Gia chánh

Gia chánh (107)

Gỏi cuốn Việt Nam

Gỏi cuốn Việt Nam

 

BM

Món cuốn Việt Nam còn gọi là gỏi cuốn, nem cuốn, sal cuốn, gỏi cuốn mùa xuân tươi mát, hay bánh tráng cuốn. Đó là những cuốn bánh tinh tế chứa đầy sự kết hợp tươi ngon của các loại rau thơm tươi, rau giòn, protein như tôm hoặc thịt heo, và bún. Có thể xem gỏi cuốn là phiên bản thanh đạm và nhẹ nhàng hơn của món chả giò Việt Nam. Món ăn này dễ làm đến kinh ngạc, đặc biệt là nếu bạn đã chuẩn bị sẵn một góc nhỏ để cuốn mọi nguyên liệu. Bắt đầu bằng việc chuẩn bị mọi thứ: luộc chín bún khô, thái sợi rau củ, và cắt tôm làm đôi theo chiều dọc. Sau đó, chỉ cần làm mềm bánh tráng trong nước ấm, xếp nhân vào giữa và cuốn lại như những chiếc bánh burrito nhỏ.

 

Điểm nhấn của món ăn này là xốt tương đậu phộng xay nhuyễn — thơm ngon đến mức bạn sẽ muốn chấm mọi thứ vào đó! Gỏi cuốn là món ăn rất linh hoạt. Bạn có thể thưởng thức chúng như món khai vị nhẹ nhàng hoặc kết hợp với các món ăn yêu thích khác của Việt Nam, như phở. Gỏi cuốn cũng là món ăn hoàn hảo để tạo thêm nét tươi mới, đầy sắc màu cho bất cứ bàn tiệc mùa hè nào.

 

Nguyên liệu cần có để làm món gỏi cuốn Việt Nam

 

BM

Bơ đậu phộng mịn: Tạo nền tảng béo ngậy, đậm đà cho xốt chấm.

Tương đen Hoisin: Thêm hương vị ngọt và mặn đậm đà.

Tương ớt Sriracha: Thêm vị cay nồng; tùy ý tăng gấp đôi nếu bạn muốn cay hơn.

 

Giấm gạo: Tạo vị chua thanh để cân bằng hương vị trong xốt chấm, và tăng cảm giác tươi mát cho nhân cuốn.

Tỏi: Thêm chiều sâu hương vị cho xốt chấm.

Bún gạo: Tạo độ dai và cân bằng nền tảng dai-mềm cho nhân cuốn.

Cà rốt thái sợi: Thêm độ giòn và ngọt cho nhân cuốn. Mua cà rốt dạng gói cắt sẵn ở siêu thị là một cách tiết kiệm thời gian tuyệt vời.

Dưa leo Anh: Thêm độ tương phản tươi mát, giòn rụm.

Hành lá: Bổ sung chút hương vị hành cho món cuốn.

Nước mắm: Mang đến vị umami (vị ngọt của đạm) và một chút vị mặn.

Đường: Cân bằng vị chua và bổ sung chút ngọt.

Bánh tráng gạo: Những tấm bánh mỏng, trong suốt làm từ bột gạo và nước, thường dùng trong ẩm thực Việt Nam để làm gỏi cuốn và chả giò. Bánh tráng trở nên mềm dẻo và dễ cuốn hơn khi nhúng nhanh qua nước.

Lá xà lách cuộn hoặc lá rau diếp: Thêm độ giòn và tươi mát, giúp giữ chặt hỗn hợp nhân cuốn.

Tôm chín: Cung cấp chất đạm và vị ngọt nhẹ, mặn mòi.

Lá bạc hà: Thêm hương vị thảo dược thanh mát và màu sắc đẹp.

Lá ngò rí: Thêm chút tươi sáng, mùi thanh mát như chanh, và tạo màu xanh bắt mắt qua lớp bánh tráng.

 

 

Cách thức thực hiện

 

Bước 1: Làm xt chm tương đu phng

 

Cho bơ đậu phộng, tương đen hoisin, nước lọc, tương ớt sriracha, giấm, tỏi, và muối vào máy xay sinh tố. Xay nhuyễn hỗn hợp cho đến khi sánh mịn. Đổ ra tô và để sang một bên.

 

BM

Bước 2: Làm gi cun

 

Đun sôi một nồi nước lớn và thả bún gạo vào, nấu cho đến khi mềm, khoảng 3 phút. Vớt ra, xả lại dưới vòi nước lạnh cho bún nguội, và để ráo nước.

 

BM

Cho cà rốt, dưa chuột, hành lá, giấm gạo, nước mắm, và đường vào một chiếc tô vừa.

 


Chuẩn bị một chiếc đĩa tròn hoặc nồi lớn đựng nước ấm. Nhúng nhanh một miếng bánh tráng vào nước cho hơi mềm, khoảng 5 đến 10 giây.

 

BM

Lấy bánh tráng ra cẩn thận bằng hai tay và đặt lên một mặt phẳng sạch. Đặt 3 lá ngò rí và 3 lá bạc hà thành một hàng hơi lệch về bên trái trung tâm của miếng bánh, xếp 4 nửa con tôm lên trên, mặt cắt hướng lên trên, tạo thành một hàng bên trên các loại rau thơm.

 

BM

Giữ một chiếc lá xà lách trong tay, cho khoảng ¼ cup hỗn hợp cà rốt/dưa leo, và ¼ cup bún vào.

 

BM

Cuộn lại thành hình trụ, rồi đặt bên phải của phần tôm trên miếng bánh tráng, mép cuốn lá xà lách úp xuống.

 

BM

Cuốn lại: Nâng mép bánh tráng phần rìa gần nhân nhất, và cuốn chặt tay qua các hỗn hợp xà lách, cà rốt/bún, bảo đảm phần nhân được gói thật chặt. Tiếp tục cuốn bánh tráng về phía tôm và rau thơm, gấp hai cạnh bên của miếng bánh tráng vào giữa, cuộn cho đến khi cuốn bánh tròn trịa và mép bánh dính lại với nhau.

 

BM

Đặt gỏi cuốn lên khay, mép dán úp xuống dưới, đặt các cuốn bánh cách nhau một khoảng nhỏ để chúng không dính vào nhau, sau đó dùng khăn ẩm đậy lại. Lặp lại thao tác với các phần nguyên liệu còn lại, thay nước nếu thấy cần.

 

BM

Khi thưởng thức, bạn có thể cắt đôi mỗi cuốn theo chiều ngang nếu muốn, chấm kèm với xốt đậu phộng.

 

BM

 

Món gỏi cuốn Việt Nam

 

BM

·       S lượng: 12 cun

·       Thi gian chun b: 40 phút

·       Thi gian chế biến: 5 phút

·       Tng thi gian: 45 phút

·       Định lượng xt tương đu phng

·       1/3 cup bơ đu phng mn

·       ¼ cup tương đen hoisin

·       1/2 cup nước lc

·       1 mung canh tương t sriracha (có th tăng gp đôi nếu mun xt chm cay hơn)

·       1 mung canh gim go

·       1 tép ti, băm nh

·       3/4 mung cà phê mui

 

Định lượng nguyên liệu cho nhân cuốn

 

BM

·       85 gr bún khô

·       1 1/2 cup cà rt bào si/thái si

·       1 cup dưa leo Anh, b rut, thái si, khong 1 qu dưa chut nh

·       3 cây hành lá, ly phn màu xanh nht và đm, thái nh

·       2 mung canh gim go

·       2 mung cà phê nước mm

·       2 mung cà phê đường

·       12 miếng bánh tráng (Loi c 8 1/2 inch)

·       12 lá xà lách cun hoc rau diếp (khong 1 đến 2 cun; loi b hết sng rau)

·       24 con tôm c va, luc chín, ct đôi theo chiu dc

·       1 cup lá bc hà nh (nếu lá to thì ct nh li)

·       1 cup lá ngò rí

 

Chế biến xốt tương đậu phộng

 

BM

Cho bơ đậu phộng, tương đen hoisin, nước lọc, tương ớt sriracha, giấm, tỏi, và muối vào máy xay sinh tố. Xay nhuyễn hỗn hợp cho đến khi sánh mịn. Đổ ra tô và để sang một bên.

 

Chế biến gỏi cuốn

 

BM

Đun sôi một nồi nước lớn và thả bún gạo vào nấu đến khi mềm, khoảng 3 phút. Vớt ra, xả lại dưới vòi nước lạnh cho bún nguội, và để ráo nước. Đổ bún ra đĩa lớn và để qua một bên cho khô ráo.

 

Cho cà rốt, dưa leo, hành lá, giấm gạo, nước mắm, và đường vào một chiếc tô vừa.

 

Trộn đều

 

Chuẩn bị một chiếc đĩa tròn hoặc nồi lớn đựng nước ấm. Nhúng nhanh một miếng bánh tráng vào nước cho hơi mềm, khoảng 5 đến 10 giây. Lấy bánh ra cẩn thận bằng hai tay và đặt lên một mặt phẳng sạch.

 

Đặt 3 lá ngò rí và 3 lá bạc hà thành một hàng hơi lệch về bên trái trung tâm của miếng bánh tráng, xếp 4 nửa con tôm lên trên, mặt cắt hướng lên trên, tạo thành một hàng bên trên các loại rau thơm. Giữ một chiếc lá xà lách trong tay, cho khoảng ¼ cup hỗn hợp cà rốt/dưa leo, và ¼ cup bún vào. Cuộn lại thành hình trụ, rồi đặt bên phải của phần tôm trên miếng bánh tráng, mép cuốn lá xà lách úp xuống.

 

BM

Cuốn lại: Nhấc mép bánh tráng phần rìa gần nhân nhất và cuốn chặt tay qua các hỗn hợp xà lách, cà rốt/bún, bảo đảm phần nhân được gói thật chặt. Tiếp tục cuốn bánh tráng về phía tôm và rau thơm, gấp hai cạnh bên của miếng bánh tráng vào trong, cuộn cho đến khi cuốn bánh tròn trịa và mép bánh dính lại với nhau. Đặt gỏi cuốn lên khay, mép dán úp xuống dưới, đặt các cuốn bánh cách nhau một khoảng nhỏ để chúng không bị dính vào nhau, sau đó dùng khăn ẩm đậy lại. Lặp lại thao tác với phần nguyên liệu còn lại, thay nước nếu thấy cần.

 

Khi thưởng thức, bạn có thể cắt đôi mỗi cuốn theo chiều ngang nếu muốn, chấm kèm với xốt đậu phộng.

 

BM

Chuẩn bị trước: Gỏi cuốn có thể được chuẩn bị trước vài giờ. Dùng màng bọc thực phẩm bọc kín khay gỏi cuốn, giữ nguyên khăn ẩm bên trên, rồi cho vào tủ lạnh đợi đến khi dùng. Khi ăn, lấy gỏi cuốn ra khỏi tủ lạnh và để ở nhiệt độ phòng khoảng 15 phút cho hết lạnh.

 

Lưu ý: Hàm lượng dinh dưỡng cho mỗi phần ăn bao gồm 2 chiếc gỏi cuốn và khoảng 3 muỗng canh xốt tương đậu phộng.

 

Hàm lượng dinh dưỡng

Khẩu phần: 6 người

Số lượng mỗi khẩu phần: 2 gỏi cuốn/1 người

 

Lượng calo: 284, Chất béo: 1 g, Chất béo bão hòa: 0 g, Carbohydrate: 37 g, Đường: 4 g, Chất xơ: 3 g, Đạm: 5 g, Natri: 355 mg, Cholesterol: 32 mg

 

 

Jennifer Segal  _  Linh Đan  (BM)

 

Ngọc Lan sưu tầm

 

Xem thêm...

Canh Ngót Cá Khoai, Nồi Canh Biển Miền Nam - Trần Tiến Dũng

Canh Ngót Cá Khoai, Nồi Canh Biển Miền Nam 

Trần Tiến Dũng

Tháng 6, Sài Gòn mưa sáng, ngồi quán nhìn mưa, rồi thấy trang nhà anh bạn Trần Bá Đại Dương nói và đưa hình một mớ cá Khoai. Cá Khoai, tôi tin rằng người quê Gò Công xưa ưa cá Khoai hơn hết. Cá Khoai chưng tương hột, cá Khoai nấu canh ngót, khô cá Khoai nướng trộn dưa leo, rau thơm, với nước mắm tỏi ớt chanh đường…
 
Ờ mà dân miệt duyên hải miền Nam nào cũng ưa cá Khoai mà. Xương cá nhai nuốt gọn hơ như món thạch tráng miệng, thịt cá trong mềm nhưng không bở, vị cá ngọt thanh mà không tanh; gôm lại cá Khoai là loại cá như thể được sinh trưởng từ bọt biển khơi và mây trắng trên trời những hôm biển êm.
 
Cá Khoai ở chợ quê tôi ngày trước rất nhiều và rất tươi. Tôi cho rằng không vì cá Khoai rẻ mà được ưa, một loại cá người già, trẻ con đều ăn không sợ mắc xương người bình thường ăn các món cá Khoai vị ngọt ngon thấm đậm trong miệng nên nhớ và thèm miết. 
 
Tôi có mấy bà chị ở nước ngoài tuổi gần tám mươi, các chị về Sài Gòn món chị thèm nhứt, mong ăn nhứt là món cá Khoai nấu canh ngót. 
 
cangotnaungot
 
Nồi canh ngót cá Khoai thiệt đơn giản, gồm ít rau cần (hoặc lá húng quế) hành lá, cà chua, nêm nếm muối, ớt, tiêu sao cho vừa miệng. Miệt khác tôi thấy người ta ăn với nước mắm trơn hoặc nước mắm tỏi đâm và chút nước chanh, còn người quê tôi xưa ăn với nước mắm pha tỏi, ớt, chanh đường.
 
Nước canh cá Khoai có màu sương mai buổi sáng sớm, mùi thơm cá Khoai chín, mùi rau cần, mùi hành lá, mùi tiêu, ớt cứ như là hương vị riêng mà biển quê nhà ban tặng riêng cho bà con sống ven biển miền Nam.
 
Hẳn nhiên các món lẩu hải sản kiểu Tàu cũng ngon, nhưng đã là những người con sinh ra bên biển, được dưỡng nuôi trưởng thành người thì dù có phiêu lưu phương trời nào đi nữa thì cá nồi canh trong bữa cơm từ biển quê nhà vẫn mãi là thứ nước lèo mặn mòi, ngọt ngót riêng, cái riêng không nhất thiết được cảm nhận từ đại dương bao la mà chỉ nhỏ như một góc biển gần, một con thuyền nhỏ, một mái nhà trên bờ cát dịu dàng dấu tay của sóng êm, gió nhẹ.
 
 
Người Việt ngày nay có cách so sánh về người ra biển lớn, người ở lại biển nhà nhưng có lẽ vẫn luôn có nhiều người vẫn thường nấu canh và ăn bữa cơm có canh. Nồi canh chưa bao giờ được coi là biểu tượng gì đó văn hoá ẩm thực hay trong thực đơn hàng đầu được nước ngoài bình chọn của các món Việt, nồi canh có trong bữa cơm thường ngày người Việt nhất là người Miền Nam, có khi chỉ để dễ nuốt vậy mà no lành ngàn năm.
 
Với tôi, trong trường hợp nồi canh cá Khoai và các loại canh thuộc về biển khác, luôn luôn nhắc nhớ về biển và người thân quê nhà, nơi ấy cho dẫu mai sao không tìm thấy tôi. Người duyên hải có khi phải sống gần hết đời người ta mới biết từ lúc biết ăn cơm, biết chan canh họ đã mang theo biển. 
 
Trần Tiến Dũng
SG, 24-6-2024 

 

________________________________

 

Nồi Canh Chua Của Má

Đỗ Cường

 

 

Ngày xưa nhà tôi nghèo lắm, đến bữa ăn gia đình thường quây quần bên mâm cơm đạm bạc, không có người ăn trước người ăn sau, bởi nếu như vậy thức ăn sẽ không đủ cả cho gia đình mười người con.

Anh em có một thông lệ ngầm là mỗi tháng phải nấu hai lần canh chua, đó là ngày Ba tôi lãnh lương và ngày anh em chúng tôi đề nghị.

Mỗi lần nghe Ba tôi nói với Má: “Bà ơi mai nấu canh chua nghe bà” dường như đêm đó tôi không ngủ được, thử hỏi một thằng con trai còn non và chưa xanh vừa tròn mười lăm tuổi… ngày mai xách giỏ lẽo đẽo đi chợ với Má, thì ôi thôi “còn có danh gì với núi sông“ nữa.

Vào chợ, Má lựa chọn tỉ mỉ, cá phải là cá còn sống, rau phải tươi ngon, trái me không được già hay non quá, khóm mua nguyên trái vừa chín tới, bạc hà mới cắt phải còn mủ, lấy móng tay bấm vào phải xốp…
 
Việc mua nguyên liệu, Má đã cẩn thận, thì công đoạn nấu nồi canh chua còn công phu hơn nữa, để cạo lớp nhớt trên mình con cá Hú (Ú) phải là nước sôi vừa “reo” sau đó chà xát với muối tránh mùi tanh, cá cắt ra từng khứa bằng nhau để vào rỗ cho ráo nước không được để trên dĩa cá đọng nước sẽ không ngon, trái me cạo sạch và dằm me bên ngoài lấy nước chua tuyệt đối không dằm me trong nồi canh chua, khóm và các rau khác xắt ra đều để thứ tự trong rổ…

Khi nghe tiếng xe đi làm về của Ba tôi ngoài cửa, Má tôi mới bắt đầu nấu nồi canh chua, Má nói nồi canh chua không được nấu sớm hay trễ quá sẽ mất đi mùi vị của nồi canh chua, giống như trái cây chín tới khi ăn mới cảm nhận được cái ngon của nó.
 
Tôi không quên được tiếng húp xì xụp, những giọt mồ hôi chảy dài của anh em tôi bên mâm cơm bởi vị ngon của tô canh chua.

”Bà nấu ngon quá“ Ba tôi khen.

Nhìn chồng và các con ăn, tôi thấy gương mặt Má tôi hạnh phúc và mãn nguyện.

Có lần Má tôi hỏi:

“Theo con nguyên liệu nào quan trọng nhất của nồi canh chua?”.

Tôi liền đáp: “Cá, me, bạc hà phải không Má“.

Má từ tốn nói: “Nếu chỉ có cá, me, bạc hà là nguyên liệu chính để quyết định nồi canh chua ngon, theo Má như vậy thì chưa đủ, con thử nghĩ nếu canh chua thiếu chút ớt hay hành, ngò, giá… thì hương vị của canh chua như thế nào?. Tuy những nguyên liệu đó không sánh được với nguyên liệu khác, nhưng nó là yếu tố quan trọng làm kết dính những mùi vị khác để hình thành nồi canh chua ngon.”
 
nguyen lieu canh chua ca loc 
Những điều Má tôi nói, giúp tôi hiểu ra được nhiều vấn đề trong đó có việc học của tôi, trong lớp tôi chỉ giỏi toán, lý, hóa, sinh ngữ còn những môn khác tôi không cho là quan trọng.

Từ dạo đó tôi ít đi chơi chăm học hơn những môn kém, đi học về tôi phụ giúp Má nhiều hơn và việc học của tôi tiến bộ.

Tôi nghĩ “Trong cuộc sống có những vật bình thường ở cạnh mình, mình không gìn giữ, trân trọng khi mình cần nó đã thất lạc hay bị mất đi làm mình tiếc nuối khôn nguôi.”
 
Ba năm sau!

Vào một chiều mưa muộn, Má tôi đã bỏ anh em tôi ra đi mãi mãi!

Tạo hóa rất công bằng và oan nghiệt, tạo hóa ban tặng cho tôi một người Mẹ để tôi sống trong yêu thương, giận hờn, vòi vĩnh và tạo hóa đòi lại người Mẹ của tôi, chưa cho anh em tôi đủ trưởng thành để được báo hiếu.

Từ ngày Má mất, gia đình tôi ít tiếng đùa vui, anh em tự chăm sóc cho nhau, đi học về tôi nấu nướng chính cho gia đình. Riêng ba tôi tóc bạc nhiều, ít nói và trầm mặc.

Có những lần tôi chợt thức giấc nửa đêm thấy Ba ngồi ngoài sân nhìn vào cõi xa xăm, tôi biết Ba tôi đang nhớ Má lắm, Ba thật cô đơn như chết nửa tâm hồn.

Tháng năm dần qua, anh em tôi ra đời làm việc, người thành đạt, người công chức, người giáo viên cuộc sống ổn định.

Riêng tôi, hành trang ra đời là nồi canh chua của Má, cái nồi canh chua dân miền Nam ai cũng nấu được, chỉ khác nhau sự nêm nếm, tùy theo khẩu vị mọi người khi ăn xong chỉ khen ngon hay dở mà thôi.
 
Nồi canh chua của Má cũng dung dị như bao nồi canh chua khác. Nhưng với tôi nồi canh chua của Má lại có tính triết lý dạy cho tôi biết vận dụng trong cuộc sống và ngộ ra được nhiều điều.

Ở công ty, tôi biết coi trọng chị nấu bếp, anh lái xe, người bảo vệ… Tôi không coi tôi là một khúc cá, me và bạc hà để quyết định nồi canh chua, chính họ - ngò, ớt, hành… là những nguyên liệu quan trọng kết dính để phát triển công ty, và tôi đã thành công.

Với con tôi, tôi là người cha, người bạn, người thầy và cả là người em nữa.

Mọi người tin tôi không? “Bố ơiiiiiii tắm con”

“Yes Sirrrrrr “!!!

Được Má chỉ dẫn phương thức nấu nhưng tôi chưa bao giờ nấu được nồi canh chua ngon như Má tôi.

Nhân ngày họp mặt, anh em đề nghị tôi nấu nồi canh chua, tôi tận dụng mọi kỹ năng của mình để hoàn thành nồi canh chua thật to đãi các anh em.

Đang ăn cơm, tôi thấy mọi người ăn trầm ngâm và đăm chiêu, đến khi đứa em út thốt lên một câu “Ăn canh chua làm em nhớ Má!“, từng đôi đũa để chầm chậm xuống bàn, mọi người từ từ đứng dậy không nói với nhau lời nào, tôi biết anh em đang hoài niệm lại ngày Má còn sống bên tuổi ấu thơ của chúng tôi.
 
 
Nồi canh chua của tôi nhạt nhẽo!

Nồi canh chua tôi nấu dư thừa của người có tiền, còn Má tôi phải đi từ đầu chợ đến cuối chợ trả giá, mua con cá vừa phải, xin thêm người bán cọng ngò trái ớt… vì túi tiền eo hẹp.

Nồi canh chua, tôi nấu nhanh chóng vì có người giúp việc.

Nồi canh chua của Má tự tay làm có pha mồ hôi và nước mắt vì khói củi cay xè.

Canh chua của tôi vừa ăn có nhạc du dương, còn canh chua của Má chỉ có mồ hôi và tiếng xì xụp, đũa muỗng lanh canh của mười đứa con đang đói.

Canh chua của Má tràn ngập thương yêu có sự đợi chờ chồng và các con về trong hạnh phúc đầy mãn nguyện, còn canh chua của tôi thì mau chóng, no nê và thừa thãi.
 
Má tôi luôn luôn là người ăn sau cùng, có lần nghe thằng Út nói lại với tôi:

“Má mút lại những cái xương cá của anh em mình đó anh!”

Em hỏi Má, Má quay đi chỗ khác và nói

“Tụi con ăn phí quá!”

Đây là bài học có lẽ tôi không bao giờ quên cho đến khi xuôi tay nhắm mắt.

Nếu tôi được một điều ước, tôi sẽ ước Má tôi sống lại để anh em tôi được phụng dưỡng Má, dù tạo hóa có lấy đi bao nhiêu tuổi thọ của tôi cho điều ước đó tôi cũng vui vẻ chấp nhận, mãi được ôm Má vào lòng và gọi hai tiếng: “Má Ơi”.

Đỗ Cường
 
Ngọc Lan sưu tầm
Xem thêm...

Nước Mắm Trong Lịch Sử Và Văn Hóa Của Người Việt - Trần Đức Anh Sơn

Nước Mắm Trong Lịch Sử

Và Văn Hóa Của Người Việt 

Trần Đức Anh Sơn

Nước mắm là món “quốc hồn, quốc túy” của người Việt, là thứ làm cho ẩm thực Việt phân biệt với phần còn lại của ẩm thực thế giới. Có lẽ vì thế mà “tín đồ nước mắm” gốc Việt đã lớn tiếng khẳng định “nước mắm là sản phẩm ‘riêng có’ của người Việt”!
 
Ngày tư, ngày Tết, nhân lúc rảnh rỗi, lục tìm sử liệu để xem xét tính thực hư của nhận định trên, bất ngờ phát hiện nhiều điều thú vị về thứ nước chấm trứ danh này của người Việt.
 
1. Có phải chỉ người Việt mới biết làm nước mắm?
 
Xin nói ngay đây là một nhận định sai lầm. Bởi lẽ, ngoài người Việt, thì còn có người Hàn Quốc, người Pháp, người Thụy Điển… cũng biết cách làm ra “nước mắm” và sử dụng “nước mắm” như một thứ thực phẩm.
 
Hàn Quốc là xứ sở của kimchi, với hàng trăm món kimchi làm từ rau, củ, quả… bằng nhiều cách chế biến khác nhau, đã làm nên linh hồn của ẩm thực xứ Hàn. Một trong những món kimchi thường xuất hiện trong bữa ăn thường nhật của người Hàn Quốc là paechumak kimchi, làm từ bắp cải trắng, ớt, dấm, tỏi và miolchi aek chok, một thứ “nước mắm” của xứ kimchiMiolchi aek chok được làm từ cá cơm với quy trình và cách thức tương tự như cách làm nước mắm của người Việt. Điều khác biệt là người Hàn Quốc chỉ dùng thứ “nước mắm” này để ướp kimchi, chứ không để nêm nếm hay làm nước chấm như người Việt mình.
 
Người Pháp ở vùng Bretagne cũng biết làm và sử dụng “nước mắm” từ 2.000 năm trước. Theo TS. Françoise Coulon, quản thủ ở Bảo tàng Mỹ thuật Rennes, thủ phủ của vùng Bretagne, thì từ đầu Công nguyên, cư dân cổ đại ở Bretagne đã biết cách ướp cá biển với muối để chiết ra một thứ nước cốt mà họ gọi là garum và dùng nó như một thứ thực phẩm. Những sử liệu đang lưu giữ tại thư viện của Bảo tàng Mỹ thuật Rennes đã ghi nhận về cách thức làm garum của người Bretagne xưa kia. Và khi khai quật các phế tích trong vùng Bretagne, các nhà khảo cổ học Pháp đã phát hiện những công cụ bằng gốm dùng để sản xuất và để đựng thứ “nước mắm” có tên là garum này. Song nguyên nhân vì sao kỹ thuật làm “nước mắm” của người Pháp đã bị thất truyền và vì sao người dân vùng Bretagne nói riêng, dân Pháp nói chung, đã không dùng garum làm thực phẩm nữa thì vẫn là “một câu hỏi lớn, không lời đáp”!
 
Người Thụy Điển cũng có một thứ “nước mắm” riêng của họ, gọi là surstromming. Thứ “nước mắm” này được làm từ một loài cá nhỏ, tên là herrings. Người Thụy Điển bỏ cá herrings vào trong chiếc thùng gỗ lớn và cho muối vào để ướp. Sau 48 giờ, khi cá bắt đầu mềm thì người ta ngắt đầu cá và vứt bỏ phần ruột, cho thêm muối vào và ướp tiếp. Thùng cá ướp đó để được để ở ngoài trời từ 8 đến 12 tuần, trong cái nắng mùa hè với nhiệt độ từ 40 đến 60 độ F, cho đến khi thân cá nát ra và trở thành một loại mắm có mùi rất hôi. Đó chính là thứ mắm surstromming, có mùi vị khó ưa nhưng được người Thụy Điển xem là một món “delicacy” (cao lương mỹ vị). Thư tịch cổ Thụy Điển còn cho biết, vào thời Trung cổ, chính quyền chỉ cho phép bán surstromming vào các ngày thứ Năm của tháng Tám mà thôi. Và mỗi dịp surstromming được đem bán là những ngày hội ẩm thực đáng nhớ của người Thụy Điển.1 Nhưng người Thụy Điển thường dùng món surstromming này với bia hay rượu mạnh, như một thứ thức ăn, chứ không phải là gia vị như nước mắm của người Việt.
 
nuocmam7
Làm nước mắm ở Phú Quốc. Ảnh: Thái A.
 
2. Nước mắm trong các nguồn sử liệu
 
Cuốn Việt sử đầu tiên có đề cập đến nước mắm, có lẽ là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, khắc in vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Trong Kỷ nhà Lê, phần viết về Đại Hành hoàng đế, sách này có ghi lại sự kiện: “Đinh Dậu, Ứng Thiên năm thứ 4 (997)… Mùa hạ, tháng 4, nhà Tống phong vua làm Nam Bình Vương. Vua sai sứ sang nước Tống đáp lễ. Vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước kia sứ Tống sang thường mượn cớ đòi cống nước mắm, nhân thế bắt đóng góp. Đến đây Tống Chân Tông, nghe biết chuyện ấy, chỉ sai quan giữ biên giới gọi đến nhận mệnh, không sai sứ sang nữa”.2 Đoạn sử liệu này cho thấy muộn nhất là vào trước năm 997, người Việt đã biết làm và dùng nước mắm và nước mắm đã được lưu vào sử sách. Bấy giờ, nước mắm do người Việt làm ra hẳn phải là một loại đặc sản có tiếng, khiến vua chúa Trung Hoa tuy ở xa vạn dặm, cũng “ngửi thấy” mùi thơm của nước mắm, nên mới đòi triều đình Đại Việt phải triều cống nước mắm cho họ. Nhưng khi đọc đến đoạn ghi chép này trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã nêu một câu hỏi rất thú vị: “Người Trung Hoa không có truyền thống ăn nước mắm, mà họ ăn nước tương, sao lại đòi cống nước mắm? Hay là thời Tiền Lê, nước mắm Việt hiếm hoi trân quý đến mức người ta phải lấy nó để bắt chẹt nhau?”.3 Quả đúng như vậy, vì người Tàu ăn xì dầu, coi món nước chấm làm từ đậu nành này là thứ gia vị căn cốt của họ, khiến cho món ăn Tàu, nhìn bên ngoài có vẻ giống với món ăn Việt, kỳ thực, lại khác nhau một trời một vực, như nhận xét của M. Coughlin rằng: “mặc dù người Việt Nam ăn bằng đũa và thức ăn của họ thì khó phân biệt được với đồ ăn của Trung Hoa đối với một người Tây phương bình thường, đã có nhiều sự khác biệt và các sự biến cải theo khẩu vị địa phương. Nước chấm căn bản – nước mắm, món gia vị trong mọi bữa ăn, thì đặc biệt là của người Việt Nam và hoàn toàn khác với nước tương, nước chấm gia vị tiêu chuẩn của Trung Hoa”.4
 
nuocmam6
 
Sau Đại Việt sử ký toàn thư, nước mắm còn xuất hiện trong các trước tác như Phủ biên tạp lục (của Lê Quý Đôn, ấn hành vào cuối thế kỷ XVIII), Lịch triều hiến chương loại chí (của Phan Huy Chú, đầu thế kỷ XIX), Gia Định thành thông chí (của Trịnh Hoài Đức, đầu thế kỷ XIX) và trong các bộ sử của triều Nguyễn như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Đại Nam nhất thống chí. Trong các tài liệu thư tịch này, nước mắm được xem là thổ sản của nhiều địa phương ở Đàng Trong.
 
nuocmam5
 
Phủ biên tạp lục ghi nhận nước mắm là đặc sản của xứ Thuận Quảng, là thứ mà các chúa Nguyễn bắt phải nộp thuế biệt nạp, thay thế cho thuế đinh, nghĩa là thay vì phải nộp thuế thân, thì các hộ dân làm nghề nước mắm, hàng năm phải nộp về cho triều đình nhà chúa một lượng nước mắm nhất định.
 
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, trong phần Quốc dụng chí cũng chép rằng: năm Thuận Thiên thứ 5 (1013), đời Lý Thái Tổ, triều đình quy định nước mắm là một trong 6 loại thổ sản phải đóng thuế biệt nạp. Đến thời Lê, vào năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743), triều đình ban hành hạn mức số lượng nước mắm mà các phường nghề phải nộp. Cụ thể, ở xứ Thuận Quảng, ai có phương tiện đánh bắt cá để làm nước mắm thì mỗi năm phải nạp 3 chĩnh nước mắm, người làm thuê mỗi năm nạp 1 chĩnh. Năm 1769, số nước mắm do nhà nước thu qua hình thức thuế biệt nạp này lên đến 3.000 chĩnh.5
 
nuocmam4
 
Ở tỉnh Bình Thuận, nghề làm nước mắm bắt đầu hình thành ở tỉnh Bình Thuận vào khoảng cuối thời chúa Nguyễn, với khoảng 50 người, tập trung ở phường Đông Quan. Nhà nước quy định mỗi năm 30 người trong số họ phải nộp cho nhà nước mỗi người 1 thùng nước mắm, 20 người còn lại mỗi người phải nộp 2 vò mắm mòi và 1 vò mắm tép. Sang đến thời Nguyễn, nhà nước tăng thuế biệt nạp nước mắm ở Bình Thuận lên 8 vò mỗi người mỗi năm, người già người ốm phải nộp một nửa định mức. Ngoài nước mắm, chủ yếu làm từ cá cơm, mỗi người mỗi năm phải nộp thêm 1 vò mắm ướp, 1 vò mắm mòi và 1 vò mắm cá thu.6
 
nuocmam3
 
Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ thì dưới triều Minh Mạng (1820 – 1841), Nam Định và Ninh Bình là hai địa phương hàng năm phải nộp thuế biệt nạp là nước mắm về cho triều đình Huế. Còn theo sách Đại Nam nhất thống chí thì vào cuối thế kỷ XIX, nước mắm ở xã Đông Giang, huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương là nước mắm ngon nhất nước. Nghệ An cũng là một địa phương sản xuất nước mắm có tiếng thời Tự Đức (1848 – 1883), nhưng nước mắm xứ Nghệ thì nặng mùi đến độ danh sĩ Cao Bá Quát đã phải “mượn” cái mùi khó ưa của nước mắm Nghệ An để chê thơ của các thi sĩ trong Mặc Vân thi xã ở Huế: Ngán thay cái mũi vô duyên. Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An.
 
Về mặt chữ nghĩa, nước mắm trong các tư liệu trên được ghi bằng Hán tự là thủy hàm (水 鹹) hay hàm thủy (鹹 水), nghĩa là “nước mặn”. Bình luận về cách định danh thứ “quốc chấm” của người Việt theo Hán tự thành một thứ “nước mặn” như trên, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân than vãn: “Mấy chữ này nghe có vị mà không thấy hơi cá, mùi cá, thiệt là phiền não! Hình như các cụ có ý tốt, muốn cho nước mắm cái sự sang trọng mà kết cho nó cái tên ngoại, thật ra nghe không đã bằng cái tên nôm nước mắm”.7
 
Trong khi đó, cuốn Đông phương phong tục văn hóa từ điển do các nhà nghiên cứu Trung Quốc biên soạn, khi nêu đặc trưng văn hóa ẩm thực của người Việt đã liệt kê 4 món ẩm thực tiêu biểu của người Việt, xếp theo thứ tự là: nước mắm, thuốc lào, bánh chưng và trầu cau. Chữ “nước mắm” trong sách này được viết là Việt Nam ngư lộ (越 南 魚 露).8 Ngư là “cá”, lộ là “giọt sương móc”. Ngư lộ là “giọt sương tiết ra từ cá”. Cách gọi này có vẻ đã diễn tả đúng bản chất sinh xuất của nước mắm, nhưng cũng chẳng gợi nên mùi vị gì cả, mà nước mắm được thiên hạ biết đến và nhớ đến, trước tiên, là nhờ cái mùi đặc trưng của nó. Vì thế, có lẽ nên giữ cho thứ nước chấm đặc hữu của người Việt này cái tên nôm na vốn có của nó là nước mắm. Và khi dịch sang ngôn ngữ khác thì nên giữ nguyên hình tướng của nó là nước mắm, hay chí ít cũng là nuoc mam, như cái cách mà Léopold Cadière, giáo sĩ và là nhà văn hóa “người Huế… gốc Pháp” đã từng làm khi chủ biên tập san BAVH trước đây.
 
Nước mắm không chỉ được ghi nhận trong thư tịch cổ Việt Nam mà còn được phản ánh trong các hồi ký, nhật ký của những người phương Tây từng hiện diện ở Việt Nam từ hàng trăm năm trước. Cristophoro Borri, một giáo sĩ người Ý đã từng sống ở Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII, đã viết trong cuốn hồi ký Xứ Đàng Trong năm 1621 của ông như sau: “Người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước ‘sốt’ gọi là ‘balaciam’ làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum vại như tại nhiều nơi ở châu Âu người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt được nhưng được dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm là thức ăn chung và thông thường của xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất nhiều ‘balaciam’ (nếu không thì không có mùi vị) và do đó phải có một lượng lớn nước mắm và cũng do đó phải liên tục đánh cá”.9  
 
nuocmam2
 
Hơn 170 năm sau, phái bộ người Anh do bá tước George Macartney dẫn đầu, trong hành trình đến Trung Hoa, có ghé thăm cảng Đà Nẵng vào năm 1793. Viên quan trấn thủ cửa Hàn đã làm bữa tiệc chiêu đãi khách và mời phái bộ Macartney “những đĩa thịt bò xắt miếng vuông, chấm thứ nước rất ngon” khiến các thành viên trong phái bộ cứ tấm tắc khen ngon, còn George Macartney phải ghi nhớ thứ nước chấm độc đáo ấy – nước mắm – vào trong nhật ký hành trình của mình.10
 
3. Nước mắm và người Việt
 
Nước mắm có lịch sử tồn tại lâu dài với người Việt, là phần không thể thiếu trong đời sống và văn hóa của người Việt. Không ai có thể hình dung một bữa cơm Việt lại có thể thiếu vắng nước mắm, cũng như bữa cơm của người Hàn Quốc lại có thể thiếu món kimchi. Nước mắm vừa là gia vị nêm nếm, vừa là món ăn, vừa là một thứ thực phẩm chức năng giúp bổ sung dinh dưỡng cho người Việt, thậm chí, trong một số trường hợp, nước mắm còn là dược liệu để trị bệnh và tăng cường sinh lực cho con người.
 nuocmam1
 
Nước mắm chính là linh hồn của ẩm thực Việt, là thứ làm cho ẩm thực Việt khác với ẩm thực của các nước khác, thậm chí, có người còn cho rằng nước mắm là thứ có thể làm biến đổi món ăn của tha nhân thành món ăn Việt: “…bất cứ món ăn nào của Trung Hoa hoặc Pháp có sự góp mặt của nước mắm trong đó, đã trở thành món ăn Việt Nam. Giá trị của nước mắm vì thế trở nên độc nhất vô nhị trong nghệ thuật ẩm thực nói riêng, trong sức sống mạnh mẽ của văn hóa Việt Nam nói chung”.11
 
Theo số liệu của Từ điển Bách khoa Việt Nam công bố cách nay khoảng chục năm, thì mỗi năm Việt Nam sản xuất khoảng 150 – 170 triệu lít nước mắm các loại. Từ con số này, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân tính nhẩm: “… trừ đi một ít dành cho người phương Tây đang dùng thử, đổ đồng dân Việt mỗi năm, vào độ ấy, đã cho gần 2 lít nước mắm vào người, trung bình mỗi ngày trên dưới 10 giọt”.12 Thế mới biết người Việt “ghiền” nước mắm đến cỡ nào.
 
Nước mắm thì người Việt Nam ở đâu cũng ăn và vùng nào ở Việt Nam cũng có. Song làm cho nước mắm “thăng hoa” thì không ai có thể làm tốt hơn người Huế, bởi trong văn hóa ẩm thực Huế, có ít nhất khoảng 30 thứ nước chấm khác nhau có nguồn gốc từ nước mắm, với đủ sắc vị: mặn, ngọt, chua, cay, vừa, đậm, nhạt…, bởi người Huế ăn mỗi món thì dùng một thứ nước chấm khác nhau.
 
Còn tình yêu dành cho nước mắm thì có lẽ không ai hơn người Quảng. Bàn về văn hóa ẩm thực xứ Quảng, nhiều nhà nghiên cứu gốc Quảng đều có chung nhận định là: người Quảng thích ăn mặn. Sở thích ăn mặn của người Quảng có mối quan hệ khăng khít với nước mắm (và các loại mắm nói chung). Mắm vừa là món ăn, vừa là nguyên liệu, vừa là gia vị nêm nếm đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong ẩm thực của người xứ Quảng. Bữa ăn mà thiếu hoặc ít mắm (hay nước mắm) thì người Quảng cảm thấy nhạt nhẽo, đôi khi vô vị. Nhiều ngư dân xứ Quảng, trước khi lặn xuống biển, thường bưng chén nước mắm uống cạn để chống lạnh. Không chỉ ngư dân, ngay cả người bình thường, ăn cơm xong, có khi cứ chan thêm chút mắm mà húp, cứ như thèm mắm lắm. Làm như vậy, theo họ, bữa cơm mới thật sự trọn vẹn, mặn mà.13 “Ăn thật mặn là sở thích của đông đảo người Quảng mà cũng là nhược điểm khiến người Quảng từng mang tiếng “chặt to kho mặn” trong kỹ thuật/nghệ thuật nêm nếm/nấu nướng. Tiêu biểu cho sở thích ăn thật mặn của người Quảng là cách ăn nước mắm không pha thêm bất cứ thứ gì có thể làm nước mắm nhạt đi/bớt mặn đi như chanh, đường…”.14 Nhà văn Nguyên Ngọc thì nhận định: “Có nhà nghiên cứu nói tương (và các loại nước chấm) làm từ đậu nành là một nét đặc trưng của văn hóa ẩm thực miền Bắc, mắm (và các loại nước mắm) là một nét đặc trưng của văn hóa ẩm thực miền Nam. Cũng có thể nói, mắm đứng ở trung tâm của văn hóa ẩm thực xứ Quảng, khiến cho văn hóa ấy là một văn hóa đậm đà, mạnh mẽ và điều này càng hết sức đáng chú ý – nó khiến con người trở lại gần tự nhiên hơn”.15
 
Vậy thì, nước mắm không chỉ là món ăn, là gia vị của người Việt; nước mắm còn là một phần của lịch sử, của văn hóa Việt nữa đấy.
 
Trần Đức Anh Sơn
  • Bài đăng trên báo Sinh Viên Việt Nam số Tết Nhâm Thìn (2012)
Chú thích
 
Schott Ben, Schott’s Food and Drink Miscellany (London: Bloomsbury Publishing Plc, 2003).
2 Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in Nội các quan bản, Tập 1, (Hà Nội: KHXH, 2004), 235.
3, 7, 12  Phạm Hoàng Quân, “Nước mắm trong những mảnh sử rời”, Tuổi trẻ cuối tuần, Số 35-2011 (1543), Ngày 4/9/2011.
4 M. Coughlin, “Vietnam: In China’s Shadow”, Journal of Southeast Asian Histories, Volume 8, No. 2, September, 1967.
5 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, (Hà Nội: KHXH, 1992).
6 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, (Huế: Thuận Hóa, 1992), 157.
8 Trương Điện Anh (Chủ biên), Đông phương phong tục văn hóa từ điển, (An Huy: Hoàng Sơn thư xã, 1991).
9 Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích, (TPHCM: TPHCM, 1998), 28.
10 Nguyễn Duy Chính, “Phái bộ Macartney ghé Đàng Trong”, Nghiên cứu Huế, Tập 6, 2008, 157.
11 Hoàng Trọng Dũng, Từ bếp ngon ra, (Đà Nẵng: Đà Nẵng, 2002), 23 – 24
13 Phạm Hữu Đăng Đạt, “Ẩm thực Đà Nẵng trong di sản văn hóa ẩm thực xứ Quảng”, Nghiên cứu đặc sản ẩm thực phục vụ phát triển du lịch ở Đà Nẵng, (Đà Nẵng: Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng, 2011), 5.
14 Bùi Văn Tiếng, “Tổng quan văn hóa ẩm thực dân gian xứ Quảng”, Văn hóa Du lịch Đà Nẵng, Số Xuân Tân Mão 2011, 53.
15 Nguyên Ngọc (Chủ biên), Tìm hiểu con người xứ Quảng, (Tam Kỳ: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam, 2004), 182.
 
Tài liệu tham khảo
  1. Bùi Văn Tiếng. 2011. “Tổng quan văn hóa ẩm thực dân gian xứ Quảng”. Văn hóa Du lịch Đà Nẵng, Số Xuân Tân Mão.
  2. Cristophoro Borri. 1998. Xứ Đàng Trong năm 1621. Hồng Nhuệ – Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích. TPHCM: TPHCM.
  3. Đại Việt sử ký toàn thư. 2004. Bản in Nội các quan bản. Tập 1. Hà Nội: KHXH.
  4. Hoàng Trọng Dũng. 2002. Từ bếp ngon ra. Đà Nẵng: Đà Nẵng.
  5. Lê Quý Đôn. 2007. Phủ biên tạp lục. Hà Nội: VHTT.
  6. M. Coughlin. 1967. “Vietnam: In China’s Shadow”, Journal of Southeast Asian Histories. Volume 8, No. 2. September.
  7. Nguyễn Duy Chính. 2008. “Phái bộ Macartney ghé Đàng Trong”. Nghiên cứu Huế. Tập 6.
  8. Nguyên Ngọc (Chủ biên). 2004. Tìm hiểu con người xứ Quảng, Tam Kỳ: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam.
  9. Phạm Hoàng Quân. 2011. “Nước mắm trong những mảnh sử rời”. Tuổi trẻ cuối tuần. Số 35-2011 (1543). Ngày 4/9.
  10. Phạm Hữu Đăng Đạt. 2011. “Ẩm thực Đà Nẵng trong di sản văn hóa ẩm thực xứ Quảng”. Nghiên cứu đặc sản ẩm thực phục vụ phát triển du lịch ở Đà Nẵng. Đà Nẵng: Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng.
  11. Phan Huy Chú. 1992. Lịch triều hiến chương loại chí. Tập 2, Hà Nội: KHXH.
  12. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1992. Đại Nam nhất thống chí. Tập 2. Huế: Thuận Hóa.
  13. Schott Ben. 2003. Schott’s Food and Drink Miscellany. London: Bloomsbury Publishing Plc.
  14. Trương Điện Anh (Chủ biên). 1991. Đông phương phong tục văn hóa từ điển. An Huy: Hoàng Sơn thư xã.
Chú thích ảnh
 
Ngoài bức ảnh làm nước mắm ở Phú Quốc là của nhà báo Thái A (tạp chí Heritage), các ảnh nước mắm còn lại sử dụng trong bài này là “mượn” từ internet.
 
 

 Nam Mai sưu tầm

Xem thêm...

NHỮNG MÓN ĂN CHÂU Á ĐƯỢC XẾP HẠNG NGON TRÊN THẾ GIỚI

NHỮNG MÓN ĂN CHÂU Á

ĐƯỢC XẾP HẠNG NGON TRÊN THẾ GIỚI

Ẩm thực châu Á phong phú, đa dạng và hấp dẫn là điều không thể phủ nhận, chính vì thế có những món ăn vô cùng giản dị vẫn được CNN xếp vào danh sách những món ngon nhất thế giới.


14. Som tam – Thái Lan:

Để làm món gỏi nổi tiếng của Thái Lan này, đầu tiên cần giã nhỏ tỏi và ớt bằng chày sau đó xóc đều đậu que, giá đỗ, đu đủ bào với nước nước me, nước mắm, lạc, tôm khô, cà chua, đường mía và ăn kèm với xôi hấp. Nhiều phiên bản có thêm cua hoặc nước mắm có men nhưng hương vị thơm ngon của cách làm truyền thống vẫn được yêu thích hơn cả.


13. Cơm gà – Singapore:

Được cho là món ăn truyền thống của Singapore, món ăn gồm có gà luộc bày trên cơm được chín tưới thêm dầu ăn, ăn kèm với dưa chuột. Món cơm gà biến thể còn còn có gà quay hoặc gà nấu nước tương. Nước chấm đi kèm là nước tương đen hảo hạng, pha với tỏi ớt và gừng bào – tăng thêm sự kích thích cho món ăn.


12. Bánh mì nướng – Hồng Kông:

Món bánh mì nướng Hồng Kông nổi bật với bơ lạc và mứt được phết rất nhiều, ngâm trong trứng đánh, chiên với bơ và ăn kèm với thật nhiều siro và bơ.


11. Cua ớt – Singapore:

Không thể đến Singapore mà không thưởng thức món cua ớt trứ danh này, nhiều quán có cách chế biến khác nhau nhưng khi ăn vào bạn không thể quên được hương vị đậm đà của món ăn này.


10. Gỏi cuốn – Việt Nam:

Món gỏi cuốn gồm có thịt luộc, rau thơm, bún được gói trong bánh tráng. Hương vị đặc biệt của rau thơm khiến món ăn trở nên đặc biệt và được chấm với nước chấm chua ngọt kèm lạc rang giã nhỏ.

 

9. Steak Ohmi – gyu – Nhật Bản:

Được mệnh danh là “Roll Royce” của thịt bò, cách ăn tuyệt vời nhất là ăn theo kiểu sashimi, rưới lên một chút nước chanh và muối biển trà xanh. Những vẫn mỡ trên miếng thịt tạo nên kết cấu đặc biệt như tan ngay trong miệng và giữ lại hương vị phảng phất.


8. Phở - Việt Nam:

Món phở gồm có nước dùng, bánh phở tươi, rau thơm, ăn kèm thịt bò hoặc gà. Món ăn có hương thơm quyến rũ, ăn ngon miệng và hương vị rất cân bằng.


7. Lechón – Philippine:

Một món ăn truyền thống của Philippine, lechón là lợn sữa nguyên con được quay lên bằng than củi trong vài giờ. Qúa trình này giúp thịt bên trong mềm và lớp da thì giòn, món ăn này thường được chuẩn bị cho những dịp đặc biệt trong năm.


6. Rendang – Indonesia:

Món ăn này của Indonesia gồm có thịt bò được hầm với nước dừa và hỗn hợp gồm sả, tỏi, nghệ, gừng và ớt trong vài giờ cho đến khi thịt mềm, ngấm hương vị và rất thơm ngon.


5. Tom yum goong – Thái Lan:

Món ăn ngon đặc sắc của Thái gồm có nhiều nguyên liệu như: tôm, nấm, cà chua, sả, lá chanh. Bên trên thường được rưới nước dừa hoặc kem tươi, món ăn bao gồm tất cả những hương vị đặc trưng của Thái như: chua, cay, ngọt, đậm và giá cả thì vô cùng phải chăng.


4. Penang assam laksa – Malaysia:

Một trong những món ăn nổi tiếng nhất của Malaysia là món mì nước laksa nước nấu cùng với cá mòi, me, ớt, bạc hà, sả, hành tây, dứa… đi kèm với nước dùng cá chua cay.


3. Vịt quay Bắc Kinh –Trung Quốc:

Với lớp da bóng mượt, giòn tan bên ngoài món vịt quay Bắc Kinh được rất nhiều người yêu thích, thậm chí lớp da còn được phục vụ nhiều hơn phần thịt bên trong. Món vịt quay ăn kèm với bánh tráng, hành tây, sốt hoisin hoặc sốt đậu.


2. Sushi – Nhật Bản:

Dù chỉ gồm có hai nguyên liệu là cá sống và cơm nhưng với cách chế biến kì công, tiêu chuẩn khắt khe để làm ra những miếng sushi ngon nhất. Không ngạc nhiên khi sushi là một trong những món ăn được yêu thích toàn cầu, những đầu bếp sushi tại Nhật Bản được đào tạo bài bản và tuân theo những yêu cầu nghiêm ngặt khi chế biến món ăn này.


1. Massaman curry – Thái Lan:

Lại là một món ăn nữa đến từ đất nước Thái Lan, món cà ri có mùi vị cay, rất đậm đà và thơm mùi nước cốt dừa. Được ăn kèm với cơm trắng lại càng kích thích vị giác hơn bao giờ hết.


Theo: zing
 
Ngọc Lan sưu tầm

 

 
 
Xem thêm...
Theo dõi RSS này