⭐TRẦN KIM PHƯỢNG (Moderator)

⭐TRẦN KIM PHƯỢNG (Moderator)

Một chút hoài niệm tuổi trẻ thời VNCH

Một chút hoài niệm tuổi trẻ thời VNCH

image
 
Bộ mặt Sài gòn, lúc 1955, người ta còn thấy những thầy Cảnh Sát được gọi là Mã Tà, đứng huýt còi ở các ngã tư đường. Vậy mà chẳng bao lâu chữ gọi mã tà đó đã biến mất.

Và sau này, sẽ còn nhiều cái biến mất như thế.
 
image
Nhiều cái biến mất như thế để Sài Gòn như hôm nay.

Người ta vẫn còn thấy những xe thổ mộ đủng đỉnh, kêu lóc tóc vui tai với các lục lạc của xe ngựa kéo trên các con đường từ chợ Bến Thành xuống tận Ngã Tư Bảy Hiền, hay từ Bến thành đi chợ Bà Chiểu. Nó vẫn như ngang nhiên thách đố với các tuyến đường xe buýt nay đã chật ních người. Nó vẫn có những khách hàng quen thuộc là những người thuộc giới bình dân, giới buôn thúng bán mẹt.
 
image
 
image
Nó chỉ dần dần biến mất lúc nào không ai hay khi mà những chiếc xe Lambretta ba bánh nhập cảng từ Ý đã được chế biến lại cùng chạy trên những tuyến đường đó. Xe Lam nhanh hơn, chở tới 12 người, 10 người ngồi ở đằng sau, khi cần, có thể ghé thêm hai người ngồi bên cạnh tài xế. Vậy tất cả là 13 người chứ không 12. Xe lại có nhiều chuyến hơn, cứ đầy là chạy và ngồi thoải mái hơn.
 
image
Đặc biệt bên hai thành xe có ghi hai câu: Hữu sản hóa, đợt tự chủ. Nếu tôi nhớ không lầm chính sách hữu sản hóa này là ở dưới thời ông Kỳ làm Thủ tướng. Nhưng xe xích lô ba bánh, xích lô đạp, đặc sản miền Nam vẫn tồn tại trong suốt 20 năm miền Nam còn lại.

Người trung thành nhất với xích lô đạp, phải chăng là thi sĩ Vũ Hoàng Chương? Có thể ông nghèo vì hút thuốc phiện, nhưng mỗi lần đi dạy ở trường Chu Văn An ông luôn luôn đến trường bằng xe xích lô đạp. Quần áo luôn luôn là ủi thẳng nếp, thắt cravate, tay áo manchette bằng vàng, đầu chải bóng.

image
Người chạy xích lô đạp thường tranh nhau mời ông không phải vì ông là thi sĩ, mà vì người ông nhẹ như bấc, không chắc ông có cân nặng bằng nửa số ký của người khác không?

Tác giả Lửa Từ Bi hồi 75 đã đi tù Cộng Sản.

Ông nhẹ như bấc, không biết người Cộng sản sợ ông nỗi gì, sợ một người nhẹ như bấc mà đầy đọa ông trong tù. Hỡi những kẻ ngồi lom khom viết bài bênh “Cụ Hồ” nghĩ gì về việc đầy đọa trong tù một thi sĩ trói gà không chặt? Lúc họ thả thì vài ngày sau, ông giã từ cõi thế. Chắc ông cũng chả muốn sống làm gì?

Và có ai ngờ rằng, xích lô đạp vẫn có chỗ của nó sau hơn nửa thế kỷ sinh tồn.

 
image
Sau ngày mất Miền Nam, rất nhiều nhà văn, nhà báo, chuyên viên, giáo sư đổi ra đạp xích lô.

Đó cũng là một góc cạnh về thế hệ thanh niên miền Nam đọa đầy dưới gót của đôi dép râu?

Và tự nhiên nay nó trở thành biểu tượng nếp sống văn hóa của một thời. Hà Nội nay nhan nhản xích lô đạp dành cho khách du lịch chạy vòng vòng quanh khu phố cổ Hà Nội.
 
image
Người ngoại quốc danh tiếng nào đến Việt Nam thì cũng có dịp ngồi trên đó cả. Mới đây vợ chồng Brad Pitt và Angelina Jolie cũng có dịp ngồi xe xích lô cho biết mùi vị Việt Nam.

Nhưng cái đổi thay rõ nét nhất là cái áo dài con gái thay thế cho chiếc áo bà ba, chiếc quần hai ống rộng. Chẳng bao lâu sau, chẳng biết từ lúc nào toàn miền Nam mà đặc biệt các nữ sinh Trung Học, từ Sài gòn ra Trung, từ Sài gòn xuống Lục tỉnh. Chỉ áo dài là áo dài. Áo dài Trưng Vương, áo dài Gia Long, áo dài Nguyễn Bá Tòng, áo dài Nữ trung học Lê văn Duyệt, áo dài Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, áo dài Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, áo dài Nữ Trung Học Nha Trang và nhất là áo dài Đồng Khánh Huế.

Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời Ngày xưa ... Hoàng Thị của Pham Thiên Thư:
 
image
 
Em tan trường v
Đ
ường mưa nho nh..
Anh đi theo hoài
Gót giày th
m lng
Đ
ường chiu úa nng
M
ưa nh bâng khuâng
Em tan tr
ường v
Cu
i đường mây đ
B
ước em thênh thang
Ôm nghiêng c
p sách
Vai nh
 tóc dài
Áo em ngày n

Phai nh
t mây mu
Chân tìm theo nhau
Còn là vang v
ng …
 
Nó biểu tượng cho cái gì tinh khiết, trinh nữ, tinh tuyền và mời gọi. Nó che dấu bằng hai vạt áo dài mà như thể mở, biện chứng kín mà hở. Nó mời mọc mà kín đáo chối từ, nó bày tỏ phái tính, sexy đến ứ cổ họng với nét nổi lên của chiếc quần lót hằn lên tuổi dậy thì. Không có y phục phụ nữ nào trên thế giới lại sexy đến như thế. Ngay cả sau này với mini-jupe cũng không sánh bì.

Nó không cần đến những Cardin, Courrèges, St. Laurent, Paco Robanne. Cùng lắm, nó chỉ thua Le Panty, Monokini, quần lót Le petit bâteau của thập niên 1970 Nhưng những thứ này phải “ăn gian” từng centimét mới có được như thế.
 
image
Áo dài không ăn gian. Cạnh đó là hàng nút bấm mong manh như lối ngõ vào bên trong nằm hở ra cạnh sườn. Nó không những chỉ là một nét đẹp con gái mà nó trở thành biểu tượng cho một nếp sống văn hóa Việt Nam.

Sau này, không biết bao nhiêu những tranh ảnh, bìa báo Xuân, báo Tết chụp hình các thiếu nữ trẻ miền Nam trong chiếc áo dài truyền thống đó.

Và người ta có thể hãnh diện về điều này mà không có gì phải hổ thẹn khi nói đến.

Tuổi thanh xuân thiếu nữ đi liền với nét đẹp con gái ấy.

Nó phản ánh thế hệ thanh thiếu nữ thời ấy mà hễ bất cứ ai không còn là con gái, xồ xề một chút, vùng đùi, vùng mông nở nang một chút là mặc áo dài thường khó coi.
 
image
Sự đòi hỏi của tôi có khắt khe quá chăng? Nhưng chính sự đòi hỏi khắc nghiệt ấy làm tăng giá trị chiếc áo dài miền Nam tuổi trẻ. Nhiều phụ nữ các bà mặc trong các dịp lề hội. Thấy làm sao.

Rất tiếc sau 75, ra ngoài đường, Sài gòn vắng bóng chiếc áo dài. Cũng là vắng bóng tuổi trẻ miền Nam? Hay tuổi trẻ miền Nam không còn nữa? Người ta không còn phân biệt ai là con gái, ai là đàn bà được nữa đến như thể ai cũng là đàn bà, đến như thể ai cũng mất cả rồi.

Khi không còn những áo dài đó, Sài gòn buồn thiu. Như cây rừng không còn lá.

image
Tuổi trẻ miền Nam thời ấy biểu tượng vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác, đừng xanh đỏ lò loẹt. Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy đùi trinh nữ, cho thấy tuổi dạy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước đi hay khi ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng.

Bây giờ, tôi không thấy những bước đi kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái, mình ong thon thon ngồi trên chiếc xe Solex trông giống như một con bò ngựa biết bay. Phất phới, tung gió, nhẹ lướt, mái tóc hất lại đẵng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng sau những cái nhìn dõi suôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm thuồng.

Ingarary gọi đó là một chuỗi diễn hành phái tính (Mascarade de la fénimité )

Xin mượn lời thơ của Nguyên Sa:

 
image
 
Giấc mơ em mặc jupe hồng ... thôi rồi Sài Gòn ơi!
 

Có ph
i em mang trên áo bay
Hai phn gió thi, mt phn mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
 
Em cười tà áo bay trên
Đám mây ở dưới nỗi phiền muộn xa
Anh ngồi chỗ hẹn hôm qua
Đám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,
Giấc mơ mặc áo lụa vàng
Nơi anh nằm ngủ có hàng Thùy dương
(Nhẹ nhàng) (8)

 
image
Trong khi đó thì những cậu con trai cỡi xe Vespa, đời ED, đôi kính mầu đen, chiếc áo Montagu, mầu xanh đậm rồ ga hay lượn uốn éo. Nếu Solex là con gái, thì Vespa là con trai. Nếu Solex là con bò ngựa thì Vespa là con bọ hung. Solex là nữ tính, Vespa là nam tính (9).

Nếu con gái ăn quà thì con trai Bát phố. Bát phố phải chăng là nói nhại từ tiếng Pháp battre le pavé? Thôi thì là gì cũng được. Và xin mượn lại chữ nghĩa của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng:
 
... T xa ph ch đến gi
Chân thôi b l gõ b l quen (10)

Bát phố là một thứ giải trí chiều thứ bảy của con trai Sài gòn. Mà điều căn bản là có mặt. Làm gì, bận bịu gì cũng bỏ đi Bonard bát phố. Sinh viên, học sinh các lớp tú tài, lính tráng đi hành quân ở xa về, công chức các bộ, các nha đều đi dạo phố, ngắm người hay *rửa mắt. Mà phần lớn bọn họ là độc thân, chưa có vợ con. Nếu sang một tý thì vào Givral ngồi, tàm tạm thì một ly nược mía Viễn Đông cũng xong.
 
image
Đi dạo phố trở thành một thói quen, một nếp sống của con trai Sài gòn. Ngoài Sài gòn, tôi chỉ thấy ở Huế có sinh hoạt bát phố tương tự. Nhưng ở Huế, số con gái đi dạo phổ kể là đông và đi từng nhóm hai ba cô. Họ sợ bị bắt nạt chăng? Cô nào cũng có chiếc nón không phải để che nắng, che mưa mà để che cái nhìn trộm của con trai. Gái Huế đi dạo trên đường Trần Hưng Đạo mới thật là một diễn hành phái tính. 10 lần ra Huế thì y như rằng ra đi là để lại một cái gì?

Con gái biểu tượng nhất, cái Look theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng, găng tay trắng, cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng mới được, mới con gái, mới trinh nữ, mới thanh khiết. Vạt áo dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên phần đùi trông cộn hẳn lên trên chiếc Vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô solex chứng tỏ con nhà khá một tý, sang trọng và đài các. Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái tính.

image
Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les femmes seraient faites ainsi.
Quyến rũ bằng chính thân xác mình.

Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh trở thành phụ nữ hơn. La robe lui permettait de devenir plus féminine. Phải nói là thời thượng và ấn tượng lắm. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt. Ăn qùa vặt là rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt. Khi cô nữ sinh ăn quà thì tưởng là ăn quà thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó như chờ đợi một điều gì đó. Điều mà Thị Nở đã chờ đợi từ tuổi 15, 16 thời con gái, nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế. Như cơn mưa mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc này. Chí Phèo chỉ đến hoàn tất công việc chờ đợi ấy.
Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế.

Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi dạo phố. Con trai đi dạo phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một trình diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để nhận phần lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng.

image
Vespa Sài Gòn (thập niên 1960)

Đó là cả một cái guồng máy của sự xuất hiện. L’engrenage du paraitre .
Và cuối cùng, thú vui giải trí chung cho cả con trai lẫn con gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để trai gái gặp nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau. Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình của giới trẻ thời đó đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi mãi là như thế.

Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt tỉnh, như chấu ủ bếp lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương hoài ngàn năm.

Viết đến đây lại chợt nghĩ đến Nguyên Sa. Ông đã nói hộ cho tuổi trẻ Sài gòn:
 
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
 
image
Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành mạnh mà không thiếu lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi gắm nhắn nhe.
 
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc

(Tuổi mười ba)
 
Trích Le Dragon d'Annam của vua Bảo Đại, trang 333.
(2) Trích trong Nhìn lại 60 năm tranh đấu cho Việt Nam, hồ sơ đệ tứ tập 3, trang 318, Nhóm đệ tứ tại Pháp.
(3) Đọc thêm 1945/1995 , Lê Xuân Khoa, trang 266-276
(4) Trích lại trong Thập Giá và lưỡi gươm, Trần Tam Tỉnh, trang 111. LM Trần Tam Tỉnh là giáo sư đại học Laval, tỉnh Québec. Cuốn sách vừa kể trên thật ra chỉ là cuốn sách dịch từ cuốn Dieu et César, Paris, thánng 10/1978. Và bằng một cách không lương thiện, Vương Đình Bích, một linh mục quốc doanh dịch chẹo ra Thập giá và lưỡi gươm. Đổi nhan đề như thế với đầy ác ý. Tôi đà có 4,5 lần có dịp găp Lm Trần Tam Tỉnh từ chiều đến đêm, chỉ có hai người. Lm đã không bao giờ nhắc đến bản dịch này. Phần tôi cũng không tiện hỏi. Cuốn sách do sự chỉ đạo biên tập của Trương Văn Khuê. Thêm mối nghi ngờ cắt xén, thêm bớt, ngụy tạo. Đã hẳn cần dè dặt lắm đối với bản dịch này. Cả một cuốn sách như thế, nhưng tôi không hề thấy một tham khảo, trích dẫn tài liệu từ bất cứ sách vở nào, trừ sự trích dẫn từ mấy tờ báo.
(5) Trong cuốn Những gì còn nhớ do tập san Y sĩ phát hành, 2001
(6) Xem Việt Nam niên biểu 1939/1975, Chính Đạo 401
(7) Trích Trần Mộng Tú Hà Nội Gió hopluu.net/ Phụ trang đặc biệt/ Ký – HanoiGio-tmt.htm
(8) Trích lại trong Trong dòng cảm thức Văn Học miền Nam của Trần Văn Nam, trang 411-412
(9) Dĩ nhiên, sau velo Solex thì cũng có một số xe hiệu khác như xe gắn máy hiệu Goebel, Sach của Đức. Có thể nó hữu dụng, nhưng trong bề ngoài khó coi, dị tướng. Rồi cái PC nhỏ nhắn, xinh sắn, xe đạp Mini cũng một thời cho đến lúc xuất hiện xe Honda 67. Chiếc xe Honda đến thay đổi hẳn diện mạo xe gắn máy ở Sài gòn. Hữu dụng, mát mắt, vụt phóng, không cần phải đạp ga ì à ì ạch.
(10) Trích Bùi Bảo Trúc trong bài Chữ Nghĩa chúng ta

Nhưng may thay, mọi người Việt Nam, nhất là thanh niên, giới trẻ, lúc bấy giờ đều có một giấc mơ là làm thế nào để có một miền Nam phát triển và phú cường để đối địch với miền Bắc.

Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.

Chúng tôi đã lớn lên từ đó, trở thành người hữu dụng cũng từ đó.
 
image
Cafe Givral, Mở cửa từ năm 1950

Như lời Phạm Duy tỏ bày: ”Dưới thời Cộng Hòa thứ nhất, từ khi chế độ nhà Ngô thành lập và tiến dần tới thời thịnh trị rồi mạt vận, miền Nam, nếu chưa được là thiên đường của đông đảo văn nghệ sĩ đi tìm tự do thì cũng là nơi đất lành chim đậu. Một thế hệ văn nghệ sĩ mới đã thành hình và họat động dữ dội bên những vị đàn anh di cư từ miền ngoài. Phòng trà, tiệm bánh, quán nước như Kim Sơn, Mai Hương, La pagode, Givral, Brodard … là nơi không hẹn mà văn nghệ sĩ tới gặp nhau hằng ngày.” (11)

Trong 9 năm cầm quyền thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chỉ có 3 lần có những biến động chính trị. Nhưng chỉ riêng năm 1964, có 13 lần miền Nam rơi vào những biến động có thể làm lung lay nền Cộng Hòa. Nói như thế để thấy rằng sự ổn định chính trị nằm ở thời điểm nào.
 
image
Người nào không nhìn nhận những điều ấy thì chỉ thiệt thòi cho chính họ thôi, bởi vì họ tự mình bôi xóa tuổi trẻ của chính họ. Nhiều người đã bôi xóa như thế để chạy theo vài ảo tưởng chính trị, hoặc nếu ở ngoại quốc thì chạy theo những xu hướng thiên tả vốn chẳng dính dáng gì đến thực tế chiến tranh Việt Nam.

Phần tôi nghĩ rằng, chúng tôi không bước đi những bước đi đơn độc.

image
 
Chúng tôi có bạn đồng hành, đồng trang lứa, có những người lính, người sĩ quan VNCH cùng lớn lên ở đấy, đang xả thân thay cho chúng tôi. Và cho dù cuối cùng để mất miền Nam thì những giá trị tinh thần ấy vẫn còn đó.
 

Luc Nguyen Van

 

 

Tên Đường Ở Sài Gòn Và Các Đô Thị Miền Nam - Nguyễn Gia Việt

Tên Đường Ở Sài Gòn Và Các Đô Thị Miền Nam 

Nguyễn Gia Việt

 

 

"...Trả ta sông núi từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:
Không đòi, ai trả núi sông ta..."

Vũ Hoàng Chương

Cái mà người dân Miền Nam muốn là trả lại đường Gia Long, Võ Tánh, Hiền Vương, Phan Thanh Giản, Petrus Ký, Đoàn Thị Điểm, Yên Đỗ... ở Sài Gòn chứ không phải "sửa" tên đường kiểu “tôn” hay “tông”.

Một vấn đề cực kỳ dễ hiểu, đơn giản và không cần hội thảo gì dài dòng. Vấn đề không phải là "Lê Thánh Tôn" hay "Lê Thánh Tông". Hà Tôn Quyền hay Hà Tông Quyền? Không phải là Lương Nhữ Học hay Lương Như Hộc.

Mà Lương Nhữ Học, cái chữ Hộc sẽ bị nghĩ là hộc máu. Chắc chắn 100% là dân Miền Nam sẽ nghĩ hộc là hộc máu.
Tại vì Tôn là cách Miền Nam viết, Tông là cách Miền Bắc XHCN viết, còn dấu nặng hay dấu ô chỉ là kỹ thuật. Nhân vật lịch sử đó vẫn là ông đó, bà đó, chẳng ai có thể mạo danh vị đó.

Người MB bất tuân kị húy nhà Nguyễn thì cứ Phúc này Phúc nọ, Tông này Tông kia, Thì này Thì nọ, Nhậm này Nhậm kia. Nhưng dân Miền Nam, dân Sài Gòn kêu Phước và Tôn, Thời và Nhiệm thì làm gì được nhau?
Nghĩ cũng tức cười. Đề nghị đổi Lê Thánh Tôn thành Lê Thánh Tông, Hà Tôn Quyền thành Hà Tông Quyền. Nhưng cũng đề nghị đổi "Nguyễn Duy Dương" thành "Võ Duy Dương". Thành Vũ Duy Dương mới có logic chuẩn Bắc chứ!
Người dân Miền Nam, dân Sài Gòn muốn là:

1/ Đó là phải trả lại tên đường mà sau 1975 đã xóa tên không thương tiếc

- Trả lại tên đường Triệu Đà

Triệu Đà là vị Hoàng Đế lừng lẫy, tiên khởi của nhà Việt Nam. Sau 1975 đường Triệu Đà bị xóa,là khúc Ngô Quyền quận 10 ngày nay.

Nguyễn Trãi khẳng định rõ ràng, sát rạt:

自趙丁李陳之肇造我國
與漢唐宋元而各帝一方
“Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhứt phương”

- Trả lại tên đường Võ Tánh

Hoài Quốc Công Võ Tánh (1768 - 1801) là một nhân vật lịch sử lừng lẫy Nam Kỳ, là đệ nhứt công thần trung hưng nhà Nguyễn. Có công rất lớn trong việc giữ gìn Miền Nam chống lại sự tàn sát, tàn phá của quân Tây Sơn.

Ông nổi danh từ đất Ba Giồng, đất Thâp Bát Phù Lưu Viên (18 Thôn Vườn Trầu).

Sau cùng đất Giồng Tre Gò Công là đại bản doanh của ông. Ngọn cờ “Khổng Tước Nguyên Võ” một thời tung bay, đạo quân này đã tập kích Tây Sơn nhiều trận khiến họ phải kinh khiếp. Võ Tánh là “Gia Định Tam Hùng".

"Những tưởng ra tay giúp nước nhà
Ai dè binh địa nổi phong ba.
Xót người vị quốc liều thân ngọc,
Khiến thiếp cô phòng ủ mặt hoa.
Gối mộng mơ màng duyên nợ cũ,
Đài mây xiêu lạc phách hồn xa.
Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt,
Nóng ruột thuyền quyên giọt lệ sa!"


Người đời sau ca ngợi tướng Võ Tánh là “Quận Trung tiết anh hùng”. Đường Võ Tánh Sài Gòn từ ngã sáu Gia Long chạy dọc trổ dài xuống đi ngang nhà thờ Huyện Sĩ.

Sau 1975 đường Võ Tánh ở Nam Kỳ bị xóa sạch sẽ. Sài Gòn bị xóa. Ngày nay chỉ còn Mỹ Tho là còn đường Võ Tánh.
(Tôi xếp Võ Tánh trên đường Gia Long là vì nếu không có Võ Tánh xuất hiện thì chưa chắc có vua Gia Long trung hưng thành công sau này).

- Trả lại tên đường Gia Long (Lý Tự Trọng)

Đã gượng trả tên đường Lê Văn Duyệt cho Đức Tả Quân ở Bình Hòa thì phải trả tên đường Gia Long lại vì vua không sáng thì đố quan hiền, dám làm.
Nhơn vật có công với Miền Nam, từng chủ ý coi Sài Gòn là căn cứ, phên dậu của mình và góp công sức xây dựng nó là chúa Nguyễn Phước Ánh (Vua Gia Long sau này).
Sài Gòn có vị thế ngày hôm nay là công lao của chúa Nguyễn Phước Ánh.
Nguyễn Huệ chẳng có công gì với Sài Gòn.

Tây Sơn từng chiếm Gia Đinh hơn chục lần, nhưng vì lòng dân không theo nên năm lần bảy lượt họ vô rồi họ lại co giò chạy ra khỏi Sài Gòn, Tây Sơn chưa bao giờ giữ được Gia Định dù họ rất muốn.

Tháng 2 năm 1790 sau khi chiếm lại được Gia Định và nhắm có thể giữ vững trước quân Tây Sơn nên chúa Nguyễn Ánh đã chọn vùng Gia Định làm kinh đô “tạm” gọi là Gia Định kinh, bắt tay vào xây kinh thành, kinh tế và tổ chức thi cử chọn hiền tài.
Chúa Nguyễn Ánh đã tổ chức hai khoa thi năm Tân Hợi 1791 và Bính Thìn 1796 tại Gia Định lấy hiền tài.
Năm đầu tiên Tân Hợi 1791 đậu hạng ưu có Ngô Tòng Châu và Nguyễn Hoài Quỳnh đều là dân Gò Công.
Khoa thi Bính Thìn 1796 đậu thủ khoa là một người Gò Công nữa là ông Phạm Đăng Hưng, ông Hưng chính là con trai Phạm Đăng Long ở giồng Sơn Qui.
Sau khi thi đậu ông Phạm Đăng Hưng làm "Lễ sanh nội phủ" rồi từ từ lên cao.
Lễ Bộ Thương Thơ-Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng rạng danh là nhờ con gái là bà Từ Dũ là mẹ vua Tự Đức, họ Phạm Đăng vang danh là nhờ làm bên ngoại vua Tự Đức sau này.
Sài Gòn là thành đô từ năm 1790 là cái sự sắp đặp hợp lý của lịch sử Việt Nam, cũng là số Trời.

- Trả lại đường Trương Minh Giảng Trương Minh Ký (Trần Quốc Thảo và Lê Văn Sỹ)

Quan bảo hộ Cao Miên, Trấn Tây Thành tướng quân Trương Minh Giảng (1792-1841) là một người Sài Gòn có công với đất này lớn lao vô cùng.
Tổng đốc Trương Minh Giảng là con trai của Lễ bộ Thượng thơ Trương Minh Thành, người huyện Bình Dương, trấn Gia Định.
Tướng Trương Minh Giảng - một người văn võ song toàn, là công thần bậc nhứt của nhà Nguyễn,quan bảo hộ Trấn Tây Thành, là tổng tài quốc sử giám:

“…Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
Nắng Trương Minh Giảng lá hè Tự Do”

( Đêm nhớ trăng Sài Gòn-Du Tử Lê)

Trước 1975 đi đường Trương Minh Giảng qua bên kia, khi qua khỏi Cầu Mới, bên tay mặt, đâm ra một con đường tên Trương Tấn Bửu (Trần Huy Liệu sau 1975).
Trương Tấn Bửu là phó tổng trấn Gia Định thành.
Bên phía tay mặt là một xóm nhà lá khá sầm uất, có cả một cái chợ chồm hổm nơi đó, tục gọi là chợ Bà Y.
Qua cầu, tiếp Trương Minh Giảng là đường Trương Minh Ký bắt đầu tại chợ Vườn Xoài.


Đường Trương Minh Giảng trở thành đường Trương Minh Ký (ranh giới Sài gòn - Gia Định), 1966

 

Thế Tải Trương Minh Ký (1855 – 1900) là một trong ba nhà học giả nổi tiếng đi tiên phong về chữ Quốc Ngữ của xứ Nam Kỳ.
Đọc cuốn “Sài Gòn Năm Xưa” của học giả Vương Hồng Sển, ta sẽ thấy ông Sển khâm phục ba ông học giả xuất sắc này là Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký và Huỳnh Tịnh Của.
Thế Tải Trương Minh Ký là cháu của tướng Trương Minh Giảng, là học trò của Trương Vĩnh Ký, ông là nhà báo, nhà giáo, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, đóng góp trong việc truyền bá và phát triển văn học Quốc Ngữ Việt Nam.

Thế Tải Trương Minh Ký viết rất nhiều sách từ dịch từ Hán, Nôm, Pháp qua Quốc Ngữ và tự điển, văn học, sưu tầm, làm thơ và cả viết tuồng.
Trương Minh Ký dịch thơ ngụ ngôn Lafontaine ra Quốc Ngữ trước Nguyễn Văn Vĩnh 34 năm:

“Con ve mùa hạ ngân nga
Sang đông không có đồ mà dưỡng thân
Than van với kiến ở gần
Xin giùm ít hột đỡ thân cơ hàn
Đến mùa bổn lợi lại hoàn
Lòng đâu có dám tính đàng sai ngoa”.


- Khôi phục và trả lại đường Duy Tân (Phạm Ngọc Thạch)



Đường Duy Tân


Đường Duy Tân nằm ở ngay Hồ Con Rùa, sau lưng nhà thờ Đức Bà. Sau 1975 bị cắt hộ khẩu thẳng:

“Trả lại em yêu, khung trời Đại Học
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát
Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt”


Duy Tân là con đường của sinh viên Sài Gòn.

- Trả lại đường Nguyễn Hoàng (Trần Phú) vị chúa Nguyễn đầu tiên có công khai phá và phát triển Miền Nam

- Trả lại đường Hiền Vương (Võ Thị Sáu)

Đại lộ Hiền Vương là một đại lộ nằm ở quận 3.
Hiền Vương Nguyễn Phước Tần là vị chúa Nguyễn giỏi khi còn thế tử ông đã đánh tan một một đội hải quân Hòa Lan.
Quân Nguyễn thời chúa Hiền nhiều lần vượt sông Gianh tiến ra đất Ðàng Ngoài. Năm 1656, sau hai năm tấn công ra Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An.
Năm 1653 chúa sai một cai cơ mang 3000 quân đánh Chàm chiếm vùng đất từ Nha Trang tới sông Dinh Phan Rang bắt vua Po Romé đóng củi áp giải về Phú Xuân. Tức là lấy đất Kauthara lập dinh Thái Khang chia làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh.

Năm 1679 tướng Dương Ngạn Địch trốn nhà Thanh, đem 3000 quân cùng 50 tàu chiến sang nước ta làm dân xứ Việt được chúa Nguyễn Phước Tần cho định cư tại thôn Mỹ Chánh (Mỹ Tho). Nhờ đó đã tạo nền tảng lập ra một thành phố Mỹ Tho sầm uất bậc nhứt lúc đó có mỹ tự là " Mỹ Tho đại phố".

Hiền Vương là vị chúa có công với Miền Nam.

- Trả lại đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ)
Lương Khê Phan Thanh Giản ( 1796 - 1867 ) là một nhân vật lịch sử mà người Lục Tỉnh nào cũng thương mến vì đức độ và tấm lòng của ông với quê hương.
Sau khi Pháp lấy thành Vĩnh Long ông tuyệt thực 17 ngày. Trước đó ông ngoái về Huế lạy mấy lạy, hảo một tờ sớ gửi vua Tự Đức, gửi lại ấn tín, áo mão trả về Huế, một lời tạ từ cuối cùng.
Tướng De la Grandière rất kính ông nên sai đem đồ ăn thức uống, thuốc bổ lại thuyết phục ông ăn uống lại, ông biểu đem về.
Rủi, nhịn ăn không chết, ông bèn uống thuốc phiện với dấm thanh. Ngày 4-8-1867 ông qua đời.
Đại lộ Phan Thanh Giản cắt nhau với hai đường nhỏ mang tên hai con trai quan Phan là Phan Liêm, Phân Tôn ở gần đó.
Đại lộ Phan Thanh Giản từ cái cầu cùng tên trổ ra cầu Sài Gòn là xa lộ.
Sau 1975 Phan Thanh Giản bị xóa tên đường và kết án triền miên, Điện Biên Phủ lên thay thế.

- Trả lại đường Petrus Ký (Lê Hồng Phong)
Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) là một nhà ngôn ngữ, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa, một học giả tiêu biểu của Miền Nam.
Học giả Trương Vĩnh Ký là ông tổ truyền bá chữ Quốc Ngữ, là thầy dạy chữ Quốc Ngữ đầu tiên, viết sách đầu tiên,được coi là “ông tổ nghề báo Việt Nam”.
Đại lộ Pétrus Ký là một con lộ rất lớn kéo dài từ đại lộ Trần Quốc Toản (3 T2) tới đại lộ Trần Hưng Đạo, tức là kéo dài tới làng Chợ Quán là nơi có nhà mồ của học giả Petrus Ký.

“Chánh ý bày hay mong đổi tục
Đại bằng giữ trọn ít ai thường”


Đọc cuốn “Sài Gòn Năm Xưa” của học giả Vương Hồng Sển, ta sẽ thấy ông Sển khâm phục ba ông học giả xuất sắc là Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký và Huỳnh Tịnh Của.

Vương Hồng Sển viết:
“Ba ông minh triết bảo thân, gần bùn chẳng nhuốm mùi bùn, không ham “đục nước béo cò” như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hớn, thác không tiếng nhơ, thấy đó mà mừng thầm nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng danh học trò cửa Khổng.
Nghĩ cho tay dao tay súng làm nên sự nghiệp như những nhà kia, nhưng khi nhắm mắt, sự nghiệp hoen ố lụn bại, sao bằng một ngòi bút, một nghiên mực, sự nghiệp văn chương trường cửu của ba ông tiền bối này mới thật quý và thơm”.

- Trả lại tên đường Yên Đỗ cho Nguyễn Khuyến

Công trạng của Nguyễn Khuyến không bằng Lý Chính Thắng sao mà xóa tên đường cụ Tam Nguyên Yên Đỗ?
Sài Gòn có đường Yên Đỗ kéo dài từ ngã sáu Dân Chủ tới Hai Bà Trưng.

Đường Yên Đỗ xưa là một đường xe ngựa làng. Xưa đường này có bến tắm ngựa nằm dựa vô kinh Nhiêu Lộc phía trước đình Xuân Hòa, kéo dài từ ngã tư Yên Đỗ - Trương Minh Giảng đến ngã tư Yên Đỗ - Công Lý.
Trên đường có một cư xá tên là "cư xá Yên Đỗ". Pháp đặt tên là Champagne, VNCH đặt là Yên Đỗ.
Tam nguyên Yên Đỗ là ông Nguyễn Khuyến.
Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến (1835-1909) là dân Bắc chánh cống nhưng làm quan nhà Nguyễn tới án sát, bố chánh không biết có "thù" gì mà sau1975 bị xóa đường Yên Đỗ thay bằng Lý Chính Thắng.

Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến là một vị quan hiền lành, thanh liêm, sống một cuộc đời đầy tiếng thơm dù thời cuộc vô cùng lộn xộn.
Sanh thời Nguyễn Khuyến có vô số giai thoại vui.

- Trả lại đường Đoàn Thị Điểm

VNCH đặt tên đường Trương Công Định từ Lê Lai đi qua giữa vườn Tao Đàn tới Hồng Thập Tự là hết.
Ra khỏi vườn Tao Đàn bên kia là đường Đoàn Thị Điểm chạy thẳng ra bờ kinh Nhiêu Lộc, mé Nguyễn Du có cái đường song song là Đặng Trần Côn.
Đoàn Thị Điểm là nữ văn sĩ thời Lê Trung Hưng, hiệu Hồng Hà nữ sĩ là người xứ Kinh Bắc.
Đoàn Thị Điểm là nữ văn sĩ đã dịch "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn từ Hán ra chữ Việt cực kỳ hay, góp phần trau chuốt câu chữ của bài thơ dài này:

"Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh"


Ai mà dè, sau 1975 không biết bà nữ sĩ kiếp trước có thù oán gì hậu sanh không mà bị xóa tên đường.
Chánh quyền nhập cả hai đường Trương Công Định và Đoàn Thị Điểm chung một tên là đường Trương Định.
Bà Đoàn Thị Điểm bị xóa tên đường, kéo dài Trương Công Định qua thế.
Lựu đạn nữa là xóa chữ Công của Quản Định, từ Trương Công Định thành Trương Định.
Còn rất nhiều nhân vật nữa phải trả lại tên đường cho họ.

2/ Cần trả lại tên đường Đỗ Thành Nhơn, Nguyễn Huỳnh Đức, Trương Tấn Bửu, Ngô Tùng Châu, Võ Di Nguy, Hồ Văn Ngà, Tạ Thu Thâu...

3/ Đặt tên đường ở Sài Gòn và các đô thị Miền Nam phải đặt tên làng cũ, địa danh Nam Kỳ xưa từ thời mở đất

- Tại sao lại xóa đường Đồn Đất?

Sài Gòn thời Pháp có nhà thương của quân y (bịnh viện) Grall mà dân Sài Gòn kêu là nhà thương Đồn Đất. Con đường dẫn vào bịnh viện là đường Đồn Đất.
Đồn Đất là địa danh của khu này, dân Sài Gòn vẫn gọi đây là khu Đồn Đất.
Năm 1985, đường Alexandre De Rhodes trước dinh Độc Lập vì những lý do "dốt sử" nên bị xóa tên và đổi tên thành đường Thái Văn Lung.
Rồi tới năm 1995 sau 10 năm "học tập" biết sự vụ nên chánh quyền thành phố trả lại tên cũ Alexandre De Rhodes.
Chưa hết, đem Thái Văn Lung nhét qua đường Đồn Đất. Vậy là xóa tên địa danh trăm năm Đồn Đất. Cực kỳ nhanh gọn và quyết đoán.
Trong một ngày một địa danh yêu thương của Sài Gòn có hàng trăm năm đã thành dĩ vãng.

4/ Có nên đổi Ký Hòa thành Chí Hòa không?

Người Pháp phiên âm sai rất nhều địa danh Việt, thí dụ Đất Hộ thành Đa Kao, rồi Thủ Dầu Một thành Fuo Yen Mot, Chí Hòa thành Ky Hoa rồi tha hồ đọc thành Kỳ Hòa hay Ký Hòa.
Thành phố Chợ Lớn đặt đường Ký Hòa cho khúc hông ĐH y khoa. Thiệt ra không cần sửa. Tại vì ai chả biết Ký Hòa là Chí Hòa. Nhưng muốn sửa thì cũng là chánh đáng.
Lật lịch sử ra mà xét thì cần đổi tên nhiều đường lắm.
Miệt Chợ Rẫy xưa có đường Rue de Tong-Kéou nay là Thuận Kiều.Tong-Kéou dịch sát ra là 东口 Đông Khẩu.
Tuy nhiên trong lịch sử Việt Nam thì Tong-Kéou được người Pháp mặc nhiên ghi cho tên làng Thuận Kiều.
Trong cuốn”Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ, năm 1861” Leópold Pallu có chép về vùng Thuận Kiều mà ông này ghi phiên âm ra là Tong-Kéou.

(Trích)
“Giữa Tong-kéou và thành Ky Hoa là một vùng đồng ruộng minh mông, thỉnh thoảng mới thấy vài khu vườn trồng thuốc lá”
Mà làng Thuận Kiều xưa nằm ở khúc đường Lê Văn Duyệt,tức CMT 8 ngày nay chớ đâu phải ở miệt Chợ Rẫy. Vậy xét lý lịch phải đem Thuận Kiều về CMT8

5/Điều cuối cùng muốn nói

Là hãy tôn trọng và ưu tiên đặt tên đường người lập làng, dựng làng,giữ đất, tên danh nhân Miền Nam ở Sài Gòn và các đô thị Miền Nam.
Tình trạng đi đâu, từ thành phố, thị xã, thị trấn ở Miền Nam, có khi các đô thị sát nhau, cách nhau hai ba chục cây số mà cứ đụng Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai... hơi bị ngán và khó chịu.
Bộ hết người hay sao?
Chúa Minh Vương Nguyễn Phước Chu năm 1708 dùng Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên, đặt phủ Bình Thuận năm Ðinh Sửu (1697) gồm các đất Phan Rang, Phan Rí trở về Tây, chia làm hai huyện An Phúc và Hoà Ða, đặt phủ Gia Ðịnh: chia đất Ðông Phố, lấy xứ Ðồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng Phiên Trấn, lập xã Minh Hương...

Chúa Nguyễn Phước Chu xứng đáng được đặt tên ở các thành phố Miền Nam. Các chúa Nguyễn đều xứng đáng.
Cũng như Hà Tiên có đường Mạc Cửu và con cháu họ Mạc. Mỹ Tho giữ đường Võ Tánh, Lê Văn Duyệt, Phan Hiển Đạo, Thủ Khoa Huân.
Trà Ôn giữ đường Thống Chế Điều Bát, Đốc Phủ Chỉ, Đốc Phủ Yên là những người trực tiếp góp công, góp của gầy dựng Trà Ôn.
Người Miền Nam kêu lĩnh thành lãnh. Nên Sài Gòn có cầu Ông Lãnh, đường Lãnh Binh Thăng. Trảng Bàng có đường Lãnh Binh Tòng, Cần Giuộc có Lãnh Binh Thái.
Hãy tri ơn và trân trọng Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực và cả Tôn Thọ Tường.

"Muôn việc cho hay số bởi Trời
Chiếc thân hồ hởi biết đâu nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi
Chén rượu tiền đình nào luận tiệc
Vần thơ cố quốc chẳng ra lời
Cương thường bởi biết mang nên nặng
Kẻ đứng làm trai chắc nợ đời."

(Thủ Khoa Huân)

Hãy trân trọng những người đã bỏ mình bảo vệ đất Miền Nam này:

"Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ"


Hãy trân trọng Petrus Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Diệp Văn Cương, Trần Chánh Chiếu…
Hãy trân trọng Rạch Miễu, Rạch Kiến, Rạch Gốc, Rạch Vẹm, Rạch Chiếc, Rạch Hào... Thắng Nhứt, Thắng Nhì, Thắng Tam... Tân Sơn Nhứt, Tân Sơn Nhì.... Quơn Long, Bình Phục Nhứt, Long Kiểng, Kiểng Phước, Hựu Thành, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế.... Thiềng Đức... những cái tên của ông bà tổ tiên lưu dân Miền Nam đặt ra.

“Cất tiếng kêu cô mỹ nữ
Đứng giữ tảng đá, chuông đồng
Lòng cô muốn đi tu phải thối của cho chồng
Ông thôn nhận mộc
Ông cả đứng thị thiềng
Bao nhiêu tiền của phải thối liền cho anh”


Thương lắm những cái tên thân thương như Bình Quới, Quới Hiệp, Tân Quới!

"Chợ nào nhiều rau bằng chợ Thầy Phó
Chợ nào đánh võ bằng chợ Nhà Đài
Chợ Tân Quới mua bán nhiều khoai
Chợ Mỹ Tho đem cả ghe chài đến mua"


Hãy trân trọng những ông tổng, ông làng, ông cả, ông bá hộ, bà cả đã có công lập làng, xây đường cho dân Miền Nam đi.
Tại Gò Công có Bá Hộ Mưu (Trương Văn Mưu) của làng Thành Phố xưa - tiền thân của thị xã Gò Công nay.
Được biết trước 1975 con đường phía trước nhà ông Bá Hộ được đặt tên là đường Hộ Mưu do khi xưa đây là ruộng, ông bá hộ Mưu đã cho đắp thành đường, cũng gần đó có một cái ao nước ngọt tên là ao Ông Hộ. Rồi sau 1975 đường Hộ Mưu bị đổi tên thành đường Nguyễn Văn Côn.
Tại Tân An có cái cầu Tổng Huẩn trên đường về Tân Trụ mà sau 1975 bị ghi sai là cầu Tổng Uẩn.

Trong cuốn “Tân An xưa” của Đào Văn Hội có chép về cây cầu này:
“Cách cầu xe lửa độ vài cây số hướng về Sài Gòn, con đường làng nho nhỏ Lộ Tổng Huẩn đưa du khách đến cầu Tổng Huẩn bắc trên Rạch Bà Rịa do ông Cai Tổng Huẩn lúc sanh tiền đắp con đường và bắc cây cầu ấy”
Như vậy ghi tên cầu “Tổng Uẩn” là sai, chính xác phải là cầu “Tổng Huẩn” vì do cai tổng Huẩn lập ra mà có tên. Rồi Lộ Tổng Huẩn nữa.
Những tiền hiền lập làng, làm cầu, đắp lộ có công thì con cháu phải tri ơn.
Có những người lạ hoắc lạ huơ, chẳng biết ở đâu xổ ra, họ có công gì mà phải lấy tên họ đăt cho đường xá.
Lịch sử Sài Gòn đã có từ 300 năm trước chứ đâu phải chỉ có từ năm gần trở lại đây. Đó mới là chuyện đáng nói.

Kết luận:

Những đô thị của Miền Nam ta xưa đều có dính líu với những ông tướng, ông quan của phe chúa Nguyễn Ánh. Cái công khai ấp định làng, giữ gìn, trị an và phát triển thì có tên đường là đương nhiên.
Tây Sơn tàn sát Miền Nam, phá tan nát còn có tên đường Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Ngô Thời Nhiệm.
Vậy mà những người bảo vệ, trị an, gìn giữ, phát triển Sài Gòn, Miền Nam như Gia Long, Đỗ Thành Nhơn, Võ Tánh, Châu Văn Tiếp, Trương Tấn Bửu, Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy... sao lại bị xóa tên đường giữa Sài Gòn? Các chúa Nguyễn như Hiền Vương có công phát triển Miền Nam, định hình Miền Nam sao bị xóa tên đường?
Con đường hàng ngày thân quen đã hằn ghi vào tâm trí bao thế hệ người Sài Gòn, phù hợp với lòng người.

"Đường chẳng riêng hai chúng mình
Nên khi vắng anh đường đã thay tên, còn chăng kỷ niệm
Lạnh đầy theo tiếng bước ưu tư đi tìm"


Người Miền Nam ghi nhớ và ý thức dữ lắm. Họ tìm cách tiếp cận sự thực lịch sử Miền Nam vì bản thân họ không muốn là tội đồ kiểu mả cha không khóc mà đi khóc đống gì đó.
Chúng ta là trí thức thì nhìn sử, đọc sử cũng đòi hỏi một mức độ văn minh nhứt định đối với những nhân vật lịch sử.
Những nhân vật lịch sử đều phải được đối xử ở mức độ lịch sự, có văn hóa, đó cũng là tôn trọng người khác và tôn trọng chính người viết.
Bình luận về nhân vật lịch sử phải thông đạt chánh trị nhân tình, công bằng, nhìn sự thực.

Và luôn biết đặt con người vào trong hoàn cảnh cá nhân cụ thể cùng với những mối tương tác nhân quả trùng trùng duyên khởi của các sự kiện chi phối bên ngoài. Từ đó có được quan điểm phóng khoáng khoan dung, biết hòa giải với quá khứ trong tinh thần cởi mở để hướng đến hiện tại và tương lai. Chứ không nên chỉ chuyên moi móc quá khứ với các kiểu thái độ đảng phái nhỏ nhen, thách thức vùng miền, cực đoan, phiến diện, căm thù. Nó chỉ gây thêm mầm mống chia rẽ trong lòng dân tộc, và vì thế cũng không thể đạt được sự hòa giải đích thực trong hiện tại được.

Xin hãy cố gắng tôn trọng văn hóa tối thiểu của Miền Nam. Đừng cố công thay đổi âm Miền Nam cho "chuẩn" nữa.
Tại Long An khu di tích, đền thờ Nguyễn Trung Trực ghi rành vành là "vàm Nhựt Tảo", còn đó đình thần Nhựt Tảo nhưng sách báo sau 1975 lại ghi là "vàm Nhật Tảo".
Thành đô Sài Gòn trước 1975 có đường Nhựt Tảo, chợ Nhựt Tảo. VNCH có một chiến hạm tên là Nhựt Tảo. Sau 1975 sửa thành đường Nhật Tảo, chợ Nhật Tảo.
Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn.

21.02.2023

NGUYỄN GIA VIỆT


Tên đường trước và sau 1975 (nguồn: báo Thanh Niên):
[
Bến Chương Dương —-> Võ Văn Kiệt
Bến Hàm Tử —-> Võ Văn Kiệt
Bùi Chu —-> Tôn Thất Tùng
Chi Lăng —-> Phan Đăng Lưu
Công Lý —-> Nam Kỳ Khởi Nghĩa
Cộng Hòa —-> Nguyễn Văn Cừ
Cường Để —-> Tôn Đức Thắng
Duy Tân —-> Phạm Ngọc Thạch
Đoàn Thị Điểm —-> Trương Định (cả Đoàn thị Điểm và Trương Công Định
đều bị đổi thành Trương Định)
Đỗ Thành Nhân —-> Đoàn Văn Bơ
Đồn Đất —-> Thái Văn Lung
Đồng Khánh —-> Trần Hưng Đạo B
Gia Long —-> Lý Tự Trọng
Hiền Vương —-> Võ Thị Sáu
Hồng Thập Tự —-> Nguyễn Thị Minh Khai (trước NTMK là Xô Viết Nghệ Tĩnh)
Huỳnh Quang Tiên —-> Hồ Hảo Hớn
Lê Văn Duyệt (Gia Định) —-> Đinh Tiên Hoàng
Lê Văn Duyệt (Sài Gòn) —-> Cách Mạng Tháng 8
Minh Mạng —-> Ngô Gia Tự
Ngô Tùng Châu (Phú Nhuận) —-> Nguyễn Văn Đậu
Ngô Tùng Châu (Sài Gòn) —-> Lê thị Riêng
Nguyễn Đình Chiểu —-> Trần Quốc Toản
Nguyễn Hoàng —-> Trần Phú
Nguyễn Huệ (Phú Nhuận) —-> Thích Quảng Đức
Nguyễn Huỳnh Đức —-> Huỳnh Văn Bánh
Nguyễn Minh Chiếu —-> Nguyễn Trọng Tuyển
Nguyễn Phi —-> Lê Anh Xuân
Nguyễn Văn Học —-> Nơ Trang Long
Nguyễn Văn Thinh —-> Mạc Thị Bưởi
Nguyễn Văn Thoại —-> Lý Thường Kiệt
Petrus Ký —-> Lê Hồng Phong
Phạm Đăng Hưng —-> Mai Thị Lựu
Phan Đình Phùng —-> Nguyễn Đình Chiểu
Phan Thanh Giản —-> Điện Biên Phủ
Phan Văn Hùm —-> Nguyễn thị Nghĩa
Phát Diệm —-> Trần Đình Xu
Tạ Thu Thâu —-> Lưu Văn Lang
Thái Lập Thành (Phú Nhuận) —-> Phan Xích Long
Thái Lập Thành (Q1) —-> Đông Du
Thành Thái —-> An Dương Vương
Thoại Ngọc Hầu —-> Phạm Văn Hai
Thống Nhất —-> Lê Duẩn
Tổng Đốc Phương —-> Châu Văn Liêm
Trần Hoàng Quân —-> Nguyễn Chí Thanh
Trần Quốc Toản —-> 3 Tháng 2
Trần Quý Cáp —-> Võ Văn Tần
Triệu Đà —-> Ngô Quyền
Trịnh Minh Thế —-> Nguyễn Tất Thành
Trương Công Định —-> Trương Định (cả Đoàn thị Điểm và Trương Công Định
đều bị đổi thành Trương Định)
Trương Tấn Bửu —-> Trần Huy Liệu
Trương Minh Ký —-> Lê Văn Sĩ
Trương Minh Giảng —-> Trần Quốc Thảo
Tự Đức —-> Nguyễn Văn Thủ
Tự Do —-> Đồng Khởi
Võ Di Nguy (Phú Nhuận) —-> Phân thành 2 đường Phan Đình Phùng và Nguyễn Kiệm
Võ Di Nguy (Sài Gòn) —-> Hồ Tùng Mậu
Võ Tánh (Phú Nhuận) —-> Hoàng Văn Thụ
Võ Tánh (Sài Gòn) —-> 1 phần của Nguyễn Trãi, khúc giao với Cống Quỳnh
Yên Đổ —-> Lý Chính Thắng

Nhớ cánh hoa mong manh Ngọc Lan

Nhớ cánh hoa mong manh Ngọc Lan

Kỷ niệm 23 năm vắng tiếng hát của ca sĩ Ngọc Lan (2001-2024)

Trường Kỳ

(Ảnh: iloveNgocLan)

Vào sáng ngày 7 Tháng Ba năm 2001, tôi cũng như những người thân trong gia đình đã thật bàng hoàng khi nghe tin Ngọc Lan qua đời một ngày trước đó, vào hồi 8 giờ 25 sáng tại bệnh viện Vencor, Huntington Beach.

Người báo tin cho tôi biết là Kỳ Phát, chủ nhiệm tạp chí Trẻ ở Nam California và là người từng theo sát Ngọc Lan trong suốt thời gian trung tâm Mây thực hiện riêng cho cô hai video vào năm 1991, dưới quyền đaọ diễn của Đặng Trần Thức, đạo diễn phim “Hè Muộn” trước năm 1975.

Cho đến nay hai video này vẫn là hai video ca nhạc dành riêng cho một nghệ sĩ được coi là giá trị nhất về mặt nghệ thuật. Khi tiếp xúc với Trần Thăng – giám đốc trung tâm Mây, là trung tâm đầu tiên đã đưa Ngọc Lan đến với khán thính giả trên những chương trình “Hollywood Nights” – qua điện thoại, anh không dấu được sự xúc động với giọng nói nghẹn ngào trên đường đến dự lễ phát tang của người nữ ca sĩ dễ mến, đã từng cộng tác với anh trong suốt 15 chương trình video “Hollywood Nights.”

Cũng trong ngày 7 Tháng Ba, tôi được hân hạnh phát biểu cảm tưởng của mình về sự qua đời của Ngọc Lan trong một bản tin phát về Việt Nam của đài VOA, và sau đó đã giới thiệu nhạc phẩm Tình Buồn do cô trình bày.

Xin ghi lại nguyên văn sau đây như sự tưởng niệm một nghệ sĩ thân thiết với gia đình tôi: “Tôi đã vô cùng xúc động khi biết được tin Ngọc Lan đã qua đời mặc dù đã biết cô mang một căn bệnh hiểm nghèo từ lâu. Ngọc Lan gần như mỗi lần sang Montreal, Canada lưu diễn đều cư ngụ tại nhà chúng tôi. Qua tính tình dịu dàng, khả ái và bản tính khiêm nhượng của cô, trong những bài viết trên sách báo, tôi đã mệnh danh Ngọc Lan là một Công Nương Diana của nền tân nhạc Việt Nam hải ngoại. Do đó sự ra đi của cô là một mất mát lớn đối với những người yêu nhạc, yêu tiếng hát buồn man mác của cô. Trong khi nói những lời này thì hình bóng Ngọc Lan vẫn phảng phất trong căn nhà này với chữ ký còn rõ nét của cô trên chiếc giường được gọi là “Chiếc Giường Nghệ Sĩ ” của gia đình chúng tôi.”

Chưa bao giờ khán thính giả khắp nơi lại dành cho một người nghệ sĩ sự ưu ái to lớn đến như vậy như đối với Ngọc Lan. Hàng ngàn người đã đến viếng thăm linh cữu cô tại nhà quàn Dilday Brother ở Huntington Beach trong hai ngày 8 và 9 Tháng Ba năm 2001.

Số người dự tang lễ của Ngọc Lan tại Thánh Đường Giáo Xứ Thánh Linh ở Fountain Valley vào hồi 10 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba cũng chật ních đối với sức chứa gần 1,000 người của nhà thờ này, trong khi những người đứng ở ngoài cũng lên tới con số tương đương như vậy.

Sau đó trên 2000 người đã tiễn đưa cô đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Chúa Chiên Lành ở Huntington Beach khi tang lễ hoàn tất.

Tang lễ đã được cử hành trong một bầu không khí trang nghiêm và cảm động do linh mục Nguyễn Văn Luân – quản nhiệm cộng đoàn Thánh Linh, Huntington Beach – chủ tế. Ngoài ra đồng tế với linh mục Luân còn có 5 vị linh mục khác đến từ những thành phố lân cận: Linh mục Nguyễn Văn Tuyên, quản nhiệm cộng đoàn Tustin; Linh Mục Nguyễn Uy Sỹ, quản nhiệm cộng đoàn Westminster; Linh Mục Nguyễn Trường Luân thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Long Beach; Linh Mục Nguyễn Nhật Huy, giáo phận Los Angeles, và Linh Mục Nguyễn Trần Tuấn Anh, thuộc cộng đoàn Westminster.

Ngọc Lan qua đời vì một căn bệnh hiểm nghèo đã hành hạ cô trong suốt một thời gian dài. Đó không phải những biến chứng của bệnh tiểu đường như những lời đồn đãi. Cũng không hẳn là do một cục bướu trong óc đã gây ra cái chết này. Căn bệnh của Ngọc Lan được giới chuyên khoa gọi là Multiple Sclerosis (gọi tắt là MS) tức là chứng “đa thần kinh hóa sợi.”

Theo bác sĩ Nguyễn Văn Đức, người từng viết nhiều bài liên quan đến sức khỏe cũng như về những chứng bệnh hiểm nghèo trên nhiều tờ báo ở Hoa Kỳ, cho biết sự tác hại của chứng “đa thần kinh hóa sợi” này khiến các giây thần kinh nơi óc, nơi mắt và nhiều nơi khác tơi nhỏ ra để đưa dần tới sự tê liệt hoàn toàn của cơ thể. Cũng theo những y sĩ chuyên khoa thì chứng thần kinh hóa sợi không thể chữa trị và bệnh nhân không thể có hy vọng sống sót.

(Ảnh: iloveNgocLan)

Linh mục chủ tế Nguyễn Văn Luân trong phần phát biểu về Ngọc Lan dùng những lời lẽ thật là giản dị nhưng cảm động để nói về cá tính và con người của cô đối với gia đình, với sinh hoạt cộng đồng và với quê hương đất nước. Ông cũng đã tỏ ra rất xúc động trước cái chết của Ngọc Lan và ví cô như “một con chim sơn ca đã từng bay đi khắp thế giới để đem lại niềm vui và nụ cười đến cho nhân loại.”

Cũng trong chương trình tang lễ, Nam Lộc – người từng thực hiện cuộc phỏng vấn đầu tiên Ngọc Lan trên video ” Hollywod Nights 1″ – được mời lên phát biểu thay cho một số thân hữu của Ngọc Lan và những nghệ sĩ không có mặt (Ghi chú: gần 30 nghệ sĩ đã lên đường trước đó để trình diễn ở Trump Marina tại Atlantic City vào ngày cử hành tang lễ Ngọc Lan. Cùng ngày đó một số ca sĩ từ Việt Nam sang cũng đã trình diễn tại thành phố này, ở sòng bài Trump Plaza).

Anh đã ngỏ lời phân ưu cùng gia đình Ngọc Lan trước sự mất mát lớn lao này. Nam Lộc đã gọi Ngọc Lan là một ngôi sao sáng của nền âm nhạc Việt Nam, nhưng  “tuy là một ngôi sao sáng nhưng cô lại là một người có đức tính rất là khiêm nhường, hòa thuận và nhã nhặn với bạn bè, không ganh đua đố kỵ.”

Anh còn nói thêm: “Ông Trời nhiều khi thật là bất công. Trong những năm gần đây, ông đã mang đi rất nhiều những nhân vật, những khuôn mặt được bao nhiêu người yêu thương, được cả nhân loại mến mộ khi họ còn rất trẻ. Và Ngọc Lan ở trong trường hợp bất công đó.”

Để kết luận, Nam Lộc thốt ra những lời vĩnh biệt thật cảm động: “Tuy là một tên tuổi rực rỡ nhưng Ngọc Lan có một cuộc sống rất là kín đáo và thầm lặng. Và chính sự thầm lặng và kín đáo đó đã tạo ra biết bao nhiêu huyền thoại kỳ lạ và đẹp đẽ về cô. Và cũng trong thầm lặng và kín đáo, Ngọc Lan đã ra đi trong sự kín đáo và thầm lặng đó. Thôi chúng ta hãy ôm Ngọc Lan trong những huyền thoại tuyệt vời. Vĩnh biệt Ngọc Lan!”

Một chương trình truyền hình do Nam Lộc và Thụy Trinh thực hiện về Ngọc Lan trên hệ thống Truyền Hình Văn Nghệ Việt Nam cũng đã được phát hình trước đó, trong cùng một ngày, với những chi tiết về chương trình tang lễ mà nhờ đó nhiều người đã biết được để có mặt trước ở nghĩa trang Chúa Chiên Lành (Good Sheeper) trên đường Talbert ở Huntington Beach để tiễn đưa lần cuối người nghệ sĩ họ mến mộ và thương yêu.

Những cặp mắt rưng rưng lệ và những tiếng khóc nghẹn ngào đã nói lên được sự tiếc thương vô bờ đối với một người nữ ca sĩ hồng nhan bạc mệnh đã sớm ra đi khi mới được 44 tuổi. Tên tuổi Ngọc Lan đang ở trong thời kỳ cao chót vót vào khoảng 5 năm đầu thập niên 90 nhưng sau đó cô đã phải giảm bớt những hoạt động và dần dần ngưng hẳn sau khi lâm trọng bệnh, khởi đầu ngay từ năm 92, 93.

Không ít người đã từ xa – như San Jose, San Diego, Seattle, Portland, vv..- cũng đã không quản ngại để đến đưa tiễn Ngọc Lan về nơi an nghỉ cuối cùng. Những năm gần đây, Ngọc Lan rất ít xuất hiện, tuy nhiên nếu có cũng cần được một người em gái đi theo phụ giúp trong việc đi đứng do thị lực kém cỏi cũng như trí nhớ bị sa sút trầm trọng.

Chồng của Ngọc Lan là Kelvin Khoa với tên thật là Mai Đăng Khoa, một nhạc sĩ hòa âm và cũng là người cùng với Ngọc Lan điều hành trung tâm Ngọc Lan musique cùng với những người em trai của cô đã khiêng quan tài của người nữ ca sĩ vắn số đến nơi an giấc ngàn thu trong niềm bùi ngùi vô hạn, trong một ngày nắng đẹp rực rỡ mà có người đã ví von “rực rỡ như tiếng hát, rực rỡ như nét mặt thiên thần của Ngọc Lan,” trong khi những ngày trước đó bầu trời miền nam California thật buồn thảm như thương tiếc cho một người ca sĩ tài hoa nhưng vắn số.

Thân phụ cô, ông Lê Đức Mậu – thay mặt cho gia đình trong chương trình tang lễ cầu cho linh hồn Ngọc Lan đã xúc động đến nghẹn ngào khi đưa tiễn người con gái thứ 5 của gia đình về nơi vĩnh cửu.

Trước đó vào năm 1993 ông và gia đình đã từng đau đớn vì cái chết của người chị Ngọc Lan là nhà văn Lê Thao Chuyên, thiệt mạng trong một vụ cướp. Mọi người đã không cầm được nước mắt khi ông cất tiếng ngâm bài thơ “Lá Vàng Khóc Lá Xanh” để tưởng nhớ người con gái yêu dấu từng sống những chuỗi ngày mong manh như cánh hoa trong cơn giông tố của bệnh tật.

Người chị cả của Ngọc Lan là Lê Kim Liên cũng đã khiến mọi người không cầm được nước mắt khi đọc bài thơ đưa tiễn đưa người em gái của mình tại nghĩa trang. Thân xác Ngọc Lan đã được vùi sâu trong lòng đất, nhưng tiếng hát đượm một nỗi buồn man mác, khuôn mặt thanh cao với cặp mắt buồn u uẩn của cô chắc chắn sẽ mãi còn trong trí nhớ của mọi người.

(Ảnh: iloveNgocLan)

Ngọc Lan tên thật là Lê Thanh Lan, sinh năm 1956 tại Nha Trang và là người con thứ năm trong số 8 người con trong một gia đình khá giả tại thành phố vùng biển này. Ngọc Lan trải qua lứa tuổi ấu thơ tại đây trong sự chiều chuộng thương yêu của cả nhà, tuy nhiên nét mặt cô lúc nào cũng phảng phất một nét buồn vời vời như chính lời cô kể lại với một ký giả trong cuộc phỏng vấn cô dành cho anh tại Toronto trong dịp thu hình của trung tâm Asia tại đây vào năm 96: “Nếu mà buồn thì cái mặt Ngọc Lan từ bé mẹ đã nói là mặt mày giống như đưa đám ma mà!”

Không những luôn mang một nét buồn trên một khuôn mặt thiên thần, Ngọc Lan còn có tính tình rất nhút nhát như theo lời một số