Gia chánh

Gia chánh (111)

Mắm, Món Ăn Khó Quên - Hoàng Tiểu Ca

Mắm, Món Ăn Khó Quên 

Hoàng Tiểu Ca

mam vtv online 7042014
 
Ngày còn nhỏ tôi đọc tác phẩm "Rừng Mắm" của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi cứ ngỡ ông muốn ít nhiều nói về những món mắm miền Nam ê hề. Nhưng thật sự không phải vậy. Truyện nói về cây mắm mọc lên hằng hà sa số. Nó tạo ra sự ích nối tiếp về sau qua câu chuyện trao đổi giữa hai ông cháu như sau:
 
"Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
 
- Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi, con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng... Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
 
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong sao cứ chảy hoài,
Thương người xa xứ lạc loài đến đây."
(Bình Nguyên Lộc)
 
Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món ba khía và bồn bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau rất nhiều, người ta dùng làm dưa, gọi là dưa bồn bồn. Còn ba khía và còng được làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm, những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm, và dĩ nhiên trong tầm hồn yêu mắm. Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm Thái Châu Ðốc, tôm chua Gò Công... Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc của miền Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía,... Hãy nói về ba khía đi nhé.
 
 
Ba khía: Ba khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái tên cúng cơm là ba khía. Từ miệt Sóc Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những cánh rừng mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm ba khía. Từ tháng Tám trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi bắt ba khía. Người bắt ba khía phải canh theo con nước, lúc nước lớn, ba khía bám đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập ở trên. Vào khoảng tháng Mười là mùa ba khía sinh sản nhiều vô số kể. Đi bắt ba khía rất vui vì phải đi ban đêm, bởi vào tối khuya ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là chộp dính ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về với những khạp đầy ba khía. Người biết rành về còng và ba khía thì tháng Năm hàng năm thì ba khía cái có trứng đeo đầy sau yếm, các thiếm ba khía mập mạp, đô con và chắc thịt.
 
Ba khía mang về đem ngâm nước, rửa thật sạch đất bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng, gọng cũng bẻ rời, đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường, chanh hoặc dùng khóm bằm nhuyễn, xong ngâm hỗn hợp một buổi cho ba khía thật thấm. Khi vị ba khía được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì ba khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng thức. Cách ăn ba khía là tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để chiêm ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn chung. Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn ba khía phải ăn với cơm nguội mới đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi, vài lát gừng sống vừa nhai cho âm ấm bụng - huhu... - để mắt nhòa lệ vì nồng độ cay cay dâng tràn bờ mi quyện vào mùi thơm nhớ đời ba khía.
 
 
Mắm còng: Bàn về món mắm còng, theo Giáo Sư Trần Văn Chi viết trong bài "Hương vị Miền Nam: Mắm Còng", đất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre. Con còng ở Gò Công kêu là "còng quều", thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm...
 
Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công.” Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ.
 
Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày Mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột. Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết "bọng cứt"... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng "uống rượu", nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh. Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.... Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi...
 
Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào. Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để "cách nhựt", ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon. Theo Giáo Sư Xuân Tước kể về Đặc Sản Quê nhà, ông đề cập về món mắm còng như sau: Người ở vùng sông Cửu Long thường hát:
 
"Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa."
 
Rẫy là một vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, người ta thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm khóm, và cũng là vùng sinh sống lý tưởng cho các loại còng...
 
 
 Mắm Còng món ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất nằm theo vùng biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi danh vì đây là vùng quê cha của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho vua Thiệu Trị về sau này là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần biển nên các vùng đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại còng. Nhưng đáng giá nhất là còng đỏ. Loại còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn sản xuất mắm còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất hiếm có. Không phải nơi nào cũng có thể làm mắm còng. Hai nơi quan trọng là vùng biển Gò Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có nhiều còng đỏ hơn Bến Tre.
 
Không phải mùa nào cũng có thể làm mắm còng. Thấy còng nằm đỏ bãi sông, nhưng không ai bắt còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt còng lột mà thôi. Và mỗi năm còng chỉ lột có một lần vào ngày Mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò Công đi bắt còng lột. Mà là những trũng nước nhỏ để còng vùi mình xuống đó mà lột. Người ta quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch, nhìn chỗ nào có còng là ghé lại, bắt một con còng mềm nằm dưới. Còng lột được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi còng đã thấm mặn thì người ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm còng:
 
- Còng lột được rửa sạch, đong 10 chén còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối quết cho dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi khai nồng. Đem phơi chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt còng đem phơi cho quánh lại thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì trộn còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt.
 
- Còng lột được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử trùng, đong hai chén còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn chung rồi cho vào hũ, đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm chanh, khóm, đường, tỏi ớt.
 
Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến các vùng chợ, mắm còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm còng cho ngon, cũng phải trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và ăn với nhiều rau sống, như: húng cây, húng lũi, tía tô, kinh giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm còng mà ăn với bún thì ngon tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt Nam, mắm còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh... trộn với một chút mắm còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm đà của quê hương.
 
 
Mắm tôm chà: Nghề làm mắm tôm chà xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng Từ Dũ cùng gia đình đã chế biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà Nguyễn. Bà Từ Dũ nhủ danh Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do hương vị đặc trưng từ Gò Công của Hoàng thái hậu mà được triều đình Huế thường dùng để tiếp đãi khách trong các buổi yến tiệc, những dịp lễ lạc. Món mắm tôm chà đã chào đời vào khoảng 200 năm.
 
