm Hiệu Trưởng nên chỉ dạy một mình lớp tôi thôi. Nhìn chữ ký lả lướt của thầy, dưới triện son đỏ chói của trường, dưới hàng chữ Hiệu Trưởng, Giáo Sư Cử Nhân Giáo Khoa, là tôi mê tít ! Một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi về thầy: chiều hôm đó, thầy có 3 giờ Toán liên tiếp tại lớp tôi. Chắc bận việc gì đó, đầu giờ thầy vào lớp và ra một đề toán bắt chúng tôi giải trên giấy, cuối giờ nộp, rồi bỏ đi đâu mất ! Ngồi nắn óc bóp trán làm mãi không ra, mặc dù chúng tôi đã tụ năm tụ bảy cùng ngồi làm chung để suy nghĩ cách giải. Cuối giờ, thầy vào lớp, chúng tôi phản ảnh lại, chịu không ai giải được cả, thầy cầm đề tóan lên xem một hồi, rồi bật cười ha hả, giơ cả răng cả lợi: bây ngu quá, đề tau ra thiếu mà cũng làm, ha ha ! Mất toi 3 giờ toán lại còn bị mắng là ngu, nhưng cũng đành chịu ! Giữa năm học, thầy không còn dạy Toán cho lớp tôi nữa. Thầy quay qua hoạt động chính trị và chuyển hoàn toàn lên Đại Học. Lòng tôi vẫn ao ước sau này học hành sao cho ra trường giống thầy: đỗ Cử nhân Giáo khoa Toán rồi về Huế dạy ! Do đó, đỗ xong Tú Tài 2, theo rũ rê của người bạn thân, tôi bay vào Sài Gòn, ghi tên ngay vào học tại Faculté de Sciences (Đại học Khoa học), mặc dù trong túi chỉ có vài chục đồng ! Người bạn tôi bảo phải vào sớm, đến dự thính các lớp đang học để nghe tiếng Pháp cho quen (lúc đó trường còn dạy bằng tiếng Pháp), vào năm học chính thức mới theo kịp để ghi bài. Anh bảo đảm vào đó sẽ giới thiệu chỗ dạy kèm dạy thêm, đủ chi phí để ăn học. Loay hoay tìm kiếm chỗ dạy thêm chẳng ai nhận, chắc là thấy tôi còn bé con quá ! Tiền sắp cạn, đang lúng túng không biết làm sao ! Một hôm đi ngang qua trường Cao Đẳng Sư Phạm Sài Gòn (Normale Supérieure de Pédagogie), thấy thông báo tuyển sinh, tôi ghi tên dự thi, định bụng học thêm tại đây để lấy học bỗng. Học bỗng của trường Sư phạm này khá lớn, gần bằng lương của một công chức bậc trung hồi ấy ! Trúng tuyển, mừng rơn ! Thế là giải quyết được vấn đề khó khăn nhất ! Vào thời gian này, miền Nam có 3 hệ sư phạm: Sư phạm Cấp tốc, mỗi tỉnh có 1 trường, đào tạo giáo viên dạy tiểu học (cấp I). Quốc gia Sư phạm, vài ba tỉnh mới có một trường, đào tạo giáo sư ra dạy Đệ nhất cấp (cấp 2), Cao Đẳng Sư phạm chỉ có 1 trường tại Sài Gòn, đào tạo giáo sư dạy Đệ I cấp và Đệ 2 cấp (cấp 2, 3). Cao Đẳng Sư phạm là hệ Sư phạm cao nhất tại miền Nam lúc bấy giờ, Đại học Sư phạm mãi đến năm 1958 mới được thành lập. Trường này, theo lời người thầy dạy môn Phương Pháp Sư Phạm của tôi, cũng là Phó Giám Đốc của trường, thầy Phan Thế Roanh, và theo các người bạn lớn tuổi trong ngành, do chính phủ thuộc địa Pháp thành lập để đào tạo giáo sư trung học cho ba miền Việt Nam, Lào, Cambuchia. Trước trường đặt tại Hà Nội, đến 1954, thực thi Hiệp Định Genève, trường được dời vào Sài Gòn, đặt tại ngã tư Cộng Hòa – Thành Thái (bây giờ là Nguyễn Văn Cừ – An Dương Vương), cạnh trường Pétrus Ký, cạnh trường Đại học Khoa học. Môn học còn dạy bằng tiếng Pháp, trừ 2 môn Tâm Lý Sư phạm và Phương Pháp Sư phạm. Thầy cô dạy tại đây, cũng là Thầy cô dạy ở Đại Học Khoa Học. Vì vậy, sinh viên học tại đây phần lớn đều có thể ghi danh học thêm ở Đại Học Khoa Học, rất tiện lợi. Sinh viên ra trường chỉ đủ để bổ nhiệm cho các trường lớn trong nước mà thôi: Gia Long, Pétrus Ký, Chu Văn An, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Du, Võ Trường Toản, …. ở Sài Gòn, Quốc Học, Đồng Khánh ở Huế, Võ Tánh ở Nha Trang, Trần Hưng Đạo, Bùi Thị Xuân ở Đà Lạt, … Năm 1958, sinh viên mới được bổ nhiệm đến các tỉnh thành khác: Đà Nẵng, Qui Nhơn, Hội An, Quảng Trị, ….. Phần lớn chỉ 1, 2 năm sau là được đề cử đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc, Thanh Tra, Hiệu Trưởng, Giám Học các trường cả. Mấy năm đầu đến Đà Nẵng, tôi vừa dạy vừa tiếp tục việc học của mình một thời gian. Tôi được trường Phan Châu Trinh giao phụ trách giảng dạy ngay các lớp Đệ Nhị Cấp, nhưng chỉ hưởng lương của một giáo sư Trung học Đệ Nhất Cấp, mãi cho đến 5 năm sau, 1963, mới thực thụ là Giáo Sư Trung học Đệ Nhị Cấp.
  1. Một Thời Phan Châu Trinh
Tôi đến trình diện nhận việc tại trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng ngay sáng hôm sau đêm đến Đà Nẵng. Cơ ngơi của trường Phan Châu Trinh còn rất nhỏ, nằm lọt thỏm giữa một giải đất rộng bao la… Sân trường còn trải cát, chỗ cao chỗ thấp, bao quanh bằng một hàng kẽm gai quân đội thấp lè tè, đứng bên ngoài có thể nhìn thấy hết mọi sinh hoạt bên trong. Cây cối trên sân chính chỉ có mấy hàng dương liễu, hàng phượng mới trồng, lơ thơ, ẻo lả trước gió. Năm sau, các hàng cây này được nhổ bỏ đi, trường trồng các cây sao, cây xà cừ thay vào, bây giờ lên cao vút…
 
Số thầy cô đếm được trên đầu ngón tay, phần đông không qua một khoá sư phạm nào. Các thầy dạy đủ môn, đủ lớp. Năm học này dạy Văn, năm học sau lại được phân công dạy Toán, dạy Lý. Các môn Sử, Địa, Công Dân, Vạn Vật, ….ï thì xem như phân phối lung tung, làm sao cho quý thầy cô đủ số giờ bắt buộc mà Bộ qui định. Một số thầy cô được mời từ các công chức thuộc các Ty, các Sở đóng trong địa bàn thành phố. Các vị này khi rãnh rỗi thì dạy, khi bận công tác thì nghỉ, trường phải bố trí bất cứ ai vào dạy thay. Cái tuyệt diệu của các thầy cô hồi đó là thầy cô nào cũng giỏi, rất vững vàng, dạy môn gì cũng đạt cả. Vì số thầy cô còn ít, nên tình thân mật giữa nhau đậm đà thân thiết vô cùng. Ngoài giờ dạy tại lớp, các sinh hoạt khác: thể thao, văn nghệ, báo chí, xã hội, …. đều được tất cả hăng hái tham gia, nhiệt tình, vui vẻ. Các lần đóng trại xa, các lần trình diễn văn nghệ đón Xuân, bế giảng năm học, những Lễ Phát Thưởng cuối năm, …. đều để lại trong lòng thầy trò những hình ảnh đẹp, không bao giờ quên được.
 
Sau này tôi vẫn nghĩ lại: chưa có thời gian nào tôi được sống giữa đồng nghiệp, giữa học sinh một cách thân tình, vô tư và trong sáng như vậy.
Tôi lớn lên cùng ngôi trường PCT, tôi chứng kiến bao nhiêu thay đổi. Trước năm học 1958, trường chỉ mới có 8 phòng học, mặt tiền quay ra đường Lê Lợi. Hè 1958 trường xây thêm 8 phòng học gồm 4 trệt 4 lầu, vuông góc với dãy trường cũ, nằm song song với đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẫn). Năm 1960 xây thêm 4 phòng tiếp nối vào dãy giữa. Năm 1962 thêm 10 phòng cho dãy lầu bên phải. Năm 1967, thầy Thái Doãn Ngà, giáo sư Toán trường Quốc Học Huế, được Bộ Giáo Dục cử vào đảm nhiệm chức vụ Giám Học rồi Hiệu Trưởng. Đây là một vị Hiệu Trưởng tháo vát, năng nổ, có công nhiều trong việc xây dựng trường. Trường được đúc móng dựng trụ lên lầu, xây thêm Thư viện, phòng Thí nghiệm, Hội trường, Văn phòng….. Sân trường được đỗ đá tráng nhựa, cổng trường được xây mới bề thế uy nghi. Trường càng ngày càng mở mang lớn, đón tiếp nhiều thầy cô giáo giỏi, bằng cấp cao về giảng dạy. Học sinh càng ngày càng đông, học giỏi, năng động, lớp này ra trường, lớp khác vào, liên tu bất tận.
 
Năm 1975, đất nước Bắc Nam thống nhất. Tôi được bố trí dạy lại ngay tại PCT và dạy mãi cho đến ngày nghỉ hưu (1998). Do đó, tôi trở thành người thầy có thâm niên dạy liên tục tại trường PCT lâu nhất từ trước đến nay: 40 năm ! Chắc sau này chẳng có ai theo kịp !
  1. Người Thầy Liên Trường
Miền đất Quảng Nam Đà Nẵng là miền Địa linh Nhân kiệt, là đất Ngũ Phụng Tề Phi, nơi sản sinh bao nhiêu danh nhân, anh hùng hào kiệt. Tôi diễm phúc được dạy tại miền đất này không phải chỉ tại trường công lập Phan Châu Trinh mà hầu như ở tất cả các trường Bán Công, Tư Thục trong thành phố: Bán Công Đà Nẵng, Sao Mai, Bồ Đề, Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ, Thánh Tâm, Ánh Sáng, Nguyễn Hiền, Tây Hồ, Thành Nhân, Báp Tít, Vinh Sơn, Diên Hồng, Hồng Đức, …. Có trường tôi dạy nhiều năm, có trường chỉ dạy vài ba tháng hay 1 học kỳ thì nghỉ.
 
Năm 1958-1959, Đà Nẵng chỉ có 2 trường có Đệ Nhị cấp (chưa hoàn chỉnh): Phan Châu Trinh và Bán Công Đà Nẵng. Qua niên khóa 1959-1960, các trường tư khác mới bắt đầu phát triển Đệ Nhị cấp. Các trường Bán Công, Tư thục này thường mời tôi dạy Toán mỗi năm 1 hoặc 2 lớp, thường là 1 lớp Đệ Nhị B, 1 lớp Đệ Nhất A. Học sinh các lớp Đệ Nhị B rất đông, bao nhiêu học sinh ở Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Hoà Vang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Quế Sơn, …. nếu không vào được PCT thì đều học tại các trường tư đó cả. Vì vậy, thuở ấy, học sinh nào có học Đệ Nhị, đã đỗ Tú Tài I phần lớn đều có “gặp“ tôi, không ở các lớp chính thức thì gặp ở các lớp cua. Một điều thú vị là nhiều gia đình có cha, mẹ và 4, 5 anh chị em, đều là “môn đệ ruột” của tôi cả. Những anh chị sau này đến thăm hay nhắc lại, xem như một kỷ niệm hiếm có.
 
Mới chân ướt chân ráo đến ĐN, khi trình Sự Vụ Lệnh với Thầy Hiệu Trưởng PCT, tôi được thầy mời dạy tại trường Bán Công ĐN (1958-1959) và trao ngay thời khóa biểu cho tôi… Trong các năm học đầu, trường Bán Công được đặt dưới sự quản lý của trường PCT, Hiệu trưởng PCT kiêm nhiệm luôn chức vụ Hiệu Trưởng trường Bán Công. Trường Bán Công Đà Nẵng được thân hào nhân sĩ trong thành phố vận động thành lập năm 1957, để con em mình có chỗ theo học, khỏi phải khăn gói ra Huế, vào Sài Gòn, Nha Trang, vừa tốn kém, vừa bất tiện. Trường chỉ có Đệ Nhị Cấp (lúc này PCT chưa có mở lớp Đệ Nhị Cấp). Niên khóa đầu tiên trường chỉ có 1 lớp Đệ Tam A-B, học tạm tại 1 phòng học mượn của PCT. Đến niên khoá 1958-1959 trường được tỉnh xây cho một cơ sở gồm 4 phòng học, toạ lạc trên một khoảng đất rộng mênh mông, nằm giữa hai con đường Nguyễn Hoàng (Hải Phòng) và Quang Trung, chéo một chút với Thánh Thất Cao Đài ĐN (bây giờ là Bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng). Khuôn viên này hồi đó còn cây cỏ um tùm, ao hồ xen kẻ, mưa tạt gió lùa… Những ngày mưa, đứng dạy, nghe văng vẳng tiếng ểnh ương, ếch nhái vọng vào, thê lương áo não chi lạ. Các thầy cô trong thời gian này, ngoài một số là thầy cô PCT, trường còn mời thêm một số là công chức đang công tác tại Đà Nẵng đến giảng dạy: luật sư Sanh, luật sư Trường, kỹ sư Tiễn, bác sĩ Can, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, thầy Phan Công Hân, v.v … Học sinh trường rất to con lớn xác, phần lớn là con cháu của các gia đình có máu mặt trong thành phố, có vài em đã có vợ con đàng hoàng, tuy nhiên hiếu học và yêu quý gần gũi với thầy cô vô cùng. Thầy Hiệu trưởng bận công tác tại trường PCT, nên mọi việc điều hành trường đều giao cho cụ Đoàn Văn Khánh, mục sư Tin Lành, chức vụ Tổng Giám Thị, phụ trách. Tôi vẫn nhớ dáng cao lớn bệ vệ hồng hào của cụ Khánh, luôn có mặt tại trường rất sớm, đi trên chiếc xe Mobylete Pháp cũ kỹ, để coi sóc giữ gìn trật tự cho trường. Nghiêm trang, bao dung, vui vẻ, hiền hòa với tất cả mọi người, tận tụy với nhiệm vụ. Văn phòng có bác Bửu Diêu (PCT) lo việc kế toán, bác xã Ký lo việc hồ sơ, có bác cai Nhẫn, mặt luôn đỏ au vì đế, lo việc bảo vệ ! Tôi còn nhớ tên rất nhiều em học sinh Bán Công giai đoạn này: Đặng Công Phu, Trần Đình Ba, Võ Văn Khởi, Nguyễn Hữu Xuân, Huỳnh Công Khanh, Nguyễn Cù Mông, Minh Nguyệt, Huyền Tâm, Bích Ngọc, Trần Thị Dung, Mộng Điệp, Kim Thoa, Kim Yến, Tuyết Giao, Kim Ngọc, Hương Bửu, Vũ Anh Nghi, Kim Quỳ, Trần Thị Lý, Mỹ Lợi, Nguyễn Thị Thoại, … … …
 
Đến năm 1963, tỉnh lấy khuôn viên này để xây bệnh viện Đa khoa ĐN, trường Bán Công được dời đến học tại địa điểm mới trên đường Lê Thánh Tôn, cơ sở của trường tư thục Nguyễn Công Trứ vừa bị giải thể. Lúc này trường mới có cả Đệ Nhất cấp, Đệ Nhị cấp. Thầy Trịnh Thể, một thầy giáo thanh liêm, mẫu mực, uy tín của thành phố, được mời giữ chức vụ Hiệu Trưởng. Tôi nhớ dáng thầy cao ốm, luôn luôn mặc y phục trắng toát, vẻ mặt nghiêm nghị nhưng cởi mở vô cùng. Năm 1973, trường được công lập hóa và đổi tên là trường Diên Hồng, thầy Nguyễn Ngọc Thanh (PCT) được giao nhiệm vụ Hiệu Trưởng…
Tôi dạy tại trường Bán Công ĐN từ 1958 cho đến 1972 thì nghỉ, vì phải đảm nhiệm chức vụ Giám Học tại Phan Châu Trinh, công tác bận rộn lu bù. Một kỷ niệm đậm nét trong tôi: số tiền đầu tiên tôi tự kiếm được để chi tiêu cho mình là tiền lương dạy tại trường Bán Công đó.
 
Tôi đến dạy tại trường Tư thục Sao Mai từ niên khóa 1959-1960, năm trường mở Đệ Nhị cấp. Niên khóa này tôi nhớ lúc đầu Hiệu Trưởng trường là Linh Mục Lê Văn Ấn, chừng vài tháng sau, linh mục Lê Văn Ấn được Tòa Thánh phong làm Tổng Giám Mục địa phận Đà Nẵng nên linh mục Vũ Như Huỳnh phụ trách chức vụ Hiệu trưởng thay thế, cho mãi đến 1975.
 
Tôi nhớ lớp Đệ Nhị B đầu tiên của trường Sao Mai rất đông, sỉ số hơn cả 100, có những học sinh rất giỏi, không thua kém gì trường công lập: Trương Thị Huệ, Hoàng Thị Phụng, Sơn, Trinh, Chênh, Thành, Xuân,… Lớp được trường bố trí học tại phòng rộng nhất ở lầu 3, có những cột trụ chống đỡ to bằng người ôm, nhìn ra con sông Hàn bao la bát ngát, gió thổi hây hây mát rượi. Nhìn chéo một chút là Cổ Viện Chàm, âm u, huyền bí… Xa xa bên trái là dãy núi Sơn Chà quanh năm mây trắng phủ đầy đỉnh núi, bên phải là cầu De Lattre cheo leo vắt ngang sông, mờ mờ sóng nước. Giảng bài xong, sau khi ra bài tập cho học sinh soạn, tôi thường đến đứng bên cửa sổ lặng ngắm các tàu bè qua lại, ngắm khói sóng lãng đãng trên sông, thả hồn bay bỗng vu vơ bờ này bến nọ. Lắm bài thơ ý thơ của tôi được hình thành lúc đó. Trường Sao Mai là trường tôi dạy lâu nhất sau PCT, mãi đến cuối tháng 3.1975 mới nghỉ, khi trường được giao cho chính quyền mới tiếp quản.
 
Tôi dạy tại trường Bồ Đề từ năm học 1959 -1960, khi trường mở Đệ Nhị cấp và cơ sở dời về đường Quang Trung (bây giờ là trường trung học cơ sở Nguyễn Huệ)… Đến khi bị gọi nhập ngũ, tôi mới nghỉ dạy. Trình diện tại trại Nhập Ngũ số I, khám sức khỏe, rồi được Bộ Giáo Dục can thiệp cho học Quân Sự 9 tuần về, định dạy lại nhưng sau xin thôi luôn. Tôi nhớ lớp Đệ Nhị B đầu tiên của trường Bồ Đề học ở phòng lớn nhất thuộc tầng 2, nhìn ra cổng trường, có các tường chắn xây bằng gạch tổ ong, gió thổi lùa qua mát đến lạnh người, mỗi lần giảng bài phải hét thật to, kẻo tiếng nói bị gió thổi và tiếng xe chạy ngoài đường làm loãng đi… Tôi nhớ lớp này cuối năm học có một vở Kịch rất hay: Trưng Trắc Trưng Nhị. Cô nữ sinh đóng vai Trưng Trắc đẹp mê hồn và ngâm thơ rất hay… Vở kịch gây xúc động nhiều trong lòng học sinh lúc ấy. Tôi nhớ Hiệu Trưởng của trường là một vị Đại Đức, hiền từ và rất đẹp trai: Đại Đức Thích Minh Tuấn.
Trường tư thục Phan Thanh Giản là một trường có uy tín lớn. Tôi vẫn tiếc mình dạy ở trường này thời gian ít quá, khoảng 3 tháng. Tôi nhớ năm học 1960-1961 (hay 1959-1960 ?), đảm nhiệm chức vụ giám học trường là anh Trương Hồng Minh, bạn thân của tôi hồi học Khải Định (Huế). Anh bị gọi động viên, mời tôi đến dạy thay anh. Khi anh được hoãn dịch trở về, tôi trả lớp cho anh, mặc dầu anh yêu cầu tôi tiếp tục. Thuở đó tôi dạy tại nhiều trường nên bị kẹt Thời Khóa Biểu. Vả lại thuở trẻ tôi cũng ham chơi nữa.
 
Tôi dạy tại Trường Thánh Tâm cũng được 5, 6 niên khóa trước 1975, do anh Vĩnh Linh nhường lại. Tôi được giao phụ trách môn Toán tại lớp 12. Tôi nhớ lớp học bao giờ cũng chỉ có 6, 7 chị Nữ Tu, đạo đức, hiền từ, lễ phép, chăm chỉ rất mực, lớp học luôn luôn im lặng như tờ. Đến cuối tháng 3-1975 tôi mới nghỉ dạy tại đây.
Tôi dạy tại trường Ánh Sáng từ năm 1973 đến 1975, một lớp 12 A, thưở chị Nguyễn Thị Thanh làm Hiệu Trưởng và anh Nguyễn Châu Hóa làm Giám Học
Tôi dạy tại trường Nguyễn Hiền, hậu thân của Blaise Pascal niên học 1974-1975. Năm đó, anh Đặng Ngọc Tuấn (trước là Giám Học PCT) mới từ Huế được cử vào phụ trách Giám học tại đây. Anh mời tôi đến dạy với tư cách giáo sư dạy giờ, Toán lớp 12 A. Tôi nhớ lớp chỉ có khỏang 10 nữ sinh, em nào cũng hiền lành, thông minh, đẹp đẽ, đài các. Hằng Nga, Kim Anh, Lan, Lộc, Ngọc, … Lớp học nằm ở một phòng học riêng biệt, cheo leo ở lầu 2 dãy nhà mới, nhìn ra đường Quang Trung, con đường được học sinh hồi đó gọi là Đường Tình Sử.
 
Tôi có dạy 1 thời gian tại trường Thành Nhân của anh Hồ Duy Trinh, trường Vinh Sơn của Linh Mục Trinh, trường Tây Hồ, Trung Tâm Báp Tít,…..
Tôi cũng có vào dạy tại trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ, trên giấy tờ khoảng 3 tháng, nhưng trên thực tế khoảng 2 tuần. Tuy thời gian dạy tại đây không là bao, nhưng tôi cũng có rất nhiều kỷ niệm đẹp với ngôi trường lắm nhân tài này.
Năm tôi nghỉ hưu, 1998, thành phố Đà Nẵng được phép mở Tư Thục lại. Tôi được 2 trường Tư Thục mới mời đến dạy: trường Tư Thục Diên Hồng và trường Tư thục Hồng Đức. Dạy tại 2 trường này 4 năm thì tôi xin nghỉ hẳn, vào Sài Gòn lang thang ……

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 3/10 – Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) (2/4)


Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) – Phần 2/4
  1. Một Trời Kỷ Niệm
PCTDN-mottroikyniem
Trong suốt thời gian làm nghề thầy giáo, tôi chỉ miên man với chuyện dạy dỗ. Say sưa dạy. Miệt mài dạy. Đem tất cả tâm hồn mình đặt vào việc dạy, việc lên lớp. Lứa học trò này ra đi, lứa trẻ khác vào trường, lại đem lại những say sưa mới, những thương yêu mới, những ngọt ngào mới. Không hề suy nghĩ tính toan gì khác. Một số bạn đồng nghiệp của tôi xem trường lớp, xem việc dạy chỉ là nghề tay trái, công việc chính của họ ở các lĩnh vực khác: chính trị, buôn bán, kinh doanh, xây dựng, thầu khoán ….. Tôi thì không có một ham muốn nào khác ngoài việc dạy dỗ, gần gũi với học sinh của mình. Không bon chen, không chạy vạy xuôi ngược. Dạy dỗ nhiệt tình. Có lẽ vì tôi bất tài, nhu nhược, không dám dấn thân! Đời sống chỉ bình thường thế thôi. Giàu cũng không giàu. Nghèo cũng không nghèo tí nào ! Tôi luôn luôn bằng lòng với những gì mình có, và cả những gì mình không thể có !
Hạnh phúc vô cùng là người bạn đời của tôi cũng bằng lòng như vậy, sống vô tư như vậy, không chấp nhất, không nề hà, không đòi hỏi gì cả !
 
Trong suốt 40 năm ở trường PCT, trong gần 50 năm làm thầy ở Đất Quảng, kiểm lại rất mừng thấy mình chưa phạm một điều gì sai trái lớn lao cả, chưa hề có hành động nào làm cắn rứt lương tâm ! Dạy dỗ hết lòng, luôn tận tâm tận lực. Không hạ mình, không luồn cúi, không bợ đỡ, không bán rẻ lương tâm. Vui với cái vui của học trò, buồn với cái buồn của học trò. Luôn luôn xem nhà trường, lớp học là một cõi đi về của mình. Mặc dù nhiều lúc bị lãnh đạo đối xử bất công, chèn ép, nhưng vẫn xem đó là cái giá phải trả, là tai nạn nghề nghiệp thôi! Một điều mà tôi vốn tâm nguyện phải giữ gìn là ông thầy luôn luôn phải công bằng với học sinh của mình, học trò giỏi, học trò yếu, học trò ngoan, học trò hư đều phải đối xử như nhau, không thiên vị, không ức hiếp ! Chuyện thi cử trúng tuyển vào lớp đầu cấp, vào đại học, những năm đầu sau 75 làm tôi nhiều khi bức xúc vô cùng ! Nhiều khi chán nản định bỏ quách nghề dạy, tung hê tất cả, vào Sài Gòn tìm một công việc khác để sinh sống, nhưng cứ bước chân vào lớp học, nhìn nụ cười ngây thơ của học sinh mình, nhìn những đôi mắt tha thiết chân tình, tôi lại say sưa giảng dạy, giọng giảng bài lại sang sảng nhiệt tình, lại đặt hết hồn mình, lòng mình vào bài dạy, lại thành tâm thành trí đem sức mình cống hiến cho tuổi trẻ, cho học trò, quên hết mọi chuyện !
 
Học sinh đã đem đến cho tôi cả một trời kỷ niệm đáng nhớ ! Vui cũng có. Buồn cũng có. Kỷ niệm nào cũng trân quý, kỷ niệm nào tôi cũng đều ôm ấp nâng niu cả ! Tôi kể ra đây vài kỷ niệm ! Cho vui thôi !
 
1/. Một chuyện tình học trò:
Bước vào lớp học, bỏ cặp sách trên bàn, tôi vẫy tay ra dấu cho học sinh ngồi xuống. Mắt bỗng bất chợt thấy, ở bàn đầu, em X. nãy giờ cứ ngồi yên, không hề đứng dậy. Tôi định gọi em khiển trách, nhưng nhìn vẻ mặt bơ phờ ngơ ngác của em, tôi lại thôi. Suốt thời gian giảng bài, tôi chú ý thấy X… khi thì vẹo người qua trái, khi đổ người qua phải, khi thì nằm úp mặt xuống vở. Em không hề ghi bài, cây viết tuy nằm trên tay nhưng nắp viết chưa hề được mở. Thấy tôi nhìn, Y. ngồi cạnh đưa tay hích X., nhưng X. vẫn làm lơ. Mắt như lạc thần, tâm trí như để tận đâu đâu. Khi kết thúc bài giảng, tôi xoa hai tay vào với nhau để chùi bớt phấn, nỗi tức bực từ nãy giờ cố kềm lại bỗng nở òa ra:
– X., đem vở ghi bài lên đây !
Gọi lần một, lần hai, lần ba, X. vẫn như không nghe, lại còn nằm úp mặt nhoài ra trên bàn, như giận, như lẫy !.
Tôi đập bàn cái bốp, hét:
– Đem vở học lên đây ! Mau lên ! Nghe không ? Đồ bướng!
  1. chỉ nhích người đứng dậy một chút, nhưng rồi lại ngồi phịch xuống ngay. Em trưởng lớp, ngồi ở cuối phòng, đứng dậy đến bên X., tay đẩy nhẹ X. rồi lấy vở đem lên trình tôi. Tôi giật lấy cuốn vở, xé tọac làm hai, vứt cái phựt ra ngoài cửa sổ.
– Bộ nó không có chân không có tay sao mà em phải đem lên nộp thế !? Đi học chứ đâu phải đi làm bà hoàng bà hậu đâu mà đỏng đa đỏng đảnh thế ?
Tôi tức bực ngoáy hai con số 0 to tướng vào sổ điểm, rồi vùng vằng bỏ ra khỏi lớp, đi đến phòng Hội Đồng Giáo sư cạnh đó. Rót nước uống từng ngụm nóng nhỏ, tôi thấy cơn giận vẫn chưa nguôi ngoai. Nhìn ra cửa sổ phòng Hội Đồng, tôi thấy em trưởng lớp đang đi nhặt từng trang vở một của X. mà tôi đã xé, gom lại, vuốt thẳng, rồi sắp xếp ngay ngắn, với một vẻ cam tâm chịu đựng. Tự nhiên thấy lòng mình lắng xuống, một chút gì như hổ thẹn, như ăn năn thoảng đến. Tôi chợt thấy mình còn thua xa học sinh của mình ! Sao nóng nảy thế ? Sao hồ đồ thế ? Sao mất bình tĩnh thế ! Không ra vẻ ông thầy gì cả ! Thế mà cũng vênh vênh đi dạy ! Vị Tổng Giám Thị nghe lớp ồn ào, rồi thấy tôi bỏ lớp đi ra, từ phòng mình đi vội lên, tay cầm cái roi mây vẩy vẩy. Anh hỏi tôi:
– Chuyện gì vậy ? Đứa nào vậy ?
– Không có gì.
Tôi trả lời rồi cúi đầu lặng lẻ đi về lớp dạy.
Cuối giờ dạy, em Y., ngồi cạnh X., lên nói khẽ vào tai tôi:
– Bạn X. “bị“ cái đó thầy ơi, nên không thể đứng lên đem vở cho thầy được!
Tôi ngượng ngùng quá cho sự thiếu hiểu biết, thiếu nhạy cảm của mình quá. Từ lần đó, bao giờ muốn rầy la học sinh, tôi đều cố gắng kềm chế mình tối đa.
Gần 10 năm sau, gặp lại học sinh cũ của lớp đó, các em cho biết em trưởng lớp và X. bây giờ là vợ chồng của nhau và đã có một mặt con. Chúng còn châm biếm thêm:
– Nhờ thầy mà 2 đứa yêu nhau đó, thầy ơi !!
 
2/. Một mùa xuân đặc biệt trong đời
Vận mệnh đời sống của tôi, nhiều lần do học trò tạo ra. Học trò đã có mặt đúng khi đúng lúc, làm thay đổi cuộc đời của tôi. Nếu không gặp được học trò những lần như vậy, chắc chắn đời tôi đã rẽ qua một ngả khác. Không biết là xấu hơn hay tốt hơn.
 
Năm ấy, 30 Tết tôi về thăm nhà ở Huế, ở Vỹ dạ. Định bụng ở lại ăn Tết với cha mẹ ngày mồng một, đến mồng hai mới vào lại Đà Nẵng với vợ con. Đêm giao thừa đó ngủ chẳng được, pháo đâu thiên hạ đốt quá chừng. Cả tiếng súng nữa, liên tu bất tận. Thao thức đến sáng. Ba tôi dậy sớm loay hoay chộn rộn sửa soạn về làng nội Dương Nỗ thăm mộ. Tôi vùng dậy, lang thang một mình lên phố khi trời còn chưa hửng sáng. Qua Đập Đá. Qua cầu Trường Tiền còn mờ hơi sương, ghé quán cà phê Xướng cạnh chân cầu, gần tiệm xe An Lợi. Ông tài xế quen, anh Minh, chạy chuyến đầu Xuân mở hàng, vui vẻ bảo: vào Đà Nẵng đi thầy, chiều ra lại với em ! Không lưỡng lự, hai tay không leo lên xe, tính tôi hay lãng tử vặt như thế. Tình cờ ngồi cạnh Th., một học sinh tôi mới dạy cách đây 2 năm, đang học tại Đại học Huế. Thưa thầy. Xe chạy bon bon trong một sớm mùa xuân đẹp. Mọi nhà mọi người còn đang yên ngủ. Đến cầu Lăng Cô, lính gác chận lại, buộc quay về. Đang đánh nhau to trên đèo Hải Vân, nhiều cầu đã bị mìn giựt sập, nhiều đoạn đường đang có giao tranh. Mọi người theo xe quay về Huế hết. Th. rủ: thầy và em đi bộ vào thầy, trở lại làm chi. Nhận lời liền không chút đắn đo. Hai thầy trò đi nép vào thành núi, tiến dần lên cao, nhiều lúc phải nằm mọp xuống các tảng đá ven núi, Mỹ đang pháo kích tưng bừng, đạn kêu chíu chíu trên đầu. Đi rồi dừng, dừng rồi đi. Càng lên cao, sương càng đậm, hơi lạnh tê buốt xương. Một buổi sáng mùa xuân đặc biệt của đời ! Đến trưa, bụng đói, các hàng quán thường ngày ven các vách núi đều đóng cửa nghỉ đón xuân cả. Th. lấy mấy cái bánh in mang theo trong người, hai thầy trò đứng dựa vào vách núi chia nhau ăn, vừa nhai vừa tâm sự. Lần đầu tiên đi bộ qua đèo Hải Vân, tưởng là gần, thế mà đi từ mửng sáng đến tối mịt mới đến chân đèo bên kia. Qua đỉnh đèo, thấy xác lính du kích, lính quốc gia sắp nằm 2 hàng. Các lô cốt ngày thường kiên cố là thế, hồi khuya đã bị B40 cày tan nát. Đến bến xe Liên Chiểu, hai thầy trò chia tay nhau, leo lên xe lam, ai về nhà nấy. Đó là cái Tết nhớ đời của tôi ! Nếu không nghe theo lời rủ của Th. mà quay lại Huế thì tôi đi đong rồi ! Đêm mồng một Tết ấy, quê tôi Vỹ Dạ tràn ngập quân du kích, sau một thời gian chiếm đóng lâu dài phải rút đi, những trai tráng trong vùng đều bị dẫn đi cả. Biệt tích luôn. Sau này, trong một lần từ Huế vào thăm nhà, xe Th. đi bị rớt xuống đèo, Th. chết khi đang học năm 4 đại học, sắp ra trường. Lần đó, có cả Th., một cô học trò rất ngoan rất xinh học cùng lớp với Th, đi cùng chuyến xe với Th., chết nữa. Nghe nói hai người đang yêu nhau, không biết phải không ! Sau này, mỗi lần đi qua đèo Hải Vân, tôi đều nhớ đến Th

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 4/10 – Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) (3/4)

Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) – Phần 3/4
3/. Thưa Thầy Còn Nhớ Con Không?
 
TranHoanTrinh_03A
 
Tôi xuống xe buýt từ đầu đường Nguyễn Tri Phương. Băng qua đường, đi lang thang dọc hè phố đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2). Nhìn vào khuôn viên trường Quốc Gia Hành Chánh cũ, tự nhiên nhớ bạn bè chi lạ. Những đêm Sài Gòn trước đây tôi hay vào Ký Túc Xá ở đây để thăm bạn, những thằng bạn nuôi mộng ra trường sẽ làm to, ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ. Tỉnh trưởng, phó Tỉnh trưởng, Quận trưởng… Bây giờ tất cả chết chui chết dũi đâu cả rồi?!. Chỉ có tôi đang đi lang thang một mình ! Chiều thứ bảy người, xe đông đảo chi lạ. Dân Sài Gòn có cái quái: khi nào cũng lăng xăng, vội vàng, tất bật, đi như không cần nhìn lui, chạy xe như bị ma đuổi. Tôi hoà mình vào dòng người xuôi ngược đó, không mục đích. Đến ngã tư Trần Quốc Toản-Lê Văn Duyệt, một người đàn bà từ một quán bên đường đổ xô ra, đâm sầm vào tôi. Tôi tròn mắt, định lên tiếng cự nự, nhưng ngừng kịp trước giọng hốt hoảng bàng hoàng của người đàn bà:
– Thầy T., phải thầy TĐT không?
Tôi chỉ kịp gật đầu xác nhận thì đã bị người đàn bà ôm chầm lấy, nức nở:
– Thầy ơi ! Thầy có nhớ em không ? Em là X…, trước học với thầy tại PCT, thầy vừa dạy Toán, vừa làm Giáo Sư Hướng Dẫn. Thầy ơi ! Bây giờ tóc thầy bạc phơ đến thế này sao ? Thầy còn dạy không? Học trò bây giờ thế nào ? Trường mình có gì thay đổi không ? Thầy Tr., thầy Q., cô L, cô Đ thế nào ? Thầy có hay gặp con L., con Y., thằng B, thằng V. không ? Bọn nó có hay đến thăm thầy không ? Cây phượng bên góc sân còn không, cây xà cừ giữa sân có còn đó không,… Người đàn bà nói một thôi một hồi, như sợ ai cướp lời, như sợ không nói hết ý. Hai tay cứ nắm chặt tay tôi, đầu gục vào vai tôi, những giọt nước mắt chân thành nóng hổi làm đẩm ướt cả áo. Mặc những người qua đường nhìn kinh ngạc, tò mò, người học trò cứ thao thao bất tuyệt. Cảnh trường, cảnh lớp, thầy cô bạn bè của gần 40 năm trước được nhắc đến một cách thiết tha, sống động. Chiều đã tàn dần, thành phố đã vào đêm, đèn đường đèn các cửa hiệu đã bật sáng, nhưng hai thầy trò có biết gì đâu, cứ mãi say sưa với những kỷ niệm cũ của một thời thanh xuân xa lăn lắc. Thật ra chỉ một mình người học trò nói, tôi chỉ lặng im nghe, im lặng nhìn, không dám động mạnh, sợ làm tan đi những mộng đẹp một thời của người học trò mà tôi chợt nhớ ngày xưa nổi tiếng là đẹp. Bây giờ, da sạm đen, tóc tai rối bời, vẻ phong trần dày dạn trên khuôn mặt đã về chiều, nếu không được giới thiệu tôi đâu có nhận ra được. Đường sá đã thưa thớt xe cộ. Gió thổi rung những cây cổ thụ bên đường làm những chiếc lá nhỏ rụng bay bay, rơi đầy trên tóc, trên vai hai thầy trò, rơi đầy huyền ảo trong đôi mắt ngấn lệ. Chào ra về, đi một quãng xa, tôi mới chợt nhớ quên chưa hỏi ngừời học trò bây giờ làm gì, ở đâu, đã có chồng con chưa…. Đêm ấy thao thức mãi chẳng ngủ được. Tiếng gọi “Thầy ơi” như nức nở như ngậm ngùi vẫn còn thoang thoáng bên tai. Tôi vùng dậy, viết một mạch bài thơ: ”Thưa Thầy Còn Nhớ Con Không?” Đọc đi đọc lại, lòng cứ bâng khuâng xao xuyến:
”Thưa Thầy Còn Nhớ Con Không?”
Chiều hôm nay dừng bước bên đường
Tôi gặp lại người học trò 30 năm trước
Người học trò không thể nào nhận ra được
Những bon chen nghiệt ngã đời thường
Đã biến đổi một nữ sinh đẹp đẽ dễ thương
Thành một người đàn bà luống tuổi phong sương
Dẫu son phấn cũng không che nổi
Mắt mệt mỏi quầng thâm
Nét tàn phai xuân sắc
Tôi lặng yên lòng thấy ngậm ngùi
Khi người học trò bật tiếng reo vui:
Thưa thầy còn nhớ con không ?
Chiều hôm nay đứng giữa phố đông
Em đưa tôi về thời gian 30 năm trước
Những kỷ niệm vui buồn
Những yêu thương thắm thiết
Những âm thầm xưa chưa nói được
Những giờ chơi giờ học sáng chiều
Những điểm mười sung sướng bao nhiêu
Những điểm không âm thầm hờn tủi
Cây phượng đỏ ngày xưa còn bên cửa lớp ?
Hoa rụng bay bay vào giữa bàn thầy
Con bướm vàng lang thang sân chơi
Hàng cổ thụ trời mưa trút lá
Tiếng trống trường ngày nào giục giã
Có còn không như thuở em đi ?
Bạn bè ai có hẹn nhau về ?
Thưa thầy còn nhớ con không ?
Người thầy già cũng mãi long đong
Lo sốt vó cuộc đời cơm áo
Ngày đứng lớp
Tối về nhà bán chữ
Ngữa tay thu tiền từng đứa học trò
Đạo đức thánh hiền bôi trấu trát tro
Đêm thao thức vắt tay qua trán
Tình với nghĩa sông khô biển cạn
Đã tàn phai theo năm tháng đổi thay
Đứng trước bảng đen tỉnh tỉnh say say
Thân thế đó ba chìm bảy nổi
Lòng thầy cứ ngổn ngang trăm mối.
Thưa thầy còn nhớ con không ?
Chiều hôm nay đứng giữa phố đông
Có hai thầy trò ôm nhau mừng mừng tủi tủi
Tóc thầy trò cả hai đều bạc
Trong tao phùng chợt thấy thanh xuân
Giữa phố người qua kẻ lại chen chân
Em đưa tôi về ngôi trường mái ấm
Ở nơi đó ân tình rất đậm
Thầy khoan dung độ lượng vô bờ
Trò ngoan hiền đùa giỡn vô tư
Mỗi giờ học là thiên đường dịu mát
Mỗi lời nói đều yêu thương rất mực
Mỗi mắt nhìn trìu mến vô cùng
Ngôi trường là thánh địa tuổi xuân.
Thưa thầy còn nhớ con không ?
Chiều hôm nay em như cơn mưa giông
Tưới mát tâm hồn thầy nứt nẻ
Người học trò như xa thuở trẻ
Gặp hôm nay bỗng thấy rất gần
Lòng thầy già như được hồi sinh !

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 5/10 – Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) (4/4)

Một Đời Thầy Đất Quảng (Trần Hoan Trinh) – Phần 4/4
 
4/. Chuyện Một Người Học Trò Con Gái
BoTruongMaDi_02A
 
Tôi không nhớ rõ đó là vào năm 1976 hay 1977. Đứng dạy trong lớp, phòng học thuộc tầng trệt nhìn ra đường Lê Lợi, tôi hay thấy có một cô nữ sinh lấp ló bên cổng, đi qua đi lại, ngập ngừng như muốn vào trường rồi lại thôi, rồi cúi đầu đi thẳng… Dáng cao cao, ốm nhom ốm nhách, chiếc áo trắng đơn sơ, xơ xác, luộm thuộm. Khuôn mặt xương xương, đôi mắt xa vắng, đôi tay đôi chân dài khẳng khiu, tóc kẹp thả dài sau lưng.
 
Rồi một hôm, cô gái như bạo dạn hẳn lên, đi nhanh vào cánh cổng nhỏ luôn luôn được mở rộng của trường. Đứng vin tay vào cây xà cừ này một chút, lại đến tựa vào cây xà cừ khác. Có lần tôi thấy cô gục mặt vào tượng cụ Phan, thầm thì gì đó. Lang thang lẩn thẩn bậc thềm này, gốc cây nọ hoài như vậy. Như một bóng ma, như luyến lưu, như bịn rịn. Từ bục giảng, tôi bước vội ra hành lang. Tôi đã nhận ra cô học trò cũ của mình ngày nào: Nguyễn Thị X. A, học rất giỏi, rất hiền từ, rất lễ phép, rất chịu khó và hay đau ốm. Thấy tôi ra đứng bên hành lang, cô học trò ngẩng lẽn nhìn, rồi hấp tấp cúi mặt, hình như muốn chạy tới, nhưng hình như cũng muốn chạy lui. Bỗng cô hấp tấp chen mình ra khỏi cổng, thất thểu đi thẳng. Sáng hôm sau, tôi vẫn dạy ở lớp đó. Mãi say sưa với bài giảng của mình, bỗng nghe tiếng “lóc cóc“ gõ cửa. Tôi nhìn ra: cô học trò cũ đứng bên cửa lớp từ lúc nào, đang nhìn tôi trìu mến. Vẫn chiếc áo trắng gầy mong manh, xơ xác, khuôn mặt bơ phờ, nước da xanh tái, vẫn lọn tóc buộc kẹp thả dài sau lưng mảnh khảnh…
 
Cô học trò cúi đầu chào tôi: Em chào thầy. Thầy mạnh khỏe không ? Tôi chưa có phản ứng gì cả thì cô học trò đã xông vào lớp, ôm lấy đôi vai tôi, rồi quay về phía học trò, dõng dạc: “Thầy cũ của Chị đây. Thầy dạy chị năm Đệ Nhị B, cách đây 10 năm rồi đó. Các em có phúc lắm mới được học thầy hôm nay” (Xin được ghi nguyên văn câu nói của cô học trò). Nói chưa xong, cô học trò đã nghẹn ngào nức nở. Hai hàng nước mắt chảy tràn lan, ướt nhoè 2 gò má nhô cao, xương xẩu. Tôi cầm đôi tay cô học trò cũ, bóp chặc như an ủi, như chia sẻ, cảm thông. Tôi thấy người cô học trò cứ run lên, nghẹn ngào, xúc động. Tôi cầm tay cô dẫn dần ra phía hành lang, không muốn để cô xúc động quá trớn trước mặt những học trò mới. Tôi hỏi:
– Bây giờ em làm gì ? Học Đại học ngành nào ? Đã tốt nghiệp chưa ?
Không nói gì cả, cô học trò chỉ nhìn tôi, lắc đầu.
– Em tưởng thầy đi đâu rồi, thế mà thầy vẫn ở đây. Thầy gắng giữ gìn sức khoẻ thầy nghe.
 
Đưa tay gạt vội 2 dòng nước mắt lần nữa đang lăn tròn trên má, cô học trò cúi đầu chào tôi, bước vội xuống tầng cấp, ngang qua sân trường, băng mình ra khỏi cổng. Tôi định gọi lại, nhưng chợt nghĩ: thôi để xúc động của người học trò qua đi. Gặp lần sau sẽ hay. Vào lại bên bục giảng, tâm hồn tôi cứ phiêu bạt đâu đâu, không làm sao tập trung lại được với bài giảng. Tôi ra cho lớp một bài toán nhỏ, bảo ngồi soạn, rồi miên man suy nghĩ. Tôi nhớ cô học trò này trước làm trưởng lớp, lớp phần nhiều là nữ sinh, tôi còn nhớ họ tên nhiều em lớp này: Đoàn Thị Đ., Lê Thị Th. S., Trịnh Thị Q., Ngô Thị Ph. H., Trần Thị Th., Nguyễn Thị H., Lê Thị C. L., Lâm Thị V., Hồ Thị T.H., Nguyễn Thị M.N., Phạm Thị Y., … X. học giỏi lắm, giỏi lắm, mấy lần tôi đã phê điểm Toán 20, giao làm “sơ mi“ những Kỳ thi Lục Cá Nguyệt, đã một lần cuối năm được trường trao “Phần thưởng của Tổng Thống“. Con nhà gia giáo, sống rất bình dị, đạm bạc. Sức khoẻ yếu. Tôi chợt nhớ cách đây mấy năm, một người học trò đến thăm có báo với tôi: NTX bỏ học rồi, hình như học quá nên thành điên, bây giờ cả ngày chỉ đi lang thang thơ thẩn…. Tôi nhớ lòng định nhờ chở đi tìm thăm X nhưng bận bịu lung tung rồi thôi. Bây giờ tình cờ gặp X đó, bao nhiêu hình ảnh cũ hiện về, ngậm ngùi, thao thức …..
 
Kể từ hôm đó, tôi cứ mong ngóng X một lần trở lại thăm trường như hôm nào, nhưng không bao giờ X trở lại nữa. X đi biệt, hiện ra một thoáng rồi như tan biến mù tăm. Thời gian sau, tôi được tin X chết rồi, chết trong một nhà thương điên nhỏ tại Nha Trang (?).
Hình ảnh X với hai hàng nước mắt dầm dề, cầm tay tôi, đứng trước lớp, giới thiệu: “thầy của Chị đây“, vẫn còn mãi mãi trước mắt tôi, trong hồn tôi!
 
5/. Một lần nóng tính
Tôi đến dạy đây năm 21 tuồi, cái tuổi chưa đủ chửng chạc để làm một ông thầy của các lớp Đệ Nhị cấp, học giỏi, năng động, đầy tài trí, thông minh. Tôi cũng biết mình còn quá trẻ để làm thầy, vì vậy thuở mới đi dạy, nhiều khi làm mặt nghiêm, ra vẻ quan trọng, làm bộ làm tịch để chứng tỏ vai thế của mình, để che lấp những non nớt của mình trước mắt đám học trò luôn luôn rình rập để phê phán. Trong thâm tâm, tôi vẫn luôn coi trọng đám học sinh của mình, luôn luôn muốn hòa đồng với các em, muốn cùng các em chia sẻ vui buồn của cuộc sống. Học sinh giỏi, học sinh kém, học sinh ngoan, học sinh bướng bỉnh, tất cả tôi đều thương yêu như nhau, đều có hình ảnh bình đẳng trong lòng tôi. Kinh nghiệm cho tôi biết là những em hoang nghịch, những em cá biệt lại là những học sinh có tình cảm đong đầy nhất, là những học sinh nhớ thầy cô của mình một cách dai dẳng nhất. Có nhiều em để lại trong tôi những ấn tượng khó quên. Thưở trai trẻ tôi cũng có những chướng tính kỳ quặc, hồ đồ, bất công, tôi không hiểu sao các em lại chịu đựng được,không lần phản ứng. Có lần, không kềm chế được sự nóng nảy của mình, tôi đã bạt tai một em học sinh nghịch ngợm, em Ph., lấy phấn ném lên người bạn đang làm bài trên bảng, có tôi đứng cạnh. Cái bạt tai hình như quá mạnh, tôi thấy Ph. lặng đi, choáng váng.
Niềm hối hận chợt tràn ngập trong lòng ! Tôi lẳng lặng ra hành lang đứng cho tâm hồn yên tỉnh trở lại. Thú thật tôi muốn quay vào lớp để ôm Ph. trong tay, để xin lỗi Ph. Nỗi tự ái níu chân lại đó thôi. Đêm về, tôi cứ lo nghĩ không biết Ph. thế nào, có ảnh hưởng đến sức khoẻ gì không, có học hành được không, hết choáng váng chưa ? Các ngày kế đó, mặc dù không có giờ dạy, tôi cũng đi ngang lớp, nhìn thoáng qua chỗ Ph. ngồi, thấy Ph. đang đùa giỡn nói cười với bạn bè tôi mới yên tâm.
 
6/. Mê Thi Đại Học
Một lần tôi dạy tại một lớp 12 nổi tiếng học yếu. Chiều ấy, tôi giảng phương pháp tìm giao điểm của hai đồ thị. Thí dụ 1, thí dụ 2, rồi thí dụ 3. Nói khô cả cổ nhưng vẫn thấy học sinh mình không nắm được vấn đề bao nhiêu cả. Đang bực mình, nhìn xuống cuối lớp, thấy Tr., một học sinh nhác nhất lớp, kém nhất lớp, đang say sưa đọc gì đó giấu dưới hộc bàn, đôi mắt sáng long lanh, miệng cười chúm chím thích thú. Tôi vứt phấn, lặng lẽ đi xuống đứng bên Tr.. Cả lớp bỗng im lặng, 50 cặp mắt nhìn theo, hồi hộp. Tr. đang đọc “Hướng Dẫn Dự Thi Đại Học“ ! Tôi bỗng nỗi đoá lên, giật lấy cuốn sách, định la hét, định mắng mỏ, định đay nghiến: “Tướng em đậu Tốt nghiệp đã được chưa mà mơ chuyện thi Đại học ? Học như mèo cào chó cắn mà cũng mong Đại học ! Không biết xấu ! Không biết thẹn ! Đồ ngu như bò !“. May sao tôi kìm lại được ! Lời chưa thoát ra khỏi miệng đã tan biến. Nhìn hai má Tr. ửng hồng lên, nhìn vẻ thẹn thẹn, chịu đựng của cô học trò nhỏ lòng tôi bỗng dưng se lại. Tại sao mình lại cấm học sinh của mình mơ ước ? Đậu vào Đại học bây giờ là niềm mơ ước của tất cả tuổi trẻ, của tất cả ai đang ngồi học tại trường phổ thông. Ước mơ đó là niềm hạnh phúc, là đam mê, là khát khao, là hoài vọng tột cùng. Hãy để các em mơ ước. Đâu phải ước mơ nào cũng thực hiện được cả đâu? Nhưng mơ ước nào lại không đẹp ! Lòng tôi bỗng dưng dịu lại, tự dưng thấy ân hận như mình đã phạm một lỗi lầm gì đó. Kinh nghiệm nóng tính lần này làm thầy luôn giữ mình điềm tĩnh.
Kỷ niệm về một đời dạy học tại Đất Quảng của tôi còn nhiều, nhiều lắm. Nhưng thôi !
  1. Bỏ Trường Mà Đi
Ngày nghỉ hưu, một chiều buồn, tôi lang thang đến thăm trường PCT. Ngồi trên chiếc ghế dài học sinh kê cạnh Phòng Hội Đồng Giáo Sư, nhìn sân trường nhạt nắng, nhìn hàng cây rụng lá, nghe thoảng thoảng tiếng giảng bài từ các phòng học kề bên, bỗng thấy cả một đời làm thầy của mình tại đất Quảng thoáng qua trước mặt như một giấc mộng, giấc mộng xa vời ! Một giấc mộng đẹp nhưng buồn hiu hắt ! Tôi đã sáng tác một mạch bài thơ “Bỏ Trường Mà Đi”, ngậm ngùi, tha thiết:
 
THƠ: Bỏ Trường Mà Đi
 
Ta đến khi tóc xanh
Ta về khi tóc bạc
Này, mai trên trường xưa
Có một người thiếu mặt !
Ta đến hồn như trăng
Ta về lòng như suối
Cây sao già trên sân
Ngươi thua ta một tuổi !
Bước đi trên hành lang
Bước đi trong lớp học
Cộng lại bằng con đường
Nối vòng quanh trái đất.
Ta đã nói triệu lời
Ta đã viết triệu câu
Bóng hình ta khắp nơi
Từng góc tường đóng bụi !
Ta lặng lẽ âm thầm
Bốn mươi năm cửa lớp
Còn gì cho ta đây
Những ngày dài cỏ mục ?
Tiễn ta về hôm nay
Hàng cây xanh cúi mặt
Gốc phượng hồng ngẩn ngơ
Học trò thì đâu mất !
Ơi tượng đồng lặng câm
Người có buồn khi mất
Một hình bóng thiết thân
Vẫn bên người son sắt!
Ơi phấn trắng bảng đen
Thôi cũng đành vĩnh biệt
Rồi năm tháng cuối đời
Chắc nhớ ngươi tha thiết !
Mai có ai khóc ta
Khi về thăm trường cũ
Cứ nhìn mây lưng trời
Lắng tai nghe gió thổi.
Ta đến khi tóc xanh
Ta về tóc đã bạc !
Đóa hồng nào cho ta
Sao đóa hồng tím ngắt!
 
Trần Hoan Trinh (trích Hồi ký: Một Đời Thầy Một Đời Thơ)

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 6/10 – Một Kỷ Niệm với Thầy Trần Đại Tăng (Nguyễn Hữu Hùng)

Một Kỷ Niệm với Thầy Trần Đại Tăng (Nguyễn Hữu Hùng)

motkyniemvoithaytrandaitang
BBT. Bài đã được đăng vào Blog ngày 07.09.2012, nay xin đăng lại… để nhắc nhớ về một người Thầy đáng kính vừa mới ra đi.
 
***
Trong ngôn ngữ Toán học của thầy Trần Đại Tăng không có ‘đúng hay sai‘ mà chỉ có ‘ĐÚNG VÀ NGUỘI ĐIỆN‘, làm sai là nguội điện, làm đúng mà chậm cũng nguội điện, để diễn tả một bài toán dễ thầy Tăng nói : ‘dễ như ăn ớt‘. Mời các bạn theo dõi một lớp Toán của Giáo Sư Trần Đại Tăng.
Năm lớp 11 tôi học lớp toán ban đêm với thầy Tăng tại trường Phan Thanh Giản, hôm đó thầy dạy giải các phương trình lượng giác :
Giải phương trình : sin 2x = sin x (x thuộc về tập hợp các số thực).
Thầy nói, ta sử dụng công thức nhân đôi, sin 2x = 2 sin x cos x, sau đó ta đem tất cả về 1 vế và đặt thành thừa số chung.
sin x (2 cos x – 1) = 0 . Do đó, ta phải giải 2 phương trình sinx = 0 và cos x = ½.
Thầy nói tiếp, thay vì đem tất cả về 1 vế và đặt thành thừa số chung, trò nào đơn giản 2 bên cho sin x thì kể như ‘NGUỘI ĐIỆN‘ vì trò đó đã bỏ qua phương trình sin x = 0, hệ quả là: “Thi hỏng tú tài, ta đợi ngày đi, đau lòng ta muốn khóc.”
Sau đó thầy nhìn cả lớp và thầy chỉ một trò trông có vẻ khờ khờ, dốt dốt (hình như trò đó là tôi, Nguyễn Hữu Hùng, học sinh lớp 11B2 PCT), thầy hỏi :
– Cậu hãy giải thích ‘Ý nghĩa Hình Học của các nghiệm số của phương trình nêu trên sin 2x = sin x.‘
Trò đó trả lời không được, thầy nói : KỂ NHƯ NGUỘI ĐIỆN.
Sau đó thầy chỉ một em gái hậu phương, không hiểu em nầy con cái nhà ai mà giỏi quá chừng, em trả lời :
– Thưa thầy, các nghiệm số của phương trình sin 2x = sin x chính là các tọa độ của các giao điểm giữa 2 đồ thị của hàm số y= sin 2x và hàm số y = sin x.
Thầy tuyên bố : Chính xác 100 %, dễ như ăn ớt và thầy lấy tay rờ cằm (thầy không có râu) và nở một nụ cười rất có duyên, lúc đó trông thầy đẹp trai hết sức.
Nguyễn Hữu Hùng

Thơ: Chuyện Tình Học Trò (Trần Hoan Trinh)

Chuyện Tình Học Trò (Trần Hoan Trinh)

ChuyenTinhHocTroA
 
BBT. Bắt đầu làm thơ từ năm 1952 đến ngày từ giã cõi trần, thi sĩ Trần Hoan Trinh (nhà giáo Trần Đại Tăng) đã trải qua trên 60 năm thơ và với 40 năm dạy học, Thầy đã sáng tác rất nhiều bài thơ với nhiều thi tập đã phát hành, tiêu biểu: “Bỏ Trường Mà Đi” (in năm 1997), “Tóc Trắng Sân Trường” (NXB Trẻ in năm 1997), “Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp” (NXB Trẻ in năm 2002), “Tuyển Tập Thơ Trần Hoan Trinh” (in năm 2002), “Cháy Bỏng Như Lửa Mặt Trời” gồm 3 thi phẩm: 1. Quê Hương Thơ Và Em; 2. Cháy Bỏng Như Lửa Mặt Trời; và 3. Bỗng Dưng Nhớ Phố Nhớ Phường” (NXB Văn Học in năm 2013)…
Thầy là người nặng tình thâm sâu với nghề nghiệp, học trò, đồng nghiệp, quê hương đất nước… nên thơ của Thầy trong suốt hơn 60 năm qua vẫn không đi ngoài chủ đề: tình nghĩa thầy trò, tình yêu tuổi học trò, trường xưa kỷ niệm, đồng nghiệp, cuộc đời, thân phận, quê hương đất nước… Thơ của Thầy đã được các Trang Mạng (Net) của các Cựu Học Sinh các trường Quảng Nam-Đà Nẵng đăng lại rất nhiều, BBT Blog xin được trích đăng tải một số bài tiêu biểu…
 
Chuyện Tình Học Trò (Trần Hoan Trinh)
 
Em nghiêng nón qua cầu cho mưa ướt
Anh một mình đứng góc phố làm thơ (Trần Hoan Trinh)
***
Năm học ấy em bước chân vào lớp
Chào thầy xong đi vội vã đến bàn
Có người thấy cả hồn mình choáng ngợp
Như bất ngờ chìm đắm giữa hào quang.
Em e thẹn ngỡ ngàng nhìn xuống lớp
Mắt to đen và đôi má ửng hồng
Bàn tay ngọc vô tình đưa vuốt tóc
Gió bềnh bồng trên hai áng mi cong.
Em nhẹ nhàng mở cặp vở học sinh
Dáng ngây thơ và hồn nhiên đến lạ
Tà áo trắng khép đôi chân bé nhỏ
Vòng lưng thon mềm mại đẹp hiền hoà.
Buổi học chiều tiếng thầy giảng thiết tha
Lo mơ mộng có học hành chi được!
Cứ mãi mê nhìn em ngồi phía trước
Tóc dài đen xõa kín cả bờ vai.
Thầy gọi em lên bảng sửa bài
Bỗng cuống quít như tên mình thầy gọi
Theo từng chữ từng lời em nói
Phấn tay em mà tay ai lại run run.
Em quay lui có bắt gặp mắt ai không
Đang ngây dại ngắm nhìn em say đắm
Em mỉm cười rạng ngời ánh sáng
Đẹp vô cùng như một đoá quỳnh dung.
……Rồi si mê đến hết mùa đông
Cả mùa xuân và mùa hè năm ấy
Lòng ấp ủ một tình yêu bỏng cháy
Giữa trần gian như có một thiên đường.
Mùa thu sau em không trở lại trường
Cả mùa thu sau và mùa thu sau nữa
Để một người cứ mỏi mòn trông đợi
Cây phượng già bên cổng cũng bâng khuâng.
Em có bao giờ nhớ lớp xưa không?
Nhớ bạn nhớ thầy nhớ bàn nhớ ghế
Nhớ sớm mưa giăng nhớ chiều nắng xế
Nhớ sân trường áo lụa trắng bay bay.
Có bao giờ em nhớ tay trong tay
Chạy nhảy tung tăn nói cười ríu rít
Nhớ những bài thơ tình thắm thiết
Trên hành lang đứng viết tặng nhau?
….Và thế đó một mối tình đầu
Đành câm lặng theo thời gian khép kín
Nhưng xa cách dẫu đầu sông cuối biển
Tận đáy lòng họ vẫn nhớ đến nhau.
Mối tình học trò nào có chi đâu
Nhưng bất tử và muôn năm vẫn mới
Gặp một lần nhưng một đời chờ đợi!
Và vấn vương cho đến phút tàn hơi!
Mối tình học trò đẹp như ánh mặt trời!
 
Trần Hoan Trinh

Thơ: Cảm Tạ (Trần Hoan Trinh)

Cảm Tạ (Trần Hoan Trinh)

CamTa-A
 
Cám ơn bình minh vẫn lảnh lót tiếng chim
Dù đêm tối đã phong ba bão tố
Chim nhảy nhót chân chuyền cành tìm tổ
Tiếng oanh vàng cao vút tận trời xanh.
Cám ơn sông mãi mãi xanh trong
Muôn thuở lặng lờ soi bóng trăng
Một con thuyền tình neo bến mộng
Thoang thoảng trong sương tiếng nguyệt cầm.
Cám ơn đêm đã cho ngọn lửa hồng
Cháy bập bùng ấm áp mùa đông
Cho quê hương chẳng còn tăm tối
Cho trẻ thơ ngủ trọn giấc nồng.
Cám ơn đời có những bản tình ca
Ve vuốt cho lòng bao thiết tha
Thổn thức ngọt ngào bâng khuâng mơ mộng
Cho cả trăm năm bỗng đậm đà.
Cám ơn hoa nở ngát bốn mùa
Đem sắc đem hương tặng cho đời
Hồng đỏ cúc vàng lan huệ tím
Như một bức tranh đẹp tuyệt vời.
Cám ơn em! Cám ơn người!
Cho ta sống giữa trần gian thật đẹp
Trời rộng bao la cỏ cây xanh biếc
Am thanh đầy và ngan ngát hương hoa.
Cám ơn người! Cám ơn ta!
Đã sống hết một cuộc đời đáng sống
Trăng ngọc nắng hồng gió mây lồng lộng
Hương sắc nhiệm mầu và tình ái ngất ngây.
Em này em nghĩa nặng tình đầy.
 
Trần Hoan Trinh

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 7/10 – Trần Hoan Trinh, thi sĩ của sân trường (Phan Thái Yên)

Trần Hoan Trinh, thi sĩ của sân trường (Phan Thái Yên)

THT-thisicuasantruong
“40 năm…
Một thời gian quá dài. Nhưng cũng quá ngắn. Bao nhiêu hạnh ngộ. Bao nhiêu chia ly. Bao nhiêu ân tình. Bao nhiêu kỷ niệm… Lớp này đến, rồi đi. Lớp khác đến, rồi cũng đi. Để lại mình tôi với sân trường lá rụng, với hành lang dài ngút mắt. Cây xà cừ giữa sân ngày nào lớp tôi cố vấn trồng còn bé khẳng khiu, bây giờ cao vút, cành lá tỏa sum sê, che rợp cả một khoảng trời. Che kín sân trường. Che kín cả lòng tôi..”
Ông thầy dạy toán Trần Đại Tăng, thi sĩ Trần Hoan Trinh, trong lời bạt cho tập thơ Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp xuất bản gần đây, đã bâng khuâng viết ra tiếng thở dài trên.
40 năm. Một đời thầy, một đời thơ. Một sân trường. Biết bao tháng năm huyền thoại, biết bao chiều một mình sân trường, biết bao chuyện dâu biển đá vàng… Bao lớp học trò đã đi về phía đất trời biển lớn từ cổng trường Phan Châu Trinh thân yêu – đứa thành đứa bại. Bao lần thầy đứng lại giữa sân trường bên bức tượng đồng câm nín, thương nhớ bầy chim đã vỗ cánh bay xa để rồi bơ phờ nghĩ về đời mình làm người quẩn quanh bục giảng, tóc phấn bay đầy.
 
Học trò ra đi đứa đông đứa tây
Đứa mơ bên kia đứa mộng bên này
Tôi một mình bơ vơ cửa lớp
Mái tóc một chiều bổng trắng như mây… (Một đời thầy, một đời thơ)
Các em đi, các em đi biền biệt
Chiều sân trường lá cứ rụng xôn xao
Nghe có bước chân ai về cuối lớp
Thầy ngẩng lên đợi một tiếng chào! (Chiều một mình sân trường)
 
Ngày nghỉ hưu đầu tiên, đầu tháng 3 năm 98, giữa Sài Gòn ồn ào náo nhiệt, người thầy thi sĩ “bỏ trường mà đi” đã vội thấy lòng mình buồn chan chứa.
“…Trời về đêm đổ mưa. Vào trốn mưa dưới vòm hiên một tòa cao ốc. Nhìn những cột mưa hối hả, xiên xiên dưới ánh đèn, nhớ lại một đêm xa, rất xa, giã từ thành phố này để “Đi Xuống Cuộc Đời“. Ờ! Cũng một đêm Sài Gòn mưa như thế này tôi đã lên chuyến tàu suốt Sài Gòn – Đà Nẵng đến Phan châu Trinh nhận việc! Mới đó mà đã 40 năm. Thấy thời gian xa lăn lắc mà sao như mới đâu đây. Tạnh mưa, bước từng bước nhỏ trên mặt đường loang loáng nước, nghe tâm hồn dịu lại, lặng đi. Con đường Lê Văn Duyệt (nay là CMT 8) dài vô cùng, đêm nay càng thấy dài vô tận. Khu Bàu Cát mờ mờ trong đêm, đèn không đủ sáng. Đưa tay vuốt mái tóc sũng nước, bước vội lên cầu thang chung cư, nghe lòng mình sao điêu tàn quá đổi ! …
 
Tảng sáng hôm sau, túi xách trên vai, trở về lại Đà Nẵng.
Đêm đó, một mình đến trường, lách vào cánh cổng khép hờ, đứng tựa người vào tượng cụ Phan, nhìn sân trường lá rụng, nghe sân trường lá rụng. Gió lao xao. Cây lao xao. Cảnh vật như chia sẻ nỗi lòng với tôi. Tôi nhìn quanh. Sân trường vắng ngắt. Hành lang vắng ngắt. Học trò lớp này lớp khác đến đây rồi ra đi biền biệt, mê mãi với những chân trời góc bể mù tăm! Tôi dạy thế hệ cha mẹ, rồi dạy đến thế hệ con cái của họ. Hai thế hệ. Bao nhiêu cuộc đời! Bốn mươi năm mê mãi! Còn lại mình tôi ở đây với một tâm hồn trĩu nặng ưu tư, tóc bạc trắng phau phau và nỗi nhớ nhung dằn vặt…”
 
Đứa bé suốt ngày nô đùa, hái trái, thả diều, trên những cánh đồng làng Dương Nổ lớn lên… Quãng đường hơn mười cây số từ quê nội Phú Vang lên Huế đi ngang qua Vỹ Dạ nắng chiều đọng áo tơ bay hình như chưa dài đủ chiều thơ cho cậu học trò mới lớn nửa học nửa mơ. Rồi gả thư sinh mơ mộng trở thành thầy. Ngôi trường bên sông Hàn, bên kia đèo Hải Vân vời vợi mây bay, mười lần xa hơn quãng đường từ quê lên Huế, đã trở thành định mệnh của một kiếp người. Nơi tàng trữ một đời thơ của người thầy làm thi sĩ.
 
Khi anh đến tuổi còn rất trẻ
Hồn như mây và lòng sáng như trăng
Ngôi trường đó đón anh về như mẹ
Đón con yêu ở lại với mình (Tháng năm huyền thoại)
 
Giữa bỡ ngỡ của ngày đầu đi dạy và cơn mưa đêm Sài Gòn trong ngày đầu nghỉ hưu là luyến lưu bốn mươi năm sân trường. Hàng cây xà cừ lớn dần theo năm tháng, thả bóng mát ân cần xuống sân cát xám rộn rã tiếng nói cười của học trò giờ tan học. Bâng khuâng cánh phượng buông sắc thắm qua từng mùa hạ, lả tả rơi trên bãi sân trường hanh hao nỗi nhớ, râm rang tiếng ve gọi sầu lên. Tiếng trống tựu trường vọng động tâm tư, lãng đãng trên hàng cây sao, làm rụt rè bước chân lũ học trò mới ngơ ngác sân trường.
 
Ngôi trường đó là trong anh nỗi nhớ
Là trong em cả tuổi trẻ thiên thần
Là của em mộng mơ và sách vở
Là của anh những giờ dạy thiên đường. (Một thời Phan Châu Trinh)
Nên trường đó là đời anh tất cả
Là tim gan máu thịt của mình
Mai anh về xin làm con chim nhỏ
Đậu mái trường cất tiếng hát bình minh. (Tháng năm huyền thoại)
 
Trên con dốc thời gian cuồng quay từng mùa gió chướng, người thầy đã ở lại với sân trường thân yêu suốt một đời mình để ân cần chuyện gạn đục khơi trong và để làm thơ. Trần Hoan Trinh – người thi sĩ của muôn đời sân trường bóng lá. Những bài thơ được làm từ cửa lớp, trên bục giảng, lúc đứng lại giữa sân trường. Thơ thầy làm đằm thắm thêm bàn ghế học trò bé bỏng, cho trang giấy mới xôn xao giòng lưu bút lúc hè sang.
 
Thầy ở đó như một loài cổ thụ
Nhánh khô gầy thương nhớ chồi xanh
Em một thuở làm học trò bé bỏng
Bàn ghế kia thầy cúi xuống dỗ dành. (Chiều một mình sân trường)
Một chút buồn vương đôi mắt biếc
Chợt run run trong lời giảng của thầy
Bàn ghế cũ bỗng vô cùng thân thiết
Tiếng trống tan trường nghe đậm chia tay. (Buổi học cuối)
Có lần thầy tâm sự. “Đời sống mình đã có nhiều lần do học trò tạo ra…”.
 
Trong bóng mát sân trường, qúy phẩm tình yêu đã thăng hoa thành duyên số. Cô học trò ngoan đạo, giữa bước giáo đường mắt sáng niềm tin, đã khiến hồn thơ lạc đạo bay bổng theo tiếng chuông ngân, xao xuyến nụ hôn tình dài đủ trăm năm.
Bỗng thấy lòng mơ ước trăm năm
Tình yêu nhau đẹp như trăng rằm
Em muôn đời là vầng nguyệt bạch
Là giọt sương trời long lanh, long lanh… (Tân hôn)
 
Học trò ra đi đứa đông đứa tây. Đứa mơ bên kia đứa mộng bên này… Thế mà dọc theo dòng sinh mệnh đời mình, bóng dáng học trò đã đến với thầy Trần Đại Tăng vào những lúc không ngờ nhất. Không ngờ để mãi bâng khuâng về sự bí nhiệm của số phận. Và để không bao giờ ngờ vực tình nghĩa thầy trò trong sáng, yêu thương, bền bỉ, chẳng chút đắn đo…
 
Và như thế đời thơ bốn mươi năm đã trọn vẹn cùng sân trường với tất cả hạnh phúc, khổ đau, hi vọng, thất vọng của một kiếp người. Điều còn lại chỉ là số phận, lơ đãng khóc cười.
Biết bao lần từ bên trong cửa lớp, thầy băn khoăn nhìn tâm hồn mình bay xa khỏi sân trường, nơi ẩn cư đầu tiên và cuối cùng cho một đời thơ. Cánh lòng phân vân đậu lại trên những cam nhận đau lòng vì gió chướng vẫn hung tàn thổi qua từng mùa đất nước, tả tơi cơn mộng cũ ngày xanh.
 
Lúc còn trẻ đã mơ người hảo hán
Trên rừng xanh dựng một chiến hào
Anh hùng đó cạn bầu máu nóng
Gặp nhau rồi quên mất chuyện chiêm bao. (Cúi đầu)
 
Như ông thầy toán quy củ điềm đạm, thi sĩ Trần Hoan Trinh làm thơ từ tốn mà sâu sắc. Kẻ sĩ thì không cần cường điệu. Những cơn mưa miền Nam đến đi vội vã vào buổi chiều hình như đã giúp thầy có chút vui dễ dãi làm gã Don Quichotte tàng tàng đi xích lô dạo phố Sài Gòn. Về nằm lại bên hoàng thành chờ bóng trăng suông, bàng hoàng nghe tiếng tri âm ân cần khúc trầm ca. Chiều nay có ai về miền thùy dương… Trăng hoàng thành khiến thầy bâng khuâng nhớ tới người xưa mệnh nước. Nỗi nhớ đeo đẳng theo thầy ra tận đất kinh đô. Còn biết nói chi hơn?… Một người thầy, một người thơ và quyền lực cuối cùng của suy tưởng. Đứng bên bờ sông Hồng mà nhớ về sông Hương, lòng phân vân nỗi bắc-nam-ấm-lạnh, hiu hắt hỏi lòng chút niềm riêng nguồn cội ngay giữa đất nghìn năm. Hà Nội bận bịu với phồn hoa nên người vẫn vàng con mắt vô vọng kiếm tìm. Em là ai? Có phải em là cô gái hát quan họ Bắc Ninh bỏ tiếng trống cơm ngày hội, bỏ lại trăng rằm cho bơ vơ quãng dốc, đi về phía phồn hoa để rồi thất lạc trong ánh đèn màu bên bến nước Hồ Tây? Ngày xưa có một Thúy Kiều. Bây giờ có vạn Thúy Kiều đó em! Tố Như ơi! Dậy mà xem. Bao nhiêu nước mắt ướt mèm Lâm Truy. Người thi sĩ không đủ nước mắt để khóc cho vừa cuộc bể dâu mới, tang thương dột nát từng thân phận con người.
 
Ta ở miền Nam nắng chói chang
Về thăm phương Bắc lạnh vô cùng
Tìm em bên nước Hồ Tây ấy
Chỉ thấy đèn hoa sáng chập chùng…
Thương vô cùng xứ Huế bình yên
Hoàng thành lặng lẽ ánh trăng buông
Thèm nghe một điệu Nam bình qúa
Để giữa Thăng Long nhớ cội nguồn. (Giữa Hà Nội phồn hoa nhớ Huế)
 
Đã có lần đứng bên cửa lớp mơ màng về ngày tháng cũ, lòng thầy chợt hoang mang cảm thấy bơ vơ trót làm người chôn chân ở lại, quanh quẩn sân trường. Rồi một chiều người thi sĩ lạc lối xuân thì, âm thầm soi bóng mái tóc mình trắng phau trong giòng suối thời gian đang cuộn chảy những tàn phai. Cơn mộng ngày xanh úa tàn theo niềm tin yêu đang héo rũ bởi tình nghĩa bọt bèo, lăn lóc xa vời câu muối mặn gừng cay.
Bạn bè đó cứ dần dần phiêu bạt
Tôi bơ vơ bên lớp cũ trường xưa
Mái tóc xanh trong một chiều bất chợt
Trắng phau phau để xóa hết xuân thì. (Cúi đầu)
 
Nỗi nhớ phủ sân trường… Trong ý thơ đầm đìa những cảm xúc một thời, những tha thiết một thuở thầy đã viết lên lời từ giã cho dù vẫn còn đó nỗi buồn vì tiếng trống tựu trường vẫn vang vọng không đành.
Mình về bỏ đó chiêm bao
Không còn bụi phấn bám vào tóc sương
Áo em bay trắng đêm buồn
Tiếc ngơ ngẩn một thiên đường đã xa. (Còn đó nỗi buồn)
Xin gởi chút buồn vào mắt ai
Mai em về nhặt lấy hương phai
Em có qua trường nhìn hàng cây cũ
Hãy kiếm trên sân bóng một người… (Lời từ giã)
 
Hiện nay vợ chồng thầy Trần Đại Tăng tuy sống ở Sài Gòn cho gần con trai đầu và cô con gái út, vẫn luôn tìm dịp về thăm Đà Nẵng. Người con trai thứ theo nghiệp thầy đang dạy Toán tại một trường trung học ở Đà Nẵng. Sau đây là hai bài thơ mới nhất của thi sĩ Trần Hoan Trinh.
 
Huyền Trân
 
Ta đứng lại trên đỉnh đèo Hải Vân
Gió lộng trời cao đồi núi chập chùng
Nhìn về phương Nam non xanh nước biếc
Đồng lúa chín vàng nắng trãi mênh mông.
Khi nàng qua đây rừng còn hoang sơ
Kiệu hoa dừng nơi ta đứng bây giờ
Rét buốt biên cương, mịt mù cố xứ
Có tủi phận mình thân gái bơ vơ?
Ô, Lý hai châu đổi tấm thân này
Nhan sắc khuynh thành cũng đáng giá thay
Vạn vạn hùng binh ầm ầm mở cõi
Sao bằng chén tình dâng vua đêm nay.
Ta nhớ Huyền Trân, ta thương Huyền Trân
Công Chúa An-nam, Hoàng Hậu Chiêm Thành
Vì nước quên tình, tri âm lỗi hẹn
Cung lạnh âm thầm bên một Chế Mân
Ta thương Huyền Trân, ta nhớ Huyền Trân
Chiều nay ngẩn ngơ bên Cổ viện Chàm
Tượng đá lạnh lùng như thế đó
Chắc nhớ vô cùng Trần Khắc Chung.
Lại Nhớ Kinh Kha
 
– Tặng Ái Đa
Bỗng ngồi mơ trở lại tiền thân
Ta Kinh Kha một thuở sang Tần
Nước lạnh tê tê bờ Dịch Thuỷ
Vai áo khinh cừu vai kiếm cung
Đốt cháy Hàm Dương! Giết Thuỷ Hoàng!
Giữa triều đình văn võ bá quan
Gươm đưa một nhát tan hồn phách
Dao ngắn vung tay khiếp bạo tàn!
Đầu đã rơi mắt vẫn trợn trừng
Râu hùm dựng ngược nộ hôn quân
Anh hùng thất thế còn uy vũ
Xô ngã ngai vua, đổ bệ rồng
Tráng sĩ một đi đâu hẹn về
Buồn chi tiếng trúc Cao Tiệm Ly ?
Chỉ tiếc ân tình bàn tay ngọc
Ta phụ em rồi! ơi Yên phi!
Thành bại anh hùng ai luận đây
Công danh đâu phải chí Kha này!
Thế cờ chưa mãn mà tan cuộc
Ta nợ nhau thôi một chén đầy!
 
Phan Thái Yên

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 8/10 – Cùng Những Bài Thơ Tình Trong Lớp Học (Hà Khánh Quân)

Cùng Những Bài Thơ Tình Trong Lớp Học (Hà Khánh Quân)
nhungbaithotinh
Thú vị với cái tên đề mục “Tình Thơ Trong Cặp Thư Sinh”, bắt gặp trong tập Tình Xanh Mấy Nhánh của nhà thơ Lê Hân, tôi tìm đọc thêm những bài thơ tình viết cho học trò, viết trong tuổi học trò.  Gõ vào ô search của yahoo, của Google, tôi đến được rất nhiều trang thơ. Tôi cũng không quên mở những cánh cửa của những sân chơi, mang tên những ngôi trường danh tiếng một thời.
Thơ, văn, hình ảnh từ những trang kỷ niệm ấy, quả thật đã giúp tôi hồi xuân. Và cụ thể hơn, tôi đã biết và tìm đến cùng thi phẩm Bỏ Trường Mà Đi.
 
Trên thị trường chữ nghĩa, bạn đọc tại Việt Nam, hình như còn mặn nồng với thi ca. Tại hải ngoại, nghe đâu chuyện này rất bi đát. Có lẽ vì vậy, những tập thơ được in trong nước, không chịu tìm đường xuất cảnh. Thế nhưng Bỏ Trường Mà Đi, từ ngàn dặm xa, đã đến được với tôi trong vóc dáng lành lặn, hoàn hảo.
Cầm hai-trăm-năm-mươi trang thơ trên tay, chưa đọc, tôi đã thấy sung sướng. Lật qua lật lại, màu tím nhạt cùng hai bóng nón lá, áo dài, như kéo gần tôi lại với tháng ngày đã qua. Dù không vội vã khỏa lấp đi nỗi bồi hồi, tôi cũng lật từng trang.
 
Bỏ Trường Mà đi
thơ Trần Hoan Trinh
Trò Xưa thực hiện
 
Ba dòng trên mỗi dòng bốn chữ cũng bắt chợt thành thơ. Bạn không tin, mời đọc lại. Thơ hay không thơ nằm ngay trong lòng bạn. Với tôi, quả rất nồng nàn. Có chăng cảm nhận khởi từ một quen biết mơ hồ ?
Tác giả Trần Hoan Trinh, một tên gọi không lạ, dù tôi chưa được cái may mắn, tay bắt mặt mừng cùng anh một lần. Cần khai rõ và tin ngay, tác giả không là một học trò, mà là người chuyên đứng trên bục giảng. Bởi tôn trọng nội qui, tự đề ra khi viết bài, tôi đã vô phép gọi anh, thay vì gọi thầy hay ông cho phải phép. Thành thật xin lỗi.
 
Người thầy làm thơ này với tên căn cước: Trần Đại Tăng, một cái tên nghe rất giàu sức nặng. Nhưng vóc dáng xem ra cũng trung bình. Người tầm thước, không mập, không gầy, không giống Từ Hải, nhưng rất Kim Trọng. Anh được nảy mần từ đất kinh thành vua nhà Nguyễn, vào ngày 3 tháng 8 năm 1937, nhưng vào bén rễ, sinh sống trên lòng đất, quân Pháp bắn tiếng súng đích thực đầu tiên vào Việt Nam. Đây là bản lý lịch, anh quen tay, tự khai khá rõ:
 
“tôi lớn lên từ thằng bé con
cả ngày đi hoang trên những cánh đồng
hái trái, thả diều, bắn chim, bắt cá
đêm ngủ thấy mình cứ hóa tiên ông
tôi đổi thay làm đứa học trò
sách vở sớm chiều nửa học nửa mơ
lang thang phố phường tìm trăng đuổi bướm
để một đêm buồn bỗng ngồi làm thơ
rồi một ngày tôi trở thành thầy
đứng trước bảng đen, tóc phấn bay đầy
ngôi trường bình yên bên con sông nhỏ
giữa tiếng giảng bài nhiều khi ngất ngây…” (Một đời thầy, một đời thơ, trang 44)
 
Thật tuyệt vời, thật đồng dạng với nhiều “nam nhi chi chí” một thời. Bắn chim. thả diều, bắt cá… tuổi ấu thơ của những thằng bé con Việt Nam sao mà đẹp thế. Và cái tuổi nhỏ của nhà thơ sao na ná… hư, giống tôi. Vừa học lại vừa mơ chả trách gì lớn lên phải làm thơ… tán gái. Có chút khác chăng là ở chỗ, tôi cũng có một thời gian ngắn, đứng trên bục giảng, nhưng chỉ tìm thấy ngất ngư chớ không được ngất ngây. Có lẽ vì vậy, tôi bỏ nghề gõ đầu trẻ khá sớm. Nghiệm ra rằng, thiên chức cao quí này, không phải ai cũng hoàn thành và hoàn thành tốt một cách hoàn hảo. Trần Đại Tăng, ông thầy dạy toán trường Phan Châu Trinh, lừng danh một thời ở Đà Nẵng, trong một phút say thơ, đã thố lộ:
 
“cái bảng đen trước mặt
viên phấn nằm trên bàn
ngoài sân em xõa tóc
trên trời mây lang thang.
này các em các em
hàm số ấy đồng biến
con chim gì trên cây
tiếng ca, trời xao xuyến.
đoạn thẳng này thẳng góc
còn đoạn kia đoạn xiên
chiều qua người yêu khóc
mình nằm buồn cả đêm.
vòng tròn, ờ, vòng tròn
tròn như đôi mắt em
tròn như đôi mắt em
tròn như tình yêu em.
những đường cong đan nhau
những đường cong khép kín
kín như vòng tay anh
ôm trọn vòng lưng em …” (Dạy Toán, trang 32)
 
À ra thế. Đại số, hình học đâu có gì khô khan, đâu có gì mực thước. Vừa giảng bài vừa nhớ người yêu. Biết đâu người yêu ngồi ngay trước mặt. Biết đâu người yêu “ … đến lớp không thuộc bài/ bị điểm không trong sổ/ nước mắt cứ chảy dài”. Biết đâu người yêu “… sách vở lem luốt mực/ bài làm được gì đâu/ thường lặng thinh cắn bút”; biết đâu người yêu “… áo quần luôn xốc xếch/ thầy thương em trẻ con/ hay vò đầu vuốt tóc…”. (Ngày Xưa Ngày Nay, 58).
 
Từ tình thầy trò, bước qua tình yêu nam nữ, đâu có gì cách trở chia ngăn. Ranh giới đạo đức đông phương được tháo gỡ dễ dàng, nếu có chân tình. Đức tính này, có sẵn trong trái tim con người dạy toán biết làm thơ, Trần Đại Tăng. Bởi biết làm thơ, nên anh không thể không lãng mạn, vẩn vơ trước hình ảnh:
 
“… em cắn bút bâng quơ
tóc nghiêng bờ vai nhỏ
tiếng chim như hững hờ
mơn man làn môi đỏ.
trời bỗng dưng se lạnh
áo mỏng chừng phong phanh
tiếng chim theo chiếc lá
vừa nuối tiếc xa cành…” (Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp)
“cô học trò nho nhỏ
sáng đi học một mình
chân tung tăng đường cỏ
lòng rộn ràng tiếng chim.
cô học trò nho nhỏ
có má lúm đồng tiền
mơ màng bên cửa lớp
xinh như một nàng tiên.
cô học trò nho nhỏ
đôi mắt đẹp buồn buồn
môi như hoa hồng đỏ
trông sao mà dễ thương.
cô học trò nho nhỏ
mái tóc xõa dài dài
thả bay theo trời gió
cho sân trường liêu trai.
cô học trò nho nhỏ
chiều qua phố một mình
thương ai mà giận dỗi
cứ làm hoài mặt nghiêm…” (Cô Học Trò Nhỏ)
 
Cũng bởi biết làm thơ, nên tiếp tục không thể không trưng dụng cái lợi khí tay trái của mình, anh nhờ vần điệu tỏ tình:
“cô học trò nhỏ ơi
thơ tôi không đủ lời
em là vầng trăng tỏ
giữa mênh mông cuộc đời” (Cô Học Trò Nhỏ)
 
Lời tỏ tình kín đáo, nhưng đầy đủ, khôn khéo quá. Chính nhờ cái bóng gió của thơ, gói nửa kín, nửa hở lòng chân thật, nên cuối cùng đã góp thêm một ngày tuyệt vời vào kho tình nhân loại:
“…em nhớ nhiều
thầy có biết không
một hôm thấy thầy lang thang trên sân
em lên bàn thầy em tìm trong cặp
đọc bài thơ tình thầy mới viết xong
bài thơ tình đưa em vào đời
biết giận biết buồn từ đó thầy ơi
hết còn là cô học trò tinh nghịch
em lớn lên thành thiếu nữ mất rồi…” (Huyền Thoại, 29)
 
Cảm ơn những cô học trò đa tình, rộng lòng. Bằng những ánh mắt, những nụ cười hay đến cả những cái háy, cái nguýt, cái trề môi… cũng là những gợi mở cho các chàng si tình. Những cuộc tình học trò, kể cả những dấu yêu giữa thầy và trò, xưa nay vẫn là những cuộc tình đẹp. Nhà thơ Trần Hoan Trinh, có lẽ đã thi vị hóa những gì ông sở hữu, để gởi đến chúng ta bài thơ Chuyện Tình Học Trò:
 
“năm học ấy em bước chân vào lớp
chào thầy xong đi vội vã đến bàn
có người thấy cả hồn mình choáng ngợp
như bất ngờ chìm đắm giữa hào quang.
em e thẹn ngỡ ngàng nhìn xuống lớp
mắt to đen và đôi má ửng hồng
bàn tay ngọc vô tình đưa vuốt tóc
gió bềnh bồng trên hai áng mi cong.
em nhẹ nhàng mở cặp vở học sinh
dáng thơ ngây và hồn nhiên đến lạ
tà áo trắng khép đôi chân bé nhỏ
vòng lưng thon mềm mại đẹp hiền hòa.
buổi học chiều tiếng thầy giảng thiết tha
lơ mơ mộng có học hành chi được
cứ mải mê nhìn em ngồi phía trước
tóc dài đen xõa kín cả bờ vai.
thầy gọi em lên bảng sửa bài
bỗng cuống quít như tên mình thầy gọi
theo từng chữ từng lời em nói
phấn tay em mà tay ai lại run run.
ai quay lui có bắt gặp mắt ai không
đang ngây dại ngắm nhìn em say đắm
em mỉm cười rạng ngời ánh sáng
đẹp vô cùng như một đóa phù dung.
rồi si mê đến hết cả mùa đông
cả mùa xuân và mùa hè năm ấy
lòng ấp ủ một tình yêu bỏng cháy
giữa trần gian như có một thiên đường.
mùa thu sau em không trở lại trường
cả mùa thu sau mùa thu sau nữa
để một người cứ mỏi mòn chờ đợi
cây phượng dài bên cổng cũng bâng khuâng.
em có bao giờ nhớ lớp xưa không ?
nhớ bạn nhớ thầy nhớ bàn nhớ ghế
nhớ sớm mưa giăng, nhớ chiều nắng xế
nhớ sân trường áo lụa trắng bay bay.
có bao giờ em nhớ tay trong tay
chạy nhảy tung tăng, nói cười rối rít
nhớ những bài thơ tình thắm thiết
trên hành lang đứng viết tặng nhau.
và thế đó một mối tình đầu
đành câm lặng theo thời gian khép kín
nhưng xa cách dẫu đầu sông cuối biển
tận đáy lòng họ vẫn nhớ nhau.
mối tình học trò nào có gì đâu
nhưng bất tử và muôn năm vẫn mới
gặp một lần nhưng một đời chờ đợi
và vấn vương cho đến phút tàn hơi
mối tình học trò đẹp như ánh mặt trời. (trang 16)
 
Cô học trò trong bài thơ là ai ?, tôi không còn nhớ. Nhưng cái cậu chợt giật mình tưởng như bị thầy gọi tên, và run vì những bụi phấn tay người, quả đúng là… tôi. Cũng đúng là bạn nữa, những cậu choai choai một thời trung học. Nhà thơ Trần Hoan Trinh chắc hẳn đã từng bước qua giai đoạn này, nên giải bày y như thật. Làm sao không thật được chứ, khi những rung động, những phút bất thần ‘yêu em là một tình cờ’ bao giờ cũng giống nhau.
 
“…bằng bước nai con, hồn bướm rừng
gặp mình tôi bỗng thấy mùa xuân
mình qua tôi cúi đầu không nói
để nhớ len vào buồn mênh mông” (Thỏ Thẻ)
 
Một người giàu thơ như Trần Hoan Trinh, đương nhiên phải dành cho người mình yêu, những cánh hoa tình thắm tươi nhất. Thật tình, nếu không có bài viết của Trò Xưa Phan Thu Hà, (một nhan sắc của Đà Nẵng ngày nào), đóng góp ở những trang cuối, tôi cũng không biết bài Phương Thơ đã có mặt từ lâu, và được dành tặng riêng em gái một người bạn cũ của tôi, anh Lê Thái Giá. Bóng hồng trong thơ cũng chính là nàng thơ, nàng tiên, của Trần Hoan Trinh. Trò Xưa Phan Thu Hà kể chuyện phát hiện ra nhân tình của ông thầy rất dí dỏm, gọn nhẹ:
 
“… Mùa thu hôm nay mây trắng bay mù
trong suối mắt mùa thu rất tím
xin để tôi về kết hương kỷ niệm
nhớ thương suông cho đến thuở bạc đầu. (Tạ Từ)
 
“… Từ ai đã cho nguồn cảm xúc diệu vợi khiến ông thầy toán của chúng ta ‘biến đổi được những định lý, định đề’ thành những vần thơ trên ?
Nhớ Đà Nẵng xưa, một ngày đầu thu, buổi mai trời chớm lạnh, lớp đệ nhị A gặp thầy và cô học trò hiền hiền của lớp trong hai chiếc áo laine mỏng, cùng kiểu và cùng một màu xanh lá cây nhạt, cho chúng tôi mường tượng đoán Phương Thơ của thầy từ đây:
Phương !
duyên tình diễm ảo
nét đoan trang băng trinh nếp áo
chim yêu trên khoé mắt thơ ngây.
Phương
đợi em đã lâu
dáng bồ liễu thanh thanh
vẻ trầm tư kín đáo
nét hoa cười tha thiết đượm trên môi” (Phương Thơ)
 
Đó chính là hình ảnh “nàng thơ” của thầy hay là Quý Phẩm của ”Một Thời Phan Châu Trinh….”
 
Quí phẩm ở đây là một Quý Phẩm có da thịt, có linh hồn. Còn những bài Thỏ Thẻ, Nao Nao, Tóc Thả Xuống Thành Thơ, v.v… hy vọng cũng khởi đi từ một dáng thanh xuân trong thơ Trần Hoan Trinh.
Trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, một ngôi trường có tầm vóc của miền Trung, nói riêng, của cả nước, nói chung. Dưới cái thanh thế lộng lẫy, uy nghi của một nhà cách mạng dân tộc, trường Phan Châu Trinh đã đào tạo được nhiều thế hệ thành đạt, hữu dụng cho tổ quốc. Tuyệt vời hơn nữa, từ vuông sân trường này những cuộc tình đẹp, nở hoa kết trái. Đã có rất nhiều cặp Thanh Thảo – Trương Duy Hy, Lê Qúy Phan Phẩm – Trần Đại Tăng… Dĩ nhiên cũng không thiếu những ngậm ngùi, chua xót đủ để cho đời một số nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ. Tôi rất thèm trích dẫn ra đây một số thơ văn tiêu biểu. Nhưng lại thôi, để xin lạc đề, cung kính cảm ơn thầy hiệu trưởng Nguyễn Đăng Ngọc, dưới bút hiệu Hoàng Nguyễn, đã tỏ lòng thương nhớ và ghi nhận sự trưởng thành của nhiều thế hệ học sinh Phan Châu Trinh, qua bài tâm tình cùng Những Người Bạn Trẻ (chắc quý bạn đã được đọc từ tạp chí Thế Kỷ 21)
 
Tôi đã lướt qua một số thơ tình lứa đôi trong Bỏ Trường Mà Đi, nhưng những cụm hoa đó, theo tôi, không phải là giá trị duy nhất, đích thực của tập thơ Trần Hoan Trinh. Tình cảm một đời với phấn trắng, bảng đen mới chính là chân dung của thi phẩm này.
 
“ta đến khi tóc xanh
ta về khi tóc bạc
này, mai trên trường xưa
có một người thiếu mặt.
ta đến hồn như trăng
ta về lòng như suối
cây sao già trên sân
ngươi thua ta một tuổi.
bước đi trên hành lang
bước đi trong lớp học
cộng lại bằng con đường
nối vòng quanh trái đất.
ta đã nói triệu lời
ta đã viết triệu câu
bóng hình ta khắp nơi
từng góc tường đóng bụi.
ta lặng lẽ âm thầm
bốn mươi năm cửa lớp
còn gì cho ta đây
những ngày dài cỏ mục ?
tiễn ta về hôm nay
hàng cây xanh cúi mặt
gốc phượng hồng ngẩn ngơ
học trò thì đâu mất.
ơi tượng đồng lặng câm
người vô tri vô giác
sao hiểu được lòng ta
như sóng triều dào dạt.
ơi phấn trắng bảng đen
thôi cũng đành vĩnh biệt
rồi năm tháng cuối đời
chắc nhớ người tha thiết.
mai có ai khóc ta
khi về thăm trường cũ
cứ nhìn mây lưng trời
lắng tai nghe gió thổ.
ta đến khi tóc xanh
ta về tóc đã bạc
đóa hồng nào cho ta
sao đóa hồng tím ngắt” (Bỏ Trường Mà Đi)
 
Tâm sự man man buồn của cuộc chia tay này, không nhuốm vẻ đau đớn, nhưng xót xa vô hạn. Ta đến khi tóc xanh, ta về khi tóc bạc, rồi lặp lại ta về tóc đã bạc, một xác định, một nhìn nhận chua xót đến não lòng. Ở đây còn cho thấy cái hoa tay đặt câu, dùng chữ của tác giả. Một đời người dài được mấy lần bốn mươi ? Nỗi tiếc nuối rõ ràng lấp ló đâu đó, trong cái nghi ngại, ta thán. Làm sao có thể không hồi tưởng tuổi thanh xuân lặng lẽ vụt qua. Ngày tiếp ngày, không nhận dạng được bước chuyển động của thời gian, nhưng rồi cái đến đã đến. Không tự hào mà là một lần soi thấy mình trung trực: ta đến hồn như trăng, ta về lòng như suối. Đến đi vẫn luôn luôn trong sáng, nhẹ nhàng. Những chút gì còn đọng lại khắp nơi, ngay trên những giọt bụi ? Dù có được thăng hoa vẫn không thể xóa ngậm ngùi. Hàng cây, gốc phượng, phấn trắng bảng đen, rõ ràng đã dùng tấm lòng để thay bàn tay vẫy. Có cúi mặt, có ngẩn ngơ, có lặng câm… thơ đều nhìn rõ hết. Cảm ơn những chân tình. Người ra đi, đang lắng tai nghe lại những mẩu vụn kỷ niệm, qua tiếng thơ sâu thẳm của chính mình. Cả một đời dạy học dài bốn mươi năm, một lượng thời gian tưởng chừng đã đủ đi vòng quanh trái đất bước đi trên hành lang/ bước đi trong lớp học/ cộng lại bằng con đường/ nối vòng quanh trái đất , nhưng rõ ràng trong phút giây đó, người thơ không đi qua khỏi những buồn phiền trong lần chia tay vĩnh viễn. Bốn câu thơ giản dị, nhưng thật đẹp trong một liên tưởng tạo hình ảnh rất thơ.
 
Với mười đoạn ngũ ngôn, người thầy giáo bỏ cuộc chơi, đã dàn trải đủ và hết lòng mình. Thú thật, lâu nay tôi đọc thơ Trần Hoan Trinh không được kỹ. Cũng may vẫn còn đủ thời giờ đọc lại và gặp được những thú vị như hôm nay. Có một nhận xét, theo chủ quan của tôi: Trong đoạn 7, nếu tác giả hướng cảm xúc và suy nghĩ qua một chiều khác, có thể, với riêng tôi, sẽ thoải mái hơn. Bởi vì tượng đồng ở đây, tuy thực chất vốn vô tư trung trực như tác giả viết, nhưng là hình tượng của một nhân vật cách mạng, đang là biểu tượng cho ngôi trường. Tại sao chúng ta không tưởng tượng, để nhìn thấy linh hồn của bức tượng. Linh hồn đó lại biết ngậm ngùi, cảm thông với những lời an ủi vô âm. Hồn thơ của đoạn này chắc sẽ giàu hơn, đậm đà hơn.
 
Trần Đại Tăng đã thật sự chia tay với nghiệp giáo chức. Nhưng Trần Hoan Trinh vẫn tiếp tục ở lại với mái trường. (“… người ra đi nhưng lòng còn ở lại/ nên thơ tôi cứ mãi mãi ngậm ngùi…”. ) Một mái trường suốt đời làm thầy, anh gắn bó chung thủy, “ôi ngôi trường thân yêu/ cả một đời ở đó” nhưng “vẫn còn thấy chưa nhiều/ vẫn còn nghe mới lạ” bởi vì ngôi trường đó “… là hơi thở/ đã nuôi sống tình anh”.
 
Cũng từ mái trường đó, Trần Hoan Trinh cùng bạn đồng nghiệp, cùng đám học trò qua nhiều niên khóa khác nhau, dựng nên được “một thời Phan Châu Trinh” lấp lánh những kỷ niệm: “… anh chợt thấy sáng nay trong nắng lạ/ cả một thời vang bóng Phan Châu Trinh qua” với một Trần Đình Quân (nhạc sĩ) xanh xao ủ rũ, với “những khuôn mặt ghen hoa thẹn nguyệt/ Thu Liên, Thu Hà, Qúy Phẩm, Bích Quân” cùng những tên gọi thân tình: Tâm Nguyên (tiếng hát học trò), Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đình Nghĩa, Liên Phượng (Nguyễn Thị), Duy Nhân (Phan Chánh Dinh), Luân Hoán (Lê Ngọc Châu), Hà Nguyên Thạch (Nguyễn Văn Đồng), Phan Nhật Nam, Lệ Hằng, Nguyễn Bá Trạc…
 
Cái hạnh phúc của Trần Đại Tăng, cái hãnh diện của Trần Hoan Trinh, nằm ở chỗ, môn đồ của anh thương yêu anh. Những người không trực tiếp được anh giảng dạy cũng một mực kính quí. Tình cảm này một phần do lễ giáo, một phần từ cái thực tài lẫn đạo đức. Anh lãng mạn nhưng nghiêm túc, đứng đắn. Anh mơ mộng, nhưng yêu nghề, tròn bổn phận làm thầy. Hai cánh tay, hai nghiệp dĩ như luôn luôn tương trợ nhau. Nhờ vậy, ngòi bút Trần Hoan Trinh thật sung sức, gieo trồng trên cánh đồng văn học, những nụ thơ thời học trò, hơn hẳn những người làm thơ khác. Khởi đầu tập thơ là Chiều Một Mình Sân Trường, dẫn theo những Tháng Năm Huyền Thoại, Chuyện Tình Học Trò, Xin Chào, Thưa Thầy Còn Nhớ Con Không, Tóc Trắng Sân Trường, Bỏ Trường Mà Đi, Cho Em Một Cành Phượng Đỏ, Huyền Thoại, Dạy Toán, Lời Buồn Bên Lớp Học Chiều, Chiều Đi Qua Trường, Một Đời Thầy Một Đời Thơ, Một Chiều Về Thăm Trường Cũ, Tấm Bảng Đen, Thoáng Buồn, Hoa Phượng, Ngày Xưa Ngày Nay, Có Một Ngôi Trường Có Một Tình Yêu, Học Toán, Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp, Nói Gì Với Em, Điểm Không Điểm Mười, Cúi Đầu, Bài Thơ Học Trò, Lang Thang Cửa Lớp Sân Trường, Con Ong Làm Tổ, Được Tin Người Bạn Chết Trên Bục Giàng, Cô Học Trò Nhỏ, Bỏ Lớp Mà Đi, Chiều Trên Sân Trường, Bài Ca Bẻ Phấn, Một Lần Đi, Thơ Viết Bên Cửa Lớp Trường Tư, Buổi Học Cuối, Một Thời Phan Châu Trinh… Chỉ đọc những tựa bài nêu trên, những ai đã từng có những tháng năm với sách đèn, chắc đều tưởng như gặp lại một chút gì đó thân thương của riêng mình.
 
Bỏ Trường Mà Đi, không chỉ qui tụ những bài thơ đậm đà hương bút mực, mà còn rất phong phú trong nhiều nội dung khác. Những suy tư về cuộc đời, về thân phận cũng được tác giả diễn đạt dưới một phong thái giản dị, không cầu kỳ. Dòng thơ như một mạch nước, có lúc êm đềm, có lúc gợn lên những thao thức nhẹ nhàng, sâu lắng. Sẽ rất là vu vơ mơ hồ, nếu không trích dẫn đôi bài tiêu biểu:
 
“Xin khép lại một trang đời mộng ảo
vẫy tay chào năm tháng đã đi qua
mai anh về như con chim trốn bão
đứng co mình nhớ biển rộng trời xa”. (Bài Du Ca Cuối Cùng)
“mình về bỏ đó chiêm bao
không còn bụi phấn bám vào tóc sương
áo em bay trắng đêm buồn
tiếc ngơ ngẩn một thiên đường đã xa”. (Còn Đó Nỗi Buồn)
“… ta một đời tỳ khâu
đi lang thang khất thực
sao trên từng bước đau
Tâm vẫn không tỉnh Thức…”. (Giọt Thiền)
“…anh là du tử
đứng trên phố buồn
nghe lòng như sóng
trôi vào hoàng hôn…”. (có 1 con đường bên 1 dòng sông)
 
Bỏ Trường Mà Đi không phải là tác phẩm đầu tay của ông thầy dạy toán đa tình. Anh đã có khai trong Tự Khúc : “ta đến hai tay không/ ta về hai tay trắng/ chẳng có gì mang theo/ ngoài chút tình nghĩa nặng…”. Nhưng, hình như trong gói hành lý, anh đến với trung học Phan Châu Trinh, còn có tập thơ đầu tay, Tôi Khóc Em Cười. Nghiệp thơ của anh, có thể khởi đi từ đất thần kinh, nhưng chắc chắn vững mạnh nhờ khí hậu thơ Đà Nẵng, Quảng Nam. Hẳn thế, nên Trần Hoan Trinh còn có thi phẩm “Tóc Trắng Sân Trường” trước khi “Bỏ Trường Mà Đi”.
 
Điểm sau cùng, tôi không thể bỏ qua. Đó là những đóng góp tình nghĩa, bằng các bài viết, của những khuôn mặt được gọi là Trò Xưa. Từ một Phan Nhật Nam nổi tiếng với nhiều tác phẩm văn học, đến những tay viết ngọt ngào và chín chắn như trò xưa Phan Thủy, trò xưa Phan Thu Hà, trò xưa Nguyễn Hữu Viện, trò xưa Lê Thị Thanh Sơn, trò xưa Phan Thái Yên Thy… Bài thay lời tựa tuy hai chữ trò xưa không kèm theo một quí danh nào. Nhưng qua vóc dáng chữ nghĩa có thể đoán được người viết bài, đi lại đã nhiều trong lãnh vực cầm bút. N ?. T?… dù là ai, cái tình bày tỏ kia mới đáng quí.
 
Cảm ơn thầy Trần Đại Tăng, cảm ơn nhà thơ Trần Hoan Trinh, cảm ơn đôi mắt trên đoạn đường Đống Đa, cảm ơn Nguyễn Hữu Viện, Thu Hà, Phan Thủy, Yên Thy, Thanh Sơn, Phan Nhật Nam…
Tôi thật tình thèm viết hai chữ “trò xưa” phía trước tên mình, để kết thúc những dòng ba hoa. Nhưng thật mắc cở, bởi thực chất, tôi chỉ được “xưa” có một nửa. Thầy và các bạn hiểu ra rồi đó.
Hà Khánh Quân

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 9/10 – Một chút tro tàn của Đá Vàng (Dương Uyển Châu)

Một chút tro tàn của Đá Vàng (Dương Uyển Châu)

motchuttrptancuadavang
Đọc thơ: “Đêm qua trường cũ đã bị đập bỏ” của Trần Hoan Trinh
 
Bài thơ:
Tim tưởng chừng như muốn hóa băng
Khi nhìn trường cũ chỉ trơ sân
Hành lang, lớp học san bằng cả
Lạnh lẽo phơi mình dưới ánh trăng!
Chết điếng lòng đi theo nỗi buồn
Ta nằm trên nền cát đẫm sương
Nghe từ lòng đất từng hơi thở
Của học trò xưa thuở mến thương!
Có tiếng thì thầm của thiên thu
Trong từng hơi gió động âm u
Nghe chừng hoa cỏ đang trăn trở
Tiếc một tình yêu đã mịt mù!
Từ cõi u minh xót nát tan
Hồn ai sống dậy dưới trăng tàn
Nhặt từng viên sỏi mong tìm kiếm
Một chút tro than của đá vàng!
Vẫn biết thế gian vốn đổi thay
Nhưng sao lòng thấy quá đắng cay
Ai ngờ lại phải tang thương vậy
Bạc bẽo, vong ơn đến thế này!
Trường cũ trò xưa mất hết rồi
Còn ta với nỗi nhớ khôn vơi
Đêm nay có kẻ ngồi ôm mặt
Dưới gốc sao già để lệ rơi!
 
Có người gọi thơ Trần Hoan Trinh là thơ tình bên cửa lớp, đấy là một ẩn dụ rất thi vị, bao quát được nhiều đề tài, chủ đề, cung bậc cảm xúc của nhà thơ. Với tôi, tôi lại thích gọi Trần Hoan Trinh là nhà thơ học đường hơn. Sở dĩ tôi gọi như thế vì Trần Hoan Trinh là một người thầy làm thơ, cái tôi trữ tình trong thơ có sự gài lồng giữa người sư phạm và người thơ. Trần Hoan Trinh là nhà thơ học đường, bởi cảm xúc chủ đạo chảy dọc chiều dài 50 năm thơ của nhà thơ là những gì yêu thương diễn ra dưới một mái trường. Và tôi nghĩ chỉ có thể gọi như thế mới chạm đến, mới làm sống dậy điệu hồn của thơ tác giả. Nhất khi tôi được tiếp xúc với bài thơ “Đêm đi qua trường cũ bị đập bỏ” – một bài thơ nghi ngút nỗi hoài tiếc về một mái trường – thì niềm xác tín về tên gọi ấy càng mạnh mẽ hơn.
 
Trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ, cảm xúc về mái trường có vẻ đậm sâu hơn cả. Hồn thơ của nhà thơ luôn đi về trong không gian thân thuộc nhất: học đường. Ở đấy nhà thơ yêu thương và được yêu thương bởi những đồng nghiệp và học trò của mình. Ngay cả với cây sao ở sân trường ấy cũng trở thành tri kỉ của nhà thơ. Tình cảm đó đã chuyển hóa thành thơ, thành tiếng nói trữ tình trong thơ. Cho nên, đọc thơ Trần Hoan Trinh, tôi cho đấy không chỉ là chuyện câu chữ mà là tâm tình, tình yêu, đạo đức, nhân cách của một người thầy chân chính trong thơ và ngoài đời. Đấy là người thầy mà suốt đời chỉ gắn bó với một mái trường trong suốt 40 năm – trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng.
 
“Ta đến khi tóc xanh
ta về khi tóc bạc …
(…)
Ta đến hồn như trăng
Ta về lòng như suối.
Cây sao già trên sân
Người thua ta một tuổi. (Bỏ trường mà đi).
 
Không những thế, người thầy ấy đã một lần chọn lựa để mãi mãi say với phấn trắng bảng đen. Phấn trắng bảng đen do đó mà đã trở thành sự sống, trở thành tâm hồn của nhà thơ – người thầy:
“Nghề nghiệp ấy đã một lần lựa chọn
Chỉ một lần xin trọn kiếp đắm say. (Cúi đầu)
 
Thơ cũng vì thế mà phập phồng hơi thở tình nghĩa, và là khúc hát ân tình với trường cũ trò xưa:
 
“Ta đến hai tay không
Ta về hai tay trắng
Chẳng có gì mang theo
Ngoài chút tình nghĩa nặng ……
Ta một đời chôn chân
Sân trường và lớp học
Như một gã tình si
Quên cả ngày tóc bạc. (Tự khúc)
 
Thơ nén đọng mà ngân vang tình cảm của một người yêu ngôi trường mình giảng dạy, yêu học trò mình, trân quý đồng nghiệp mình trong suốt hành trình đời và hành trình thơ. Hiểu như thế mới thấy bài thơ “Đêm qua trường cũ bị đập bỏ” là một sự nối mạch tự nhiên của tâm tình nhà thơ. Dẫu rằng giọng điệu thơ có đảo cung, nghịch phách thì vẫn là một tình cảm xuất phát từ “hồn như trăng” và “lòng như suối” của nhà thơ mà thôi. Bài thơ là sự òa vỡ cảm xúc chân thành của một hồn thơ hẫng hụt trước một thực tại tan vỡ, bị xô đẩy bởi kỷ niệm đong đầy trong suốt 40 năm mà trào dâng thành thơ, thành niềm đau mang màu sắc thế sự.
 
Đọc bài thơ, người đọc không khỏi ngạc nhiên trước nhan đề của nó. “Đêm đi qua trường cũ bị đập bỏ” có gì là thơ? Đấy chỉ là một nhan đề đậm màu tự sự, giọng điệu hững hờ, thậm chí có vẻ trung tính về sắc thái biểu cảm nữa. Điều này chẳng có gì phải bàn. Nhưng nếu đặt nó vào trong chỉnh thể bài thơ mới thấy, nhan đề có sự đọng lắng một niềm riêng giấu kín, hay đấy là một sự trá hình của tâm trạng xót xa. Tại sao vậy? Thì cứ nhìn vào thời gian nghệ thuật và hành động thơ trong nhan đề là rõ. “Đêm” khuất lấp tất cả, vậy mà trong con mắt nhà thơ tất cả hiển hiện. “Đi qua” dù là một hành động của sự tình cờ hay ý thức thì cũng chỉ là thoáng chốc gặp và thấy, không thể để lại một ấn tượng nào; vậy mà trong tâm hồn nhà thơ bao nhiêu màu sắc tâm trạng cứ quấy đão đến xốn xang. Đêm lại thấy rõ hơn ngày. Cái thấy kia không được soi tỏ bởi ánh mặt trời mà bằng ánh sáng của tình cảm yêu thương. Vả lại, sao lại không qua trường cũ dưới ánh ngày? Hình như con người tri kỷ với mái trường kia sợ thực tại, sợ gạch đá ngổn ngang nơi trường cũ bị đập bỏ ấy cứa cắt lòng mình!
 
Chỉ nhan đề đã gợi lên biết bao xúc cảm tâm tình. Và tâm tình ấy đẩy ta đến với bài thơ mà não lòng cùng tác giả. Không não lòng sao được khi bài thơ đưa ta vào một không gian âm lạnh: “…Trường cũ trơ chỉ sân – Hành lang, lớp học san bằng cả – Lạnh lẽo phơi mình dưới ánh trăng”. Trăng vốn đẹp, có sức hút hồn người, vậy mà bây giờ trăng đem ánh sáng lạnh lẽo mà tưới tẩm lên cả tạo vật, khiến tạo vật vô hồn như đang run lên, “run như run thần tử thấy long nhan”. Thực ra, trăng nào có tội tình gì, mà chỉ do tình đau nên thơ đau thế thôi. Chỉ với hai khổ đầu ta đã cảm nhận được tình điệu, cái nhìn trữ tình này. Cái nhìn ngôi trường cũ bị đập bỏ đâu từ con mắt vật lí mà bằng con mắt tâm lí, đó là con mắt của một trái “Tim tưởng chừng như muốn hóa băng”, của một cõi tình “Chết điếng lòng đi theo nỗi buồn”. Hai khổ thơ mở đầu bằng hai hình ảnh tưởng như có sự tắc nghẽn hơi thở của một tâm hồn đông cứng và tái tê trước một hiện thực phũ phàng. Nhưng hồn thơ ấy vẫn cố động cựa để tìm lại chút âm xưa. Từ “nhìn trường cũ” đến “nằm trên cát đẫm sương” để được:
Nghe từ lòng đất từng hơi thở

Của học trò xưa thuở mến thương!
Những động từ ngoại động “nhìn, nằm, nghe” như ghi lại những hoạt động hướng ngoại của hồn thơ thiết tha, mong tìm lại cái “thuở mến thương”, để ở đấy như được sống với “từng hơi thở” “của học trò xưa” vọng lên từ “lòng đất” sân trường mến yêu. Ý da diết nên thơ cũng nghẹn ngào. Thơ nghẹn ngào nên nhạc thơ không thể hài hòa thanh điệu. Hai câu thơ:
Chết điếng lòng đi theo nỗi buồn
Ta nằm trên nền cát đẫm sương
 
hoàn toàn phá vỡ luật bằng trắc, quy luật hài hòa thanh điệu của thơ bảy tiếng. Hai câu thơ vì thế mà khúc mắc trong giọng điệu nên diễn tả trọn vẹn sự tức nghẹn trong tâm hồn của nhà thơ. Đọc những dòng thơ này, tôi bỗng nhớ đến những tâm tình mà nhà thơ phổ vào trong bài “Chiều đi qua trường”. Bài thơ là nỗi nhớ học trò xưa, đúng hơn là tấm lòng yêu thương của học trò không phôi pha theo năm tháng của người thầy:
 
Chiều đi qua trường xưa
Gọi tên từng học trò
Như gọi từng nỗi nhớ
Như gọi từng ước mơ.
 
Và đối với người thầy thi sĩ này, học trò thậm chí như là một phương thuốc “hồi sinh” nữa
– Thưa thầy còn nhớ con không ?
Chiều nay em như cơn mưa giông
Tưới mát tâm hồn thầy nứt nẻ
Người học trò rất xa thuở trẻ.
Gặp hôm nay bỗng thấy rất gần
Lòng thầy già như được hồi sinh. (Thưa thầy còn nhớ con không)
 
Hiểu như thế mới đồng cảm với nhà thơ khi “Nghe từ lòng đất từng hơi thở – Của học trò xưa thuở mến thương!”.
Nếu hai khổ đầu là tâm trạng trước thực tại đổ vỡ thì khổ 3 và 4 tâm hồn nhà thơ như đắm chìm vào cõi mơ, thậm chí cõi “u minh” nữa để xót xa kiếm tìm những gì yêu thương xưa cũ sau đổ vỡ đó, bây giờ đã tan chìm vào qúa vãng không một vang bóng, một âm hao nào. Tâm hồn nhà thơ như náu vào trong tạo vật vũ trụ, nương theo sự sống mơ hồ của chúng mà tim kiếm kỷ niệm của một thuở phấn trắng bảng đen:
– Có tiếng thì thầm của thiên thu
Trong từng hơi gió động âm u
Nghe chừng hoa cỏ đang trăn trở
Tiếc một tình yêu đã mịt mù.
 
Nhưng nào có gì đâu, tất cả chỉ là hư vọng, tất cả đang trỗi lên một nỗi niềm: “Tiếc một tình yêu đã mịt mù”. Cái hay của khổ thơ là giọng thơ như vọng về xa xăm, không gian thơ như mờ mịt, cái tôi trữ tình như từ cõi mơ, cõi thinh không mà buông ra tiếng thở dài thõng thượt qua các từ láy cùng trường nghĩa: “Thì thầm, âm u, mịt mù”. Không chỉ cùng cỏ hoa trăn trở, nhà thơ như “hồn ai” từ cõi u minh mà xa xót cho sự nát tan đang phơi mình dưới ánh trăng tàn. Chủ thể trữ tình đã có sự hóa thân từ “ta” thành “hồn ai” đang đau đớn nhặt từng hòn sỏi trên sân trường, mong tìm lại “một chút tro than của đá vàng!”. Đọc câu thơ này tôi như rơi vào trạng thái băn khoăn, nên cảm hay phân tích? Có lẽ chỉ cảm thôi, sợ phân tích sẽ làm bay biến mất “tro than của đá vàng” tình nghĩa của một người thầy đối với mái trường. Và như thế sẽ vô tình làm “chết điếng lòng” nhà thơ hơn!
Từ cõi “u minh” hay u tình, ở khổ 5 và 6, nhà thơ quay về với thực tại, lắng nghe lí lẽ lên tiếng:
Vẫn biết thế gian vốn đổi thay
 
Câu thơ rất tỉnh, nhưng tỉnh để rồi đau. Là một người thầy dạy toán làm thơ, cái tư duy luận lí nói lên cái quy luật biến thường, vận động và phát triển của cuộc đời. Cuộc sống luôn hành trình về phía trước, trong quá trình phát triển của nó, cái cũ sẽ được thay thế bằng cái mới là một tất yếu. Vẫn biết trường cũ đã có trường mới thay thế, nhưng lí trí không thắng nổi tình cảm, nên thơ thành đối lập giữa lí và tình: “Nhưng sao lòng thấy quá đắng cay”. Từ chiêm nghiệm, tâm hồn nhà thơ lại đối diện với sự thật “tang thương”:
Trường cũ trò xưa mất hết rồi

Còn ta với nỗi nhớ khôn nguôi
Đêm nay có kẻ ngồi ôm mặt
Dưới gốc sao già để lệ rơi!
 
Những khổ thơ trên là sự kiếm tìm, nhưng tìm mà chẳng bao giờ gặp, nên khổ thơ này nhà thơ rơi vào trạng thái cô đơn. Mà thói thường, khi cô đơn, người ta luôn nghĩ, chỉ có mình tắm đẫm trong nỗi buồn, chỉ có mình là quay quắt nhớ về trường xưa, nhớ về đồng nghiệp và học trò một thuở đã góp phần tô điểm cho trang đời của mình:
 
Trần Đình Quân dáng xanh xao ủ rũ
Vẫn ngậm ngùi thương tiếng hát Giang Châu
Nguyễn Ngọc Thanh bước đi luân vũ
Vào lớp rồi khói thuốc còn bay.
(…)
Đêm văn nghệ đèn sáng trưng hội trường
Tiếng hát Tâm Nguyên buồn thật buồn
Kinh Kha hề! Trần Ngọc Châu múa kiếm
Cẩm Lai yêu kiều vũ Đám cưới đầu xuân. (Một Thời Phan Châu Trinh)
 
Có lẽ đó cũng là tâm lí của nhà thơ Trần Hoan Trinh. Chúng ta không thể trách nhà thơ được. Nỗi buồn cũng là một phẩm chất nhân văn của con người, nó làm nên tính người, tính nhân loại mà. Chúng ta cùng đồng cảm với nhà thơ để “dưới gốc sao già để lệ rơi” mà không cảm giác lẻ loi, để nhà thơ thấy đời vẫn thơ như “Buổi học cuối”:
 
Buổi học cuối mơ thấy mình hóa bướm
Bay lang thang hôn từng cụm hoa vàng.
để “Lòng thầy già như được hồi sinh”.
 
“Đêm đi qua trường cũ bị đập bỏ” là một bài thơ tạo được sự đồng điệu với người đọc. Qua sự đồng điệu đó nói lên một chân lí nghệ thuật: thơ hay không chỉ ở nghệ thuật tân kì mà ở chỗ, nhà thơ thật sự xúc cảm, biết diễn tả sự rung động chân thành của mình một cách chân thực bằng ngôn từ giản dị và trong sáng.
 
“Đêm đi qua trường cũ bị đập bỏ” là bài thơ thật sự làm người đọc xúc động vì đã nói lên một quy luật tình cảm, khi sự vật hiện tượng đã một đời gắn bó với ta, nó không còn là sự vật nữa mà là máu thịt tâm hồn, một phần sự sống của mình, thậm chí chuyển hóa thành đời sống tâm linh của mình. Phải chăng chính tư tưởng và tình cảm ấy đã tạo nên tín ngưỡng tâm linh của người Việt.
 
Hiểu như thế mới cảm thông với Trần Hoan Trinh, nhà thơ học đường, 40 năm gắn bó ân tình với một mái trường, nên làm sao tránh khỏi:
 
Đêm nay có kẻ ngồi ôm mặt
Dưới gốc sao già để lệ rơi.
khi trường xưa không còn là một thực thể mà đã trở thành quá vãng mịt mù.
 
Dương Uyển Châu

Tưởng Nhớ Thầy Trần Đại Tăng – Phần 10/10 – Thầy Tôi, Thi Sĩ Trần Hoan Trinh (Nguyễn Phụng)

Thầy Tôi, Thi Sĩ Trần Hoan Trinh (Nguyễn Phụng)
 
Thay-Toi-thisi TranHoanTrinh
Giáo Sư Nguyễn Phụng, Cựu Học Sinh Phan Châu Trinh (1955-1961), thuộc thế hệ học sinh “con nhà nghèo học giỏi” của Phan Châu Trinh Đà Nẵng khi trường dời từ Trường Nam Tiểu Học (nơi nhà đèn) về cơ sở mới Đường Lê Lợi (1954). Thế hệ học sinh cả lớp ban toán đậu tú tài 100%; đứng đầu các lớp Đệ Nhất Ban B của Quốc Học Huế, cũng chiếm ngôi vị thủ khoa các Trường Cao Đẳng ở Sài Gòn. Sinh Viên Nguyễn Phụng đã là một điển hình cụ thể. Nhưng không chỉ thế, bài viết sau đây về Thầy Trần Đại Tăng là những chữ nghĩa cảm động của Tình Thầy-Trò mà sáu-mươi năm sau (1955-2015) vẫn nguyên vẹn bất biến. Bởi Giáo Sư Phụng viết về Thầy Tăng, Thi Sĩ Trần Hoan Trinh với một tâm hồn một người đọc thơ. Với tấm lòng của học trò – Học Trò Phan Châu Trinh đối với Người Thầy — Thầy Tôi. BBT-Hội AHCHSPCT ĐN.
 
***
Tôi học ban toán; năm đệ tam và đệ nhị tôi học toán với thầy Trần Đại Tăng. Rất tiếc là tôi chỉ được học hai năm với thầy vì trường Phan Châu Trinh lúc đó chưa có lớp đệ nhất; tôi phải khăn gói lên đường ra Huế làm người học trò xứ Quảng ra thi…
 
Lớp toán vui và hay. Thầy Tăng rất trẻ, hiền lành, thong thả nhưng không trễ nãi; giọng ấm nhưng không quá trầm nên dễ nghe; lời giảng ngắn gọn, ít lặp đi lặp lại; chữ viết trên bảng thẳng đứng, quả quyết với nhiều nét nhấn mạnh nhưng vòng tròn và đường biểu diễn hàm số bậc hai bậc ba thầy vẽ rất tròn và mềm mại, thẩm mỹ. Tôi thích lớp thầy, hớn hở và bình an với con đường tương lai mở rộng ra trước mặt. Tôi kính mến thầy.
 
Sự kính mến của tôi bỗng một hôm thay đổi và trở nên đậm đà hơn; đó là hôm tôi đọc bài thơ của thầy trong giờ ra chơi. Vài lần tôi nghe bạn bè nói thầy Tăng làm thơ nhưng mãi đến lúc đó mới thật sự đến với thơ của thầy. Hơn năm mươi năm rồi tôi không còn nhớ bài thơ, nhưng ngay từ giờ phút ban đầu, tôi đã nhận ra đó là bài thơ hay. Ý thơ quen thuộc – sân trường và tà áo mấy cô học trò tung bay – lời thơ tự nhiên, chuyên chở nhiều cảm xúc và đầy nhạc tính. Trong ý nghĩ của tôi, thầy Tăng, thi sĩ Trần Hoan Trinh (*), không phải là thi sĩ tình cờ, kiểu “yêu em anh trở thành thi sĩ” hay thi sĩ suốt đời chỉ viết được độc nhất một bài thơ, bài thơ của cả cuộc đời.
Mấy bạn tôi chắc cũng có cùng cảm mến như tôi, nhưng sự cảm mến của tôi khác biệt, tôi tin như vậy, vì tôi hay nghĩ ngợi về thơ. Tôi không biết làm thơ và ao ước ngày nào đó viết được vài bài thơ hay ho. Vì ước mơ đó nên tôi chép thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương… và thuộc lòng nhiều đoạn trong Truyện Kiều. Hồi đó, tôi cho rằng thi sĩ là người “rất oai”. Thật là lạ lùng; nhưng may quá, sau này, Nguyễn Bá Trạc, học hơn tôi một lớp, viết đâu đó trong Ngọn Cỏ Bồng rằng thi sĩ thường mặc áo veston và thắt cà vạt, oai ghê; chắc Trạc cũng nghĩ như tôi; cảm ơn anh.
 
Và vài lần tôi nghĩ rằng người biết làm thơ là người may mắn trong đời vì vài thiếu thốn trong cuộc sống có thể bù đắp bằng thơ; may mắn vì qua bài thơ sáng tác họ thấy đời vui tươi hơn; may mắn vì qua bài thơ họ trút bớt đi những bâng khuâng, buồn phiền, mệt mỏi trong cuộc sống. Tôi mường tượng ra rằng ai đó viết được bài thơ vừa ý sẽ thấy mùa hè rộn ràng hơn và hoa phượng tươi thắm hơn; và ai đó khi chuyển những cảm xúc thành những vần điệu ý vị, sẽ vơi đi được vài nỗi buồn trong cuộc sống.
 
Một lần, trên đường đi học về trên đường Thống Nhất ngang qua đường Nguyễn Thị Giang tôi chợt nhớ đến thiên tình sử của anh hùng Nguyễn Thái Học và liệt nữ Nguyễn Thị Giang do Ba tôi kể. Thương tiếc tràn ngập trong lòng, tôi liên tưởng đến mối tình lý tưởng mang màu sắc cách mạng của đôi chiến hữu Trần Quang Ngọc và Nhị Nương bên cạnh mối tình thơ mộng và bi đát của Phạm Thái và Trương Quỳnh Như trong truyện Tiêu Sơn Tráng Sĩ của Khái Hưng. Tôi bước đi thẫn thờ và hát nhỏ nhỏ “Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó”, câu hát mà tôi biết khi học nhạc tại nhà thầy Hoàng Bích Sơn. Phải chi tôi biết làm thơ để viết hết ra sự kính phục và tiếc thương của tôi đối với họ.
 
Một lần khác, khi Nguyễn Văn Nam – học trước tôi một lớp, cùng lớp với Phan Nhật Nam và là một võ sĩ quyền Anh cừ khôi của trường Võ Bị Đà Lạt – tử trận. Nam ra đi để lại thương tiếc cho gia đình và bạn bè. Kỷ niệm những ngày cùng Nam đi đến trường, cùng bước qua Cầu Vồng, sân vận động Chi Lăng, mã Tây… chập chờn trong giấc ngủ; phải chi tôi làm được một bài thơ để vơi đi thương nhớ; tôi như một người câm với bao nhiêu phiền muộn trong lòng nhưng chỉ biết ú ớ vì không thể nói nên lời. Tôi dài dòng về thơ và ước vọng về thơ để các bạn hiểu sự cảm mến của tôi đối với thầy Tăng, thi sĩ Trần Hoan Trinh. Sự cảm mến đó không chỉ đơn thuần do sự thông cảm giữa độc giả và tác giả mà là một liên hệ tình cảm sâu đậm, với nhiều kỷ niệm và qua nhiều năm tháng.
 
Hết trung học, tôi học trường Quốc Gia Hành Chánh. Một trong những vị giáo sư của trường mà tôi kính mến là giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Giáo sư rất tư cách, thông thái và giảng dạy rất hay. Sự kính mến đó thêm màu sắc mới từ ngày tôi biết giáo sư là thi sĩ Đằng Phương, tác giả tập thơ Hồn Việt với bài thơ nổi tiếng mà tôi đã thuộc lòng từ nhỏ:
 
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dải san hà gấm vóc.
Họ là kẻ không nề đường hiểm hóc,
Không ngại xa, hăng hái vượt trùng sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn lớn rộng.
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giầy của những kẻ xâm lăng,
Đã xông vào khói lửa, quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc,
……
(Đằng Phương, Anh Hùng Vô Danh)
Tôi ngâm khẽ bài thơ Anh Hùng Vô Danh vài lần, nghĩ đến những bài học thuộc lòng thời tiểu học, bài Nhớ Rừng của Thế Lữ và bài Làng Tôi (tức là bài Quê Hương) của Tế Hanh và mấy bài trong tập Những Vần Thơ Trong Sáng của Trần Trung Sơn; tôi nhớ những ngày ấu thơ và những ngày vui trong lớp toán thầy Tăng. Thơ giáo sư Huy là những bài hùng ca yêu nước; thơ thầy Tăng là mấy bức phác họa sân trường và lớp học.
Một chiều, trong khi chờ đợi để đón nàng sinh viên văn khoa Sài Gòn – người đem lại an vui cho gia đình và chia xẻ buồn vui với tôi hơn bốn mươi năm qua – tôi tình cờ nói chuyện với một người trai trẻ cũng đang đợi chờ như tôi và được biết rằng giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng Văn Khoa, là một thi sĩ tài ba, thi sĩ Trần Hồng Châu. Tại trường Hành Chánh tôi đã nghe nói rằng vị giáo sư văn chương này là một luật gia thượng thặng với nhiều bằng cấp luật học tại Pháp. Giáo sư Hoạch đi về hướng phía chúng tôi rồi rẽ vào lớp học; người bạn đọc cho tôi nghe mấy đoạn thơ của giáo sư. Lòng tôi rộn ràng với sự cảm mến dù tôi chỉ mới nhìn thấy giáo sư và nghe được chưa quá vài chục câu thơ. Tôi đón người yêu văn khoa. Khi yêu, người ta yêu cả đường đi lối về, nhưng tôi chắc đó không phải là lý do của sự quý mến, dù chỉ rất nhẹ nhàng, của tôi đối với giáo sư Hoạch, một thi sĩ. Đêm đó tôi nghĩ đến giáo sư Huy, giáo sư Hoạch và thầy Tăng.
 
Một lần khác, đọc mấy bài thơ của Vũ Hoàng Chương tôi sực nhớ ra thi sĩ này đậu tú tài toán, học lớp toán đại cương tại đại học Hà Nội, dạy toán tại nhiều tỉnh miền Bắc rồi khắp Sài Gòn. Tôi nghĩ đến lớp toán của thi sĩ nổi danh này, lớp toán của thầy Tăng, và một buổi học toán với thầy Tăng mà tôi rất thích thú và nhớ hoài. Hôm đó thầy Tăng giảng về lô-ga-rít thập phân và lô-ga-rít thiên nhiên. Lô-ga-rít thập phân lấy số 10 làm căn bản, điều đó dễ hiểu vì chúng ta có 10 ngón tay và 10 ngón chân. Lô-ga-rít thiên nhiên nhưng không “thiên nhiên” chút nào hết, vì căn bản của lô- ga-rít này là số e, số này gần bằng 2.718182, chỉ gần bằng thôi vì có vô số số lẻ. Cả lớp ngẩn ngơ. Thầy Tăng giảng rằng cũng như số pi – con số dùng để tính chu vi và diện tích vòng tròn – số e có hằng hà số lẻ. Viết từ đầu hàng, số lẻ của số e vẫn không ngừng lại cuối hàng; viết từ đầu trang, số lẻ của số e vẫn tràn ra ngoài trang giấy; ai đó ngồi đếm số lẻ của số e, cũng như đếm sao trên trời, mãn đời vẫn chưa đếm xong; và mọi cố gắng nhằm tính chính xác số e vẫn chỉ là một ước mơ của những bộ óc siêu việt hay của cả nhân loại.
Cũng như số pi, số e dù nhỏ bé nhưng chứa đựng trong nó sự vô tận, bao la… và sự vô tận đó khó nắm bắt được trong thế giới vật chất hữu hạn hằng ngày quanh chúng ta. Nhiều người quen thuộc với số pi hơn số e; những người này chỉ cần dùng một chút suy xét để vẽ một một vòng nho nhỏ trên một trang giấy học trò nhưng phải đưa trí tưởng tượng ra xa, thật xa, xa đến khi nó mờ nhạt và chơi vơi, để thấy số pi và sự bí ẩn của nó ẩn hiện trong chu vi vòng tròn. Đó là lý trí và tưởng tượng… Một em bé lên mười có thể vẽ được một vòng tròn dễ dàng nhưng một người trưởng thành và thông minh xuất chúng vẫn không thể vẽ được một hình vuông mà diện tích bằng diện tích vòng tròn vì số pi vô tận, không ai nắm bắt được nó để vẽ cạnh hình vuông. Đó là khả năng và giới hạn của chúng ta, đó là thân phận con người… Thầy giảng hay quá.
Một cô học trò, không biết trong lớp nào, cũng một lần nghĩ như tôi:
Thầy giảng Toán sao hay lạ thường
Ngọt ngào như đọc bài thơ Đường
Em ngồi em ngủ quên đi mất
Nghe gió lao xao động cuối trường. (Ngủ Quên, Trần Hoan Trinh)
 
Trong lớp tôi ngày đó lời giảng của thầy Tăng không ngọt ngào như một bài thơ Đường (có lẽ vì tôi không ngủ mơ màng như cô học trò này) nhưng rất trau chuốt, với ý tứ và hình ảnh nối tiếp nhau của một bài thơ tự do ý vị; và rất có thể đó là bài thơ cụ thể duyên dáng với mấy hình vẽ vuông tròn trên bảng rất đẹp. Ngày đó, tôi chỉ cảm nhận lời giảng của thầy Tăng mà không hiểu hết. Giờ đây, bao nhiêu năm vì cơm áo phải chuyện trò với các con số để chúng nói lên vài điều gì hay đưa chúng qua cửa ngỏ của vài công thức hay phương trình để có một đồ biểu hay mô hình gọn gàng, ý nghĩa – tương tự như cô gái đưa tơ vào khung để dệt tấm lụa vàng óng ánh – tôi mới hiểu dần ra ý nghĩa sâu xa của bài thơ tự do đó.
 
Toán tự nó là thơ của lý luận, pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas, như Albert Einstein đã nói. Cũng như lời thơ hay, lý luận toán là những lời súc tích nhất, ngắn gọn nhất và sắp xếp theo một thứ tự tuyệt hảo nhất. Cũng như thơ, lý luận toán dùng nhiều biểu tượng để chuyên chở ý nghĩa. Hình ảnh con hổ dưới ánh trăng tàn hay bức tượng đồng trầm tư trong thơ tương tự với số pi và e trong toán, nuôi dưỡng trí tưởng tượng, nói lên rất nhiều điều sâu xa huyền bí, mang ý nghĩa vượt thoát hình thù của chúng. Và cũng như vẻ đẹp trong thơ, các phương trình, công thức, dãy số… mang một vẻ đẹp đặc biệt, tạo thành bởi sự đối xứng, cân xứng, hay nhịp nhàng của các thành phần.
 
Tôi vẫn thường nghĩ, mỗi tuần vài lần, thầy Tăng làm thơ trên bảng đen với các dãy số và phương trình để chúng tôi khôn lớn trong luận lý và tưởng tượng, sự hữu hạn và sự vô cùng; và trong những phút thầm lặng, khi tay không còn dính và mái tóc không còn vướng đầy bụi phấn, thầy làm thơ riêng cho thầy, cho học trò. Tôi cảm ơn thầy; tôi thích cả hai thể loại thơ đó, hai thể loại thơ bằng hai thứ ngôn ngữ, hai thứ ngôn ngữ khác mà không biệt nơi thầy Tăng, thầy Tăng dạy toán, thầy Tăng thi sĩ.
* * *
Tôi thích đọc thơ và khi đọc tôi hay đồng hóa mình với tác giả trong khung cảnh của bài thơ. Tôi vẫn thường nghĩ rằng một bài thơ, dù viết cho người bạn tâm giao kế cận bên mình hay người yêu muôn trùng xa cách, vẫn là bài thơ viết cho người gần gũi nhất, tác giả, hay con người thơ của tác giả. Bài thơ là tiếng nói, tiếng cười, lời ca hay lời than thở của tác giả cho ai đó đón nghe, nhưng âm thanh của bài thơ đó vang vọng trước tiên trong tâm tư tác giả rồi mới lan truyền ra xa. Đóng vai tác giả để ngâm nga bài thơ tôi mong bắt gặp rung cảm tác giả muốn gởi đến người đọc và nhất là niềm hạnh phúc của tác giả khi chuyển rung cảm đó thành lời thơ. Đó là thứ hạnh phúc tôi thường ao ước nhưng không được trời ban cho nên mãi tìm kiếm.
 
Đọc thơ lối đó là một thói quen khó bỏ, không biết đó là một lối thưởng ngoạn đáng khuyến khích hay là một tật xấu nên tránh xa. Dù sao, với thói quen đó tôi đến gần một số bài thơ mà trước kia tôi chỉ đọc qua loa; nhưng riêng với thơ của thầy Tăng, thói quen đó là một trở ngại lớn. Trong tâm trí tôi, thầy Tăng là người trai trẻ, tài hoa, quá xa cách tôi, một người học trò hay đắn đo và thầm lặng. Khoảng cách giữa tôi và thầy không phải chỉ vài chục bước từ dãy bàn cuối lớp đến bục giảng bài mà là một không gian bao la. Tôi khá tự tin và hiểu rằng hoàn cảnh hiện tại rồi sẽ thay đổi theo thời gian nhưng vẫn không tìm thấy thú vui bình thường khi đọc thơ thầy như khi đọc thơ của của những tên học trò tôi quen biết. Tôi dễ dàng đồng hóa với Lê Ngọc Châu (thi sĩ Luân Hoán), Phan Chánh Dinh (thi sĩ Phan Duy Nhân) hay Hồ Cư. Khi Luân Hoán Lê Ngọc Châu yêu thương một mái tóc tung bay bên bờ sông Hàn hay nhớ nhung một nhan sắc Phan Châu Trinh, tôi thấy tôi và Châu đang ngồi trên ghế đá để gió sông mát rợi lùa trên da thịt hay đang đứng tựa gốc cây phượng nhìn tà áo người đẹp tung bay kiêu sa trong sân trường hay trên đường Lê Lợi. Đó là những giây phút sung sướng, sung sướng vượt thoát; những giây phút tôi nói rất nhiều nhưng chẳng biết nói gì và nói cho ai nghe.
 
Tôi rất thích lời tâm tình của thầy Tăng:
Năm học ấy em bước chân vào lớp
Chào thầy xong đi vội vã đến bàn
Có người thấy cả hồn mình choáng ngợp
Như bất ngờ chìm đắm giữa hào quang
Em e thẹn ngỡ ngàng nhìn xuống lớp
Mắt to đen và đôi má ửng hồng
Bàn tay ngọc vô tình đưa vuốt tóc
Gió bềnh bồng trên hai áng mi cong.
………
Buổi học chiều tiếng thầy giảng thiết tha
Lơ mơ mộng có học hành chi được
Cứ mải mê nhìn em ngồi phía trước
Tóc dài đen xõa kín cả bờ vai
……..
(Chuyện Tình Học Trò, Trần Hoan Trinh)
 
Cô học trò xinh quá, tôi nhìn thấy cô rõ ràng, mắt to đen, má ửng hồng, hàng mi cong và tóc dài xõa kín bờ vai, nhưng tôi không thể mường tượng ra người học trò tên Tăng đang choáng ngợp vì bàn tay ngà ngọc đưa lên vuốt tóc. Dù nhiều năm sau này, cố tìm người học trò si tình vì cú sét đánh, tôi chỉ thấy thầy Tăng nghiêm trang trên bục giảng bài. Đó là lý do tôi không nghiền ngẫm thơ thầy nhiều như thơ của nhiều tác giả tôi thích khác. Đó là một điều mâu thuẫn trong tôi; dù sao cũng là một kỷ niệm đáng nhớ, một lời tâm tình muộn màng với thầy.
Bù lại, những bài thơ mà người lên tiếng không phải là thầy Tăng mà là các học trò của thầy, nhất là mấy cô học trò dễ thương, tôi ngâm nga không biết bao nhiều lần:
 
Cứ học Toán hoài điên cả đầu!
Thầy ơi! Em dốt toán từ lâu
Sao thầy cứ gọi em lên bảng
Con gái mấy người yêu toán đâu!? (Ghét Toán, Trần Hoan Trinh)
 
Chẳng bao nhiêu người trong đám học trò tự thú nhận là mình không giỏi văn chương hay ngoại ngữ nhưng rất người nhiều người không ngại ngùng khai ra rằng mình dốt toán. Dốt toán không phải là một yếu kém hay một điều đáng trách mà là một sự việc rất thời trang. Dốt toán vì thế là một nét dễ thương, thùy mị, lã lơi… nơi người con gái vì toán là cái gì khô khan, cứng rắn, trơ trọi, không màu sắc, gỗ đá, không tình cảm. Lời trần tình của cô học trò vì vậy rất giản dị, tự nhiên, đi thẳng vào tâm tư người đọc trước khi người đọc nắm bắt trọn ý nghĩa của bài thơ.
Thầy ra bài toán để kiểm tra
Bứt đầu bứt tóc mãi không ra!
Thôi mình nắn nót làm thơ vậy
Thầy thích thơ tình chắc chẳng la! (Kiểm Tra, Trần Hoan Trinh)
 
Làm toán không ra, cô học trò cắn bút, bứt tóc; và dù bứt bao nhiêu sợi tóc, đáp số của bài toán vẫn còn trốn phương nào; cô học trò thôi đành làm thơ. Làm thơ để quên đi những ấm ức trong lòng là chuyện bình thường. Chuyện không bình thường là cô học trò tin rằng nhờ mấy câu thơ đó cô sẽ không bị thầy la. Quả là một ước mơ ngây thơ, xa vời như mây khói; nhưng ước mơ đó là một ý thơ mới lạ, được dùng rất khéo, đúng chỗ, không gượng ép. Thầy không la rầy nhưng gõ đầu cô học trò dốt toán:
Đầu em thờ mẹ thờ cha
Thờ tiên thờ tổ thờ bà thờ ông
Toán sai thầy gõ “cong cong”
Lỡ rồi em xỉu ai bồng em đây?! (Làm Nũng, Trần Hoan Trinh)
 
Thay vì nhận lỗi vì làm bài toán không xong nên bị gõ đầu, cô học trò lại đe dọa ông thầy, “Lỡ rồi em xỉu ai bồng em đây?!” Cô cứ xỉu đi; vị thầy trai trẻ nào dám bồng bế cô học trò giữa lớp học?
Bài thơ đầy hình ảnh và khám phá bất ngờ, truyền đạt dễ dàng cảm xúc của tác giả đến người đọc. Cảm xúc của tác giả là một thứ hạnh phúc lâng lâng, một thứ hạnh phúc thăng hoa từ ước mơ thầm kín, hạnh phúc trong ngôn từ vang vọng trong tâm tư tác giả. Người đọc dễ nhận ra rằng cô học trò dốt toán này thật dễ thương, nhí nhảnh, quả là một nàng thơ. Và trong trí nhớ của đám học trò của thầy, nàng thơ này phải là người học trò nhan sắc, chia xẻ buồn vui thế sự với thầy trong suốt bao nhiêu năm qua cho đến hôm nay.
* * *
Trong một góc bàn viết, tôi để Truyện Kiều, vài tác phẩm của mấy tác giả Quảng Nam, mấy ký sự chiến trường của Phan Nhật Nam, thơ của Bùi Giáng, Luân Hoán và thầy Tăng. Mỗi khi cần quên đi công việc cơm áo hàng ngày, tôi với lấy một vài thứ trong góc đó để đọc và nghĩ ngợi bâng quơ. Từ cái góc bàn đó, tôi đọc Truyện Kiều để nhớ Ba tôi bói Kiều cho hàng xóm mỗi lần Tết đến; tôi đọc Luân Hoán để tìm lại sông Hàn, sông Thu, Cửa Đại và nhiều nơi tôi đã đi qua; tôi đọc Phan Nhật Nam để thấy sự đảm lược và hy sinh cao cả của người lính chiến Miền Nam mà biết bao nhiêu kẻ mù lòa hay cận thị không nhìn ra; tôi đọc Trần Hoan Trinh để tìm về Phan Châu Trinh ngày nào:
 
Em một thuở quần xanh áo trắng
Leo cổng trường trốn học đi rông
Bên cửa lớp mơ đất trời biển lớn
và trong tim nở thắm một môi hoang. (Chiều Một Mình Sân Trường, Trần Hoan Trinh)
 
Và:
 
Đến cuối năm thi lấy Tú Tài
Đứa cười toe toét đứa thở dài
Đứa khăn gói thênh thang Đại học
Đứa lọt quân trường tập một hai. (Một Thời Bè Bạn, Trần Hoan Trinh)
 
Cái góc bàn vô danh đó bỗng nhiên có một cái tên – cái tên mà tôi chỉ thầm nghĩ đến nhưng chưa một lần gọi thành lời – từ ngày tôi tình cờ mua được một bộ sách tại một tiệm bán sách cũ đại hạ giá. Bộ sách quá cũ, nhiều trang mục rã, bốc mùi ẩm mốc khó chịu dù tôi đã phơi nắng nhiều lần nhưng cái nhan đề vẫn còn đậm nét và rất thơ – À la Recherche du Temps Perdu (Tìm Lại Thời Gian đã Mất). Marcel Proust, tác giả của tác phẩm đó, tìm lại quãng thời gian đã mất qua bộ trường thiên tiểu thuyết; tôi người tị nạn, mất quê hương, nhớ nhà, nhớ bạn bè, cố tìm lại quá khứ trong cái góc trên bàn viết.
 
Một sự trùng hợp tình cờ là từ ngày cái góc bàn có cái tên gọi, tôi chán nản và bi quan bội phần vì tương lai đất nước quá đen tối… Tôi đọc thơ chỉ để nhờ ai đó nói lên giúp tôi nỗi buồn da diết vì quê hương mất đi tiếng nói tình người, cả đất nước chẳng mấy ai nói lên lời chân thật, và lũ học trò học lường gạt khi còn ấu thơ… Nhưng mỗi lần cầm thơ của thầy, tôi chỉ nhắm mắt mơ màng nghĩ đến mấy công thức và hình khối tôi tô đậm nét trong lớp toán ngày xưa; thơ thầy không chia sớt với tôi nỗi đau đất nước đang âm ỉ trong lòng tôi.
 
Bẳng đi một thời gian dài bỗng một đêm khó ngủ tôi chợt ngâm khe khẽ “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn, Yên ba thâm xứ hữu ngư châu”. Đó là lời nhắc nhở của Cao Bá Quát rằng xin ai đó đừng hỏi ông về cuộc đời lên xuống mà hãy nhìn vào chỗ khói mịt mờ và sóng dồn dập có chiếc thuyền câu. Đó là tâm sự chán nản thế sự thăng trầm của thi sĩ họ Cao; và đó có thể là tâm sự của thầy Tăng; chắc đúng vậy. Trong cảnh đau thương của đất nước, bỏ qua thế sự thăng trầm và giam mình trong bốn bức tường lớp học là một chọn lựa, một con đường, một lối sống; một lối sống dù bình lặng nhưng vẫn hơn bôn ba ngoài đời mà đêm rằm không có ánh trăng. Xa xa ngoài lớp học đám mây trời lang thang, bên lớp học có con chim nhỏ hót líu lo trên cành sao già, và trên hai tay đám bụi phấn phủ mơ hồ. Thầy Tăng tìm ý thơ trên lối đi từ nhà đến trường nhưng chưa đến trường, thầy làm thơ trên đường vào lớp nhưng chưa vào lớp; thành ra thơ vẫn bâng khuâng, ngập ngừng, không trọn vẹn, như “thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi mới đến trường thời xuân xanh. Năm tháng dồn dập trôi qua, thế sự càng u tối, dòng tâm thức thêm ngổn ngang, thầy muốn xa lánh xã hội:
 
Cũng định lên rừng đốn củi than
Cắt cỏ chăn dê giữa non ngàn
Như người Tô Vũ ngày xưa ấy
Giữ chút lòng son với thế gian!
…..
Cũng muốn lên rừng trốn biệt tăm
Ở hang ăn củ uống sương trăng
Đêm nghe vượn hú nơi cùng cốc
Ngày ngắm mây vần đỉnh núi xanh. (Lên Rừng, Trần Hoan Trinh)
 
Bài thơ mang đầy màu sắc tiêu dao du của Nam Hoa Kinh. Lên rừng thầy chắc lên Trường Sơn. Trường Sơn, tuy không có con cá Côn của Trang Tử, con cá to lớn và khi biến thành con chim Bằng vỗ cánh bay lên cao, đôi cánh che khuất cả bầu trời; nhưng Trường Sơn hùng vĩ, mịt mùng trong sương trăng và nên thơ trong chiều tà. Đường lên Trường Sơn không bao xa vì Trường Sơn gần biển Đông nhưng lên rừng vẫn chỉ là giấc mơ, giấc mơ Trang Châu, giấc mơ Trang Châu Hồ Điệp… Tỉnh giấc mơ, thầy đổi ý:
Thôi tìm một chỗ để ngồi

Nhìn xem thế sự đổi dời đến đâu
Thôi tìm một góc khuất sâu
Nhìn xem suốt cuộc bể dâu một lần. (Nghiêng Mắt, Trần Hoan Trinh)
 
Và cuối cùng, cúi đầu chấp nhận thực tại:
Xin khép lại một trang đời mộng ảo
Vẫy tay chào năm tháng đã đi qua
Mai anh về như con chim trốn bão
Đứng co mình nhớ biển rộng trời xa. (Bài Du Ca Cuối Cùng, Trần Hoan Trinh)
* * *
Ông thầy dạy Toán một thời
Mà thơ tình lại tuyệt vời thế sao!
Như cổ tích, như chiêm bao
Nửa khao khát mộng, nửa ngao ngán đời! (Người Thầy Dạy Toán Làm Thơ, Trần Hoan Trinh)

Không nên hiểu rằng vì đến lúc “bỏ trường mà đi” nên thi sĩ Trần Hoan Trinh cay đắng rồi tự cao như thói thường của vài nhà thơ trẻ tuổi. Đúng hơn, khen thơ Trần Hoan Trinh “tuyệt vời” là lời an ủi ấm lòng nhất mà người học trò dành cho vị thầy dạy toán tận tụy với học trò, một thi sĩ tài hoa, đang ngao ngán sự đời. Thầy ước mơ nhiều cho chính mình và cho đám học trò, ước mơ nhiều nhưng chưa đạt được bao nhiêu vì thời cuộc đổi thay, đen bạc.
Và lời khen thơ “tuyệt vời” đó quả xác đáng. Thơ Trần Hoan Trinh là bức phác họa lớp học và sân trường có tiếng hát ngân nga ngọt ngào, gởi đến đám “trò xưa” lưu lạc khắp nơi trên quê hương và xứ lạ quê người; thơ Trần Hoan Trinh là lời kể lể tự nhiên và chân tình vì hoài cảm và xúc cảm đã hòa với hơi thở thành cuộc sống của tác giả; thơ Trần Hoan Trinh không ồn ào vì đó là lời hòa giải nhẹ nhàng với số mệnh lẻ loi của tác giả gây nên bởi vận nước điêu linh.
 
Nguyễn Phụng (Raleigh, NC 3/2015)
 
(*) Tác phẩm của Trần Hoan Trinh:

Thỏ Thẻ/ Tạ Từ/ Tôi Khóc Em Cười/ Tóc Thề Xõa Xuống Thành Thơ/ Bỏ Trường Mà Đi/ Tóc Trắng Sân Trường/ Tháng Năm Huyền Thoại/ Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp/ Rong Chơi/ Quê Hương Thơ Và Em/ Chảy Bỏng Như Lửa Mặt Trời/ Bỗng Dưng Nhớ Phố Nhớ Phường/ 300 Bài Tứ Tuyệt/ Mùa Hạ Cuối Cùng (truyện ngắn)/ Một Đời Thầy Một Đời Thơ (hồi ký)…

 Thành Kính Phân Ưu cùng gia đình Thầy Trần Đại Tăng 
 
 
GNST vừa nhận được tin buồn
Giáo sư Trần Đại Tăng
tức Nhà Thơ Trần Hoan Trinh  là cựu Giáo Sư trung học Sao Mai Đà Nẵng 
Vừa ra đi ngày 6 tháng 8 năm 2015
lúc 3 giờ chiều tại tư gia Cao Thắng, Đà Nẵng hưởng thọ 79 tuổi
Linh cửu được quàn tại tư gia K33/18 CAO THẮNG, ĐÀ NẴNG và an táng vào ngày 13 tháng 8, 2015.
 
Gia đình GNST xin chân thành chia buồn cùng tang quyến và cùng hợp ý nguyện cầu Thiên Chúa là Cha Nhân Từ sớm đưa Linh hồn Giuse Trần Đại Tăng về hưởng vinh phúc nước Thiên Đàng.
 
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
 
Nhóm GNST
 
 
 photo thay tang02_zpsr3ppfydl.jpg
 
http://i73.photobucket.com/albums/i225/codong/thay%20tang%203_zpsgppf4qdk.jpg
 
 photo Thay Tang 01_zpszrwlrgsp.jpg
 photo that tang4_zps3rx14lxm.jpg
 
    Kiều Hạnh & Bá Kiên sưu tầm tổng hợp    
Xem thêm...
Theo dõi RSS này