 
 
Mắm tôm chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở sông, hay có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi, nếu còn sống càng tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có lỗ thật nhỏ để chắt lấy nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất của tôm được đệm thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất một tuần dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm tôm chà mịn màng thơm dịu.
 
Mắm tôm chà có thể dùng nguyên chất hoặc có thể pha thêm tỏi, ớt băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với bún, thịt luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát. Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hỗn hợp mắm tôm cùng bún và rau.
 
****
Trong Thú ăn chơi Tản Đà tiên sinh đã viết: "Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long Xuyên, cùng ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm thiệt ngon". Do vậy, xin kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa:
 
 
* Mắm cá linh: Cá linh còn có thể làm mắm. Cá làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau dùng vỉ tre gài chặt xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho vào hũ gài chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi đổ vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được. Mắm cá linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá, tôm, thịt ba rọi thái mỏng và cà tím.
 
 
 * Mắm cá trèn: Mắm cá trèn được xem ngon hơn mắm cá linh. Mắm cá trèn ăn vơi bún, thịt ba rọi luộc và rau sống.
 
* Mắm thái: Mắm thái được làm bởi cá lóc loại to, thịt nhiều được thái filet. Cá được ngâm muối. Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng không cứng quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1 năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho có chỉ rồi thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon của con mắm. Dùng mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành sợi, màu thính phải tươi, hạt thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải là đu đủ mới, còn xanh, bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để khoảng 10 ngày cho hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho sợi mắm không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ.
 
 
* Mắm ruột: Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm phải là loại cá lóc to, ngon nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng ươm. Cá được làm sạch phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch ruột cá xong, ruột cá được rửa, ngâm nước muối. Cách pha nước muối cũng là một kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém thật chặt. Kế đến chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm đà. Người ta thường ướp ruột cá và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó đem chao với đường thốt nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị của món mắm ruột tỏa ra rất thơm. Để có hũ mắm thật ngon, trung bình phải mất 4 tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế, chuối chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt ba rọi luột thái mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén nước mắm chua chua ngọt ngọt thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng tùy sở thích.
 
 
* Mắm xé: Mắm xé ngon nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc... Ngày xưa khi tôi được dịp ghé thăm các tỉnh miền tây, bà con hay bạn bè mời ăn món bình dân nhưng độc đáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa leo, xoài bằm, dứa, mít non, khế, chuối lát cắt lát... đừng quên ớt hiểm thật cay vị giác. Khi ăn vào hỗn hợp của vị chua, chát, ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá.
 
 
* Mắm kho: Mắm cá sặc hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông lau hay cá catfish, tôm, mực, cà tím,... Vị cá mắm thấm ngấm vào cá, tôm, mực và thịt. Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau đắng, bắp chuối, ngó sen, rau muống chẻ, giá, bông súng, bông so đũa, bông điên điển, xoài sống,... Mắm kho ăn với cơm hoặc bún.
 
 
 * Lẩu mắm: lẩu mắm như món mắm kho nêu trên về cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi sục liên tục. Thịt, cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau như các loại ở quê nhà: đọt nhút, rau dừa, bông so đũa, bông súng, bông điên điển, bắp chuối,... và đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, xoài chua. Món này nên ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng
 
 
 * Mắm ruốc: Mắm ruốc là mắm làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn, thơm mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền Trung hay Vũng Tàu. Tuy mắm ruốc trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống mắm tôm. Mắm ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước, chanh, đường tỏi ớt khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba rọi với sả ớt.
 
oOo
Trong suốt bài này, mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của người miền Nam. Vì các loại mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát từ miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía cạnh của văn hóa. Như vậy mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy, nó phản ảnh từ nơi xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo làn sóng và cuộc sống lưu lạc của người Việt Nam ly hương ngày nay. Thật vậy, mắm là di sản quê hương.
 
 
Hoàng Tiểu Ca
 
Ngọc Lan sưu tầm
 
Xem thêm...

NHỮNG MÓN NGON TỪ BÔNG BÍ BỔ DƯỠNG, NỔI TIẾNG Ở MIỀN TÂY

NHỮNG MÓN NGON TỪ BÔNG BÍ BỔ DƯỠNG,

NỔI TIẾNG Ở MIỀN TÂY

Ẩm thực miền Tây độc đáo, dân dã với các món ăn được chế biến từ những loại hoa. Trong số đó phải kể đến những món ngon từ bông bí vừa có hình thức hấp dẫn, vừa bổ dưỡng tuyệt vời.



Những món ngon từ bông bí bổ dưỡng, nổi tiếng ở miền Tây

1. Bông bí xào tỏi

Bông bí xào tỏi nằm trong danh sách những món ngon từ bông bí ở miền Tây. Đây là món ăn quen thuộc trong bữa cơm của nhiều người dân nơi đây. Chỉ cần nguyên liệu đơn giản gồm: bông bí và tỏi là đã có thể cho ra một đĩa rau xào thơm ngon, đầy đủ dinh dưỡng. Bông bí khi xào cùng tỏi sẽ có được mùi thơm đặc trưng, phần bông thơm ngọt tự nhiên rất thích hợp cho những bữa cơm gia đình hằng ngày.

Ảnh: cookbeo.com

2. Bông bí chiên giòn chay

Bông bí chiên giòn là món ngon từ bông bí siêu hấp dẫn cả về hình thức bên ngoài và hương vị. Bông bí vốn đã ngọt thơm khi chiên cùng lớp bột giòn khiến cho món ăn càng trở nên cuốn hút hơn. Phần bông bí bên trong mềm, bên ngoài có lớp bột giòn, thơm, khi ăn bạn có thể chấm cùng tương ớt để tăng thêm độ ngon cho món ăn.


3. Bông bí nhồi chả cá chiên giòn

Bên cạnh bông bí chiên giòn chay, người dân miền Tây đã chế biến ra món ăn hấp dẫn không kém là bông bí nhồi chả cá chiên giòn. Đây cũng là món ngon từ bông bí mà bạn nhất định phải thử qua một lần. Bông bí nhồi chả cá chiên giòn không chỉ xuất hiện trong bữa cơm gia đình mà còn xuất hiện cả trong thực đơn tại nhà hàng tiệc cưới.

Ảnh: Cooky.vn

Để làm món bông bí nhồi chả cá chiên giòn ngon, bạn cần phải chọn phần chả cá tươi, dai để khi chiên sẽ có hương thơm đặc trưng và phần bông bí cần được lựa chọn những bông to để dễ nhồi phần thịt gọn bên trong. Sau khi đã nhồi các nguyên liệu vào phần bông bí, bạn cần chiên chúng trong chảo dầu thật sôi và ngập thì bông bí mới giòn và thơm ngon. Ăn cùng với món này là tương ớt hoặc tương cà để tăng thêm hương vị kích thích vị giác.

4. Bông bí xào tôm

Ảnh: monanngon.vn

Bông bí xào tôm nghe qua có vẻ đơn giản nhưng lại là món ăn vô cùng thơm ngon và ấn tượng. Vị ngọt thơm tự nhiên của bông bí vàng, vị ngọt thịt của tôm, hòa quyện vào nhau tạo nên một món ăn hấp dẫn không thể chối từ trong những bữa cơm. Để món bông bí xào tôm ngon hơn, người nấu nên chọn tôm thật tươi và làm sạch tôm, sau đó xào sơ chúng với tỏi để dậy vị rồi mới cho phần bông bí vào, như vậy phần bông bí sẽ giòn, ngon hơn và không bị chín quá mức, món ăn sẽ trông hấp dẫn hơn và vẫn giữ được chất dinh dưỡng.

5. Lẩu cá thác lác bông bí

Ảnh: Ngô Tuyết Phượng
 
Ảnh: FB Diem Hien
 
Lẩu cá thác lác bông bí là món ăn đặc trưng của người dân miền Tây. Món ăn với 2 nguyên liệu chính là cá thác lác và bông bí, được nấu cùng nhau tạo nên hương vị thơm ngon mà bất cứ ai khi thử qua cũng phải tấm tắc khen. Khi thưởng thức, phần nước lẩu cá thác lác sẽ có vị ngọt thơm, không hề bị tanh; phần thịt cá mềm, có thể cho thêm chả cá vào ăn cùng sẽ tạo cảm giác dai dai, lạ miệng. “Linh hồn” của món ăn này nằm ở phần bông bí, bông bí thơm khi ăn cùng lẩu sẽ có độ giòn giòn, ngọt ngọt, càng ăn càng bị cuốn hút.

Theo: ivivu
 
------------------
 

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu

 

Bữa cơm với bông bí xào tỏi ăn kèm với chén nước mắm tỏi ớt pha chua ngọt, mà đứa nào đứa nấy ăn ngon lành.

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu - 1

Bông bí xào tỏi

 Ngày trước trong vườn má tôi trồng rất nhiều loại rau bởi theo má rau nào ăn vào cũng nên thuốc, làm đẹp da, giải nhiệt, cung cấp nhiều chất dinh dưỡng tốt cho sức khỏe… Không biết có phải má tôi muốn nói vậy cho mấy đứa con gái điệu đàng của má vì mê cái khỏe, cái đẹp ăn nhiều rau, mà không phải thắc mắc: "Sao bữa cơm nhà mình chỉ toàn là rau không có thịt cá gì hết vậy má?".

Trong "rừng" rau ấy tôi khoái nhất là bông bí rợ vì được má trồng quanh năm. Dây và lá bí có nhiều lông tơ nhám bao phủ bên ngoài, đến khi trổ bông chúng cho ra những bông hoa vàng rực rỡ đẹp vô cùng. Cứ sáng sớm tinh mơ là tôi xách cái rổ tre nhảy chân sáo ra đám bí ngoài vườn, thả hồn ngắm lũ ong bướm lượn lờ bay đến hút mật, rồi hít thở thật sâu mùi thơm nhè nhẹ của hoa lan tỏa trong bầu không khí mát rượi. Thơ thẩn chán chê một hồi, tôi mới bắt đầu hái những bông đực tươi rói còn đọng những giọt sương đêm, đem vô cho má chế biến món ăn cho cả nhà. Sở dĩ tôi hái bông bí đực vì loại này khi nở hoa chúng chỉ có tác dụng giúp hoa cái thụ phấn, sau đó hoa sẽ tự tàn lụi nếu không hái thật là uổng phí.

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu - 2

Bông bí vàng trông thật đẹp mắt

 Bông bí hái vô ngắt bớt cuống và tước vỏ lụa bên ngoài, bỏ đài hoa và nhụy bên trong, rồi ngâm sơ với nước muối pha loãng chừng vài phút, sau đó xả nước lạnh cho sạch, để vô rổ cho ráo nước. Bông bí luộc chấm trứng lòng đào dầm nước mắm ngon nguyên chất hoặc nước thịt cá kho… ngon không chê vào đâu được. Ngoài ra bông bí có thể xào tỏi, nấu canh tép, canh thịt bằm, nhúng bột chiên giòn, cao cấp hơn dùng để ăn lẩu… kiểu gì cũng hút hồn người thưởng thức.

Những hôm mưa dầm không tiện đi chợ, trong nhà cạn kiệt thức ăn dự trữ, để "chữa cháy" má tôi hay làm món bông bí xào tỏi cho bữa cơm gia đình. Món này nguyên liệu đơn giản mà chế biến nhanh gọn, chỉ cần cho chút dầu vào chảo phi thơm với tỏi, rồi cho bông bí đã lặt rửa sạch sẽ vào xào với lửa lớn, dùng đũa đảo nhanh tay, rồi nêm chút muối, đường và bột ngọt cho vừa ăn. Xào bông bí vừa chín tới là trút ra dĩa rắc chút tiêu xay là đã có món ăn hấp dẫn. Bông bí khi chín vị ngọt thơm vô cùng và nhai giòn giòn ngon hết ý. Bữa cơm chỉ duy nhất một món bông bí xào tỏi ăn kèm với chén nước mắm tỏi ớt pha chua ngọt, mà đứa nào đứa nấy ăn ngon lành, chỉ trong phút chốc nồi cơm hết sạch.

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu - 3

Bông bí là món ăn dân dã

Giờ đây bông bí không còn là "đặc sản" miền quê nữa bởi các chợ ở Sài thành bán đầy. Lâu lâu nhớ quê, nhớ món bông bí rợ xào tỏi dân dã ngày nào, tôi mua một bó về chế biến cho cả nhà cùng thưởng thức. Mà sao tôi ăn không còn cảm nhận được vị thơm ngọt như xưa nữa. Phải chăng do hồi nhỏ thiếu thốn nên ăn gì cũng thấy ngon hay là ngày nay người ta trồng bí trên diện rộng, thu hoạch số lượng lớn để bán, nên sử dụng nhiều phân thuốc để kích thích bông lớn hơn thu hút thị hiếu người tiêu dùng, vì lẽ đó mà đã làm mất đi mùi vị nguyên thủy của nó.

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu - 4

Bông bí xào tỏi

Ngày trước trong vườn má tôi trồng rất nhiều loại rau bởi theo má rau nào ăn vào cũng nên thuốc, làm đẹp da, giải nhiệt, cung cấp nhiều chất dinh dưỡng tốt cho sức khỏe… Không biết có phải má tôi muốn nói vậy cho mấy đứa con gái điệu đàng của má vì mê cái khỏe, cái đẹp ăn nhiều rau, mà không phải thắc mắc: "Sao bữa cơm nhà mình chỉ toàn là rau không có thịt cá gì hết vậy má?".

Trong "rừng" rau ấy tôi khoái nhất là bông bí rợ vì được má trồng quanh năm. Dây và lá bí có nhiều lông tơ nhám bao phủ bên ngoài, đến khi trổ bông chúng cho ra những bông hoa vàng rực rỡ đẹp vô cùng. Cứ sáng sớm tinh mơ là tôi xách cái rổ tre nhảy chân sáo ra đám bí ngoài vườn, thả hồn ngắm lũ ong bướm lượn lờ bay đến hút mật, rồi hít thở thật sâu mùi thơm nhè nhẹ của hoa lan tỏa trong bầu không khí mát rượi. Thơ thẩn chán chê một hồi, tôi mới bắt đầu hái những bông đực tươi rói còn đọng những giọt sương đêm, đem vô cho má chế biến món ăn cho cả nhà. Sở dĩ tôi hái bông bí đực vì loại này khi nở hoa chúng chỉ có tác dụng giúp hoa cái thụ phấn, sau đó hoa sẽ tự tàn lụi nếu không hái thật là uổng phí.

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu - 5

Bông bí vàng trông thật đẹp mắt

Bông bí hái vô ngắt bớt cuống và tước vỏ lụa bên ngoài, bỏ đài hoa và nhụy bên trong, rồi ngâm sơ với nước muối pha loãng chừng vài phút, sau đó xả nước lạnh cho sạch, để vô rổ cho ráo nước. Bông bí luộc chấm trứng lòng đào dầm nước mắm ngon nguyên chất hoặc nước thịt cá kho… ngon không chê vào đâu được. Ngoài ra bông bí có thể xào tỏi, nấu canh tép, canh thịt bằm, nhúng bột chiên giòn, cao cấp hơn dùng để ăn lẩu… kiểu gì cũng hút hồn người thưởng thức.

Những hôm mưa dầm không tiện đi chợ, trong nhà cạn kiệt thức ăn dự trữ, để "chữa cháy" má tôi hay làm món bông bí xào tỏi cho bữa cơm gia đình. Món này nguyên liệu đơn giản mà chế biến nhanh gọn, chỉ cần cho chút dầu vào chảo phi thơm với tỏi, rồi cho bông bí đã lặt rửa sạch sẽ vào xào với lửa lớn, dùng đũa đảo nhanh tay, rồi nêm chút muối, đường và bột ngọt cho vừa ăn. Xào bông bí vừa chín tới là trút ra dĩa rắc chút tiêu xay là đã có món ăn hấp dẫn. Bông bí khi chín vị ngọt thơm vô cùng và nhai giòn giòn ngon hết ý. Bữa cơm chỉ duy nhất một món bông bí xào tỏi ăn kèm với chén nước mắm tỏi ớt pha chua ngọt, mà đứa nào đứa nấy ăn ngon lành, chỉ trong phút chốc nồi cơm hết sạch.

Bông bí xào tỏi của ngày thơ ấu - 6

Bông bí là món ăn dân dã

Giờ đây bông bí không còn là "đặc sản" miền quê nữa bởi các chợ ở Sài thành bán đầy. Lâu lâu nhớ quê, nhớ món bông bí rợ xào tỏi dân dã ngày nào, tôi mua một bó về chế biến cho cả nhà cùng thưởng thức. Mà sao tôi ăn không còn cảm nhận được vị thơm ngọt như xưa nữa. Phải chăng do hồi nhỏ thiếu thốn nên ăn gì cũng thấy ngon hay là ngày nay người ta trồng bí trên diện rộng, thu hoạch số lượng lớn để bán, nên sử dụng nhiều phân thuốc để kích thích bông lớn hơn thu hút thị hiếu người tiêu dùng, vì lẽ đó mà đã làm mất đi mùi vị nguyên thủy của nó.

 
 
 
Nam Mai sưu tầm
 
Xem thêm...

ĐẶC ĐIỂM, TÊN GỌI 16 LOẠI CÁ LÀM SASHIMI NHẬT BẢN

 ĐẶC ĐIỂM, TÊN GỌI 16 LOẠI CÁ

LÀM SASHIMI NHẬT BẢN

Sashimi có thể đề cập đến hầu hết mọi loại thịt sống, kể cả thịt bò, thịt gà và thậm chí cả ngựa, tuy nhiên cá và hải sản là những món phổ biến nhất được ăn theo cách này. Sashimi được làm bằng cách cắt các nguyên liệu thành hình chữ nhật vừa ăn, lát chéo mỏng, hình vuông nhỏ chắc hoặc miếng thái sợi mỏng, phần cắt được chọn có thể làm thay đổi hương vị đáng kể.


Các loại cá làm Sashimi
 
Sashimi cá hồi - Sake

Cá hồi rất phổ biến với mọi người trên khắp thế giới, không chỉ mang lại hương vị thơm ngon mà màu cam tươi sáng còn khiến món ăn này trông bắt mắt hơn. Cá hồi chứa nhiều vitamin B và axit béo Omega-3, cả hai đều mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Ảnh: Matsuhisa

Tại các nhà hàng Nhật, Sashimi cá hồi thường được gọi là Sake Sashimi. Hai phần thường được phục vụ tại nhà hàng là lườn cá hồi (nạc hơn) và bụng cá hồi (thơm và béo).

Sashimi trứng cá hồi - Ikura

Trứng cá hồi – Ikura màu cam đỏ bắt mắt trông như những viên ngọc, có kết cấu mềm, vị mặn và hơi tanh, có tiếng pop thỏa mãn và dễ nghe khi bạn cắn vào. Ikura cũng là một trong những nguyên liệu tốt cho sức khỏe mà bạn có thể thưởng thức.

Ảnh: Kinsa

Sashimi cá ngừ

Sashimi cá ngừ Maguro

Cá ngừ vây xanh là một trong những loại phổ biến nhất để làm món sashimi vì nó có thể ăn sống và nấu chín. Nó chứa rất nhiều axit béo Omega-3, rất tốt cho sức khỏe tim mạch, đó là lý do tại sao đây là một lựa chọn phổ biến. Mỗi bộ phận của cá ngừ có tên và ý nghĩa khác nhau.

Otoro là phần bụng béo của cá ngừ mang đến cảm giác tan chảy trong miệng của bạn. Chutoro là phần thăn trên với hàm lượng chất béo trung bình và có màu đỏ sẫm. Akami là trung tâm của cơ thể và ít chất béo, nhưng vẫn rất ngon và tốt cho sức khỏe.

Ảnh: KKday

Sashimi cá ngừ Katsuo

Katsuo là một trong những loại cá ngừ phổ biến nhất ở Nhật Bản, một trong những cách ăn phổ biến nhất của nó là kiểu katsu no tataki, làm cháy nhẹ bên ngoài, bên trong vẫn còn sống, ăn kèm với ponzu và tỏi hoặc gừng.

Sashimi cá trích ép trứng - Kanzunoko Nishin

Đây là món ăn được tạo ra chứ không có trong tự nhiên, bao gồm filet cá trích ngâm giấm sau đó ép trứng cá chuồn vào những lát cá đó. Vị thơm mềm của cá hòa quyện cùng vị giòn của trứng cá mang đến một trải nghiệm ẩm thực khó quên.


Sashimi cá thu - Shime Saba

Cá thu là một loại cá sashimi tuyệt vời vì thịt chắc, nhiều dầu và hương vị béo. Hương vị phức tạp, phong phú của cá thu cùng với nồng độ axit béo cao mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Tuy nhiên, giống như bất kỳ loại cá nào được sử dụng trong nấu ăn Nhật Bản, biết cách chọn, cắt và phân loại cá là rất quan trọng để mang lại lợi ích về sức khỏe và hương vị.

Ảnh: Hokkai

Sashimi cá hồng – Kinmedai

Loại Sashimi cá hồng đặc biệt này thường được phục vụ với phần da của nó vẫn còn nguyên. Da được làm khô nhẹ theo phong cách "aburi" để làm mềm da và giải phóng hương vị umami. Một phương pháp chuẩn bị khác gọi là kawashimozukuri liên quan đến việc trụng nước sôi lên da để làm mềm da, sau đó nhanh chóng làm lạnh bằng nước đá.

Thịt của Kinmedai mềm, với hàm lượng chất béo tốt với hương vị nhẹ nhàng, tinh tế nhưng đầy đủ vị umami.


Sashimi cá đuôi vàng – Hamachi

Chất béo là một điều tốt khi nói đến cá. Cá đuôi vàng là một trong những nguồn axit béo omega-3 phong phú nhất và rất giàu protein. Đây là những chất béo tốt có nhiều lợi ích cho sức khỏe, chẳng hạn như hạ huyết áp, giảm viêm và thậm chí cải thiện tâm trạng. Nó cũng chứa rất nhiều vitamin và khoáng chất, như B12, B6 và selen.

Ảnh: Catalina

Sashimi cá bơn – Ohyo

Món sashimi làm từ cá bơn này ngon nhất khi được thái thành những lát cực kỳ mỏng. Nó có hương vị nhẹ, nhưng chứa nhiều collagen, rất tốt cho sức khỏe làn da của bạn.


Sashimi cá Hirame

Đây là một món ăn phổ biến trong các nhà hàng, thịt cá có màu trắng đẹp mắt. Trái ngược với miếng phi lê phía dưới, miếng phi lê phía trên có vẻ trong mờ. Khi so sánh với các loại cá khác, chẳng hạn như cá thu, thì cá Hirame mang lại hương vị rất tinh tế và êm dịu.

Ảnh: Reddit

Sashimi cá chẽm – Suzuki

Sashimi cá chẽm có vị ngọt và hơi cứng, tuyệt vời cho sushi và sashimi. Dùng cùng với nước cốt chanh và muối biển thay vì nước tương sẽ thưởng thức được hương vị thanh lịch hơn.


Sashimi cá tráp – Tai

Cá Tai là loại cá trắng thịt săn chắc, hương vị rất dịu. Nhiều người nhận thấy nó có hương vị rất dễ chịu, đặc biệt là những người mới làm quen với sushi vì nó không có nhiều vị tanh. Thịt cá nạc trong hầu hết thời gian trong năm và chỉ phát triển một lượng nhỏ chất béo vào những tháng cuối mùa xuân và đầu mùa hè.

Ảnh: Tripadvisor

Sashimi cá nục - Aji

Thịt cá nục Aji có màu hồng và săn chắc. Nó cũng mọng nước, nhiều chất béo và có vị đậm đặc trưng. Giống như các loại cá da bạc khác, Aji đặc biệt ngon sau khi ướp muối và ngâm giấm, phương pháp này không chỉ bảo quản và hấp thụ hương vị đậm đà mà còn làm tăng hương vị và giảm vị “tanh”.


Sashimi cá nóc - Fugu Sashi

Fugu-sashi - sashimi cá nóc, nổi tiếng là món ăn cao cấp ở Nhật Bản. Sử dụng những lưỡi dao đặc biệt mỏng được gọi là fugu hiki, chỉ những đầu bếp được đào tạo và có giấy phép hành nghề mới được phép tách nội tạng độc của cá nóc ra khỏi phần thịt trắng mỏng manh của nó. Các lát trong mờ sau đó được sắp xếp một cách nghệ thuật, thường tôn lên hoa văn của phần đĩa đựng bên dưới với cách trình bày hình tròn, giống bông hoa đang nở rộ.

Ảnh: Living in Japan

Một số nhà hàng chuyên về fugu-sashi chỉ phục vụ món ăn từ tháng 10 - tháng 3, khi cá fugu béo lên để sống qua những tháng mùa đông lạnh giá.

Sashimi cá Kanpachi

Nếu bạn ăn sushi thường xuyên, có khả năng bạn đã bắt gặp món Kanpachi. Nó là "anh em họ gần" của Hamachi, và cả hai đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Nhưng chúng không giống nhau.

Kanpachi là một loại cá nhiều thịt với kết cấu săn chắc. Nó có vị ngọt nhẹ, không tanh, bụng là phần béo nhất của cá. Nó mềm hơn một chút nhưng vẫn cứng hơn Hamachi.


Các loại hải sản làm Sashimi

Không chỉ là cá mà nhiều loại hải sản khác cũng được sử dụng làm Sashimi bởi hương vị tươi ngon, nhiều chất dinh dưỡng đến từ biển khơi.

Sashimi mực - Ika no Sashimi

Do lớp da dày, một đầu bếp sushi giỏi sẽ cắt lát Ika mỏng vừa ăn. Miếng mực có vị ngọt tuyệt vời tăng dần khi nhai và mang đến hương thơm tươi mát của đại dương.


Sashimi nhum biển - Uni no Sashimi

Uni mềm hơn hàu và thực sự không cần phải nhai nó. Bạn cho một miếng vào miệng và nó dễ dàng tan ra để có thể mang đến hương vị mặn và ngọt dịu đậm đà khó giải thích.

Sashimi sò điệp – Hotate

Sò sống, được gọi là Hotate trong tiếng Nhật có kết cấu mềm và hương vị nhẹ rất phù hợp với một giọt nhỏ cam quýt như chanh và một lượng nhỏ nước tương, mang đến sự kết hợp hoàn hảo.

Ảnh: Tripadvisor

Sashimi bào ngư - Awabi no Sashimi

Thịt của bào ngư là thịt cơ nên kết cấu chắc. Phần thịt thực chất là cơ chân, giúp bào ngư tự di chuyển trong tự nhiên. Trong văn hóa Nhật Bản, bào ngư được ăn sống, hấp, ướp muối, luộc hoặc hầm trong nước tương. Hương vị của Awabi rất tinh tế và nhẹ nhàng, kết cấu hơi dẻo của nguyên liệu cho phép ăn sống. Nấu bào ngư sẽ chỉ làm tăng độ dai của phần thịt vốn đã săn chắc.


Sashimi bạch tuộc - Tako no Sashimi

Tako no Sashimi là món bạch tuộc sống thái lát. Chúng ta có thể ăn món này ở các Kappo-ten (nhà hàng kiểu Nhật) hay các Izakaya (quán rượu kiểu Nhật) đặc biệt ở Nhật.

Ảnh: The Blue Fish

Sashimi tôm – Ebi

Có một số loại tôm phổ biến để làm sashimi, trong khi ebi (tôm đỏ) có nhiều chất béo và kuruma ebi (tôm sú Nhật Bản) được coi là một món ngon mà bạn có thể ăn đã miệng.


Sashimi sò đỏ - Hokkigai

Hokkigai được phục vụ lý tưởng dưới dạng sashimi, một món ăn tinh tế của Nhật Bản với hương vị đặc biệt và mùi thơm nhẹ. Nó có một kết cấu giòn và ngọt vị hải sản, chứa nhiều chất dinh dưỡng giàu protein và axit béo Omega-3, và tương đối ít calo.

Ảnh: freepik

Các loại thịt làm Sashimi
 
Sashimi thịt bò

Thịt bò cao cấp với phần thịt xen kẽ với những dải mỡ trắng, mỏng, rất ngon khi ăn sống. Bạn cũng có thể lấy các bộ phận khác của con bò để ăn sống. Đi đến Sendai, thành phố được biết đến với nhiều món ngon địa phương, bao gồm cả sashimi lưỡi bò.


Sashimi thịt ngựa – Basashi

Tập tục ăn thịt ngựa không phải là điều gì mới ở Nhật Bản. Nó được tiêu thụ vào cuối những năm 1500 khi Nhật Bản đang đối mặt với tình trạng thiếu lương thực. Để có hương vị ngon nhất, thịt sống được ăn với gừng nạo và nước tương ngọt.

Ảnh: winter play

Sashimi gà - Torisashi

Torisashi là món sashimi gà sống, được làm bằng cách thái thịt gà đôi khi chỉ được làm sém nhẹ bên ngoài, trong khi bên trong vẫn còn màu hồng, Đó là một món ngon của vùng Kagoshima và quận Miyazaki ở Kyushu (miền nam Nhật Bản). 

Gà cho món Torisashi không phải là gà bình thường, các nhà hàng cần tìm những nhà cung cấp thịt tươi và chất lượng cao nhất, sau đó được giết mổ và bảo quản đúng cách để tránh nhiễm vi khuẩn.


Natsume / Theo: kilala
 
Ngọc Lan sưu tầm
 
 
 
Xem thêm...

BÁNH CHƯNG TRANH KHÚC - TỪ NGHỀ LÀNG ĐẾN LÀNG NGHỀ

BÁNH CHƯNG TRANH KHÚC -

TỪ NGHỀ LÀNG ĐẾN LÀNG NGHỀ

Bánh chưng là một món ăn truyền thống của người Việt, thuở xưa thì vào mỗi dịp Tết đến xuân về, đến bây giờ có mặt quanh năm trên những mâm cỗ thường ngày. Vì vậy, gói bánh chưng đã trở thành nghề mưu sinh của nhiều gia đình ở làng Tranh Khúc. Những chiếc bánh chưng Tranh Khúc dẻo, thơm ngon không chỉ là hương vị quen thuộc của người dân Hà Nội mà còn đối với nhiều khách thập phương.


Bánh chưng Tranh Khúc

Giữ nghề truyền thống

Nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 15km, thuộc vùng ven sông Hồng, làng Tranh Khúc (xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì) dường như hoàn toàn khác biệt với khu vực nội thành nhộn nhịp, tập nập. Làng Tranh Khúc vẫn mang một dáng vẻ đặc trưng của vùng quê yên bình gắn với hình ảnh cổng làng cổ kính, quán nước, cây đa… Và nơi đây còn nổi tiếng với nghề làm bánh chưng truyền thống.

Khi được hỏi nghề bánh chưng xuất hiện từ khi nào, ông Nguyễn Văn Bảy (72 tuổi), cho biết: “Người dân trong làng không ai có thể nhớ chính xác nghề bánh chưng của làng Tranh Khúc có từ thời nào, bởi vì từ những năm 1969-1971 mưa lũ đã cuốn trôi hết gia phả của làng. Chỉ biết rằng đây là nghề do ông cha truyền lại. Cứ như vậy từ đời này sang đời khác, nghề gói bánh chưng vẫn được gìn giữ qua bao thế hệ, tạo nên thương hiệu bánh chưng Tranh Khúc nổi tiếng.”

Ông Nguyễn Văn Bảy, người gói bánh lâu năm trong làng Tranh Khúc.

Hiện nay, tại làng Tranh Khúc có khoảng hơn 200 hộ sản xuất bánh chưng, mỗi hộ thường có 3-4 người lao động nhưng chủ yếu là các thành viên trong gia đình. Mỗi người phụ trách một công đoạn từ rửa lá, vo gạo, đãi đỗ, ướp thịt làm nhân… tất cả đều tập trung vào công việc của mình. Gói bánh chưng không khó, nhưng từng công đoạn phải thật tỉ mỉ, kỹ lưỡng.

“Ở làng Tranh Khúc người dân chủ yếu làm nghề bánh chưng để kiếm sống chứ không có mấy người đi làm công nhân. Tôi làm bánh chưng cũng được gần 50 năm, nói đúng hơn là làm từ những năm kháng chiến chống Pháp, nhưng đến năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ tôi đi lính, còn người dân trong làng phiêu bạt khắp nơi hầu như không ai làm nghề nữa. Sau năm 1975 hoà bình lập lại, thì tôi cùng với dân làng mới trở về quê bắt đầu khôi phục lại nghề bánh chưng cho làng”, ông Bảy cho biết thêm.

Giữa hàng trăm làng nghề truyền thống đang dần bị mai một, nhọc nhằn giữ lấy nghề thì làng bánh chưng ngược lại, người dân nơi đây đã tìm được con đường phát triển và đưa sản phẩm truyền thống này ngày càng phát triển hơn trong đời sống hiện đại.

Nhờ đó mà làng nghề Tranh Khúc đã luôn được Nhà nước cũng thành phố tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ năm 2009 đến nay, làng nghề Tranh Khúc đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho những sản phẩm truyền thống.

Tiếp đến vào năm 2011, làng còn vinh dự được UBND thành phố Hà Nội trao tặng bằng công nhận danh hiệu “Làng nghề truyền thống Hà Nội.” Ngoài ra, hằng năm, chính quyền địa phương luôn tổ chức các lớp tập huấn cho bà con, vận động bà con đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để giữ nghề truyền thống của ông cha.

Lá dong được rửa sạch xếp ngay ngắn.

Gạo gói bánh là gạo nếp cái hoa vàng hoặc nếp nhung.

Công đoạn chuẩn bị nhân bánh.

Sau khi đồ đậu xay nhuyễn, người dân lấy đậu bọc kín thịt.

Tinh túy làm nên thương hiệu

Để bánh chưng Tranh Khúc được khắp mọi miền Tổ Quốc biết tiếng, ông Bảy chia sẻ: “Muốn làm ra một chiếc bánh chưng Tranh Khúc ngon, đạt thì khâu chọn nguyên liệu phải kỹ lưỡng.

Nguyên liệu chính của bánh chưng chính là gạo nếp và phải chọn gạo nếp cái hoa vàng hoặc gạo nếp nhung. Đậu xanh thì phải chọn đậu đã được xát hết vỏ. Thịt thì chọn thịt ba chỉ, thịt vai vừa có nạc vừa có mỡ, xắt miếng to rồi tẩm ướp gia vị đầy đủ. Lá dong để gói bánh phải là loại lá tẻ, bản to, màu xanh mướt, không bị sâu, rách. Từ đó, lá dong đẹp, gạo ngon, tay người gói khéo thì bánh chưng ra lò mới xanh đẹp và dẻo bánh.”

Cùng với đó, phương thức làm bánh chưng ở Tranh Khúc cũng kỳ công hơn so với vùng miền khác. Nếu như bánh chưng thông thường chủ yếu được gói bằng đỗ sống thì ở làng Tranh Khúc, đỗ sau khi tách vỏ sẽ được trộn muối và hấp trong vòng nửa tiếng đầu cho đến khi bở, dền. Đặc biệt, khi đồ đậu người dân làng Tranh sẽ cho một ít gạo nếp vào đồ cùng để được dẻo và ngon hơn.

Ngoài ra, khác với bánh chưng thông thường (gạo, đỗ thịt được rải đan xen nhau) nhân của chiếc bánh chưng Tranh Khúc được nắm tròn với lớp đậu bao quanh thịt. Tuy nhiên, không lấy đậu bọc kín thịt mà luôn để hở, giúp khi luộc bánh mỡ chảy ra thấm vào lớp vỏ gạo.

Công đoạn gói bánh.

Người dân làng Tranh gói bánh bằng tay.

Bánh chưng sau khi gói được xếp ngay ngắn chuẩn bị mang đi luộc.

Theo ông Bảy: “Điểm khác biệt của bánh chưng Tranh Khúc còn nằm ở cách gói bánh. Hiện nay nhiều địa phương khác cũng làm nghề bánh chưng nhưng không phải nghề truyền thống mà chỉ làm để buôn bán bình thường. Bởi vậy nên họ thường gói bằng khuôn, còn làng Tranh sẽ gói bánh bằng tay nhưng rất chắc chắn, vuông vắn, sắc cạnh và đều tăm tắp. Nên vậy, dù luộc bánh 9-10 tiếng vớt ra bánh sẽ không bị nhão. Khi bóc bánh sẽ có màu xanh bắt mắt, ăn dẻo, thơm ngon, thậm chí để 2-3 hôm bánh sẽ dẻo quánh ăn còn ngon hơn. Đó là sự khác biệt của bánh làng Tranh so với những nơi khác.”

Tại làng Tranh, người dân làm bánh chưng quanh năm, không bán lẻ mà giao cho các cửa hàng, siêu thị. Ngày thường mỗi nhà chỉ làm 50-100 cái theo đơn đặt hàng, còn vào thời gian cao điểm dịp Tết tất cả các nhà trong làng đều đua nhau làm bánh. Đặc biệt là vào dịp ông Công ông Táo cho đến Giao thừa, phải thuê nhân công để làm cho đủ số lượng bánh phục vụ khách hàng, thời điểm này có nhiều nhà cho ra lò 1.000-2.000 chiếc bánh mỗi ngày.

Có thể thấy, những chiếc bánh chưng Tranh Khúc dẻo, thơm ngon đã góp phần làm phong phú thêm danh sách món ngon của đất Hà thành. Không chỉ được người trong nước ưa chuộng, mà bánh chưng Tranh Khúc còn được xuất khẩu ra nước ngoài như: Lào, Đài Loan… Và nghề truyền thống này đã đem lại thu nhập ổn định cho người dân và tạo thêm việc làm cho nhiều người lao động.

Bài và ảnh: Mộc Trà
Theo: Người Đô Thị Online
 
Ngọc Lan sưu tầm
 
 
 
Xem thêm...
Theo dõi RSS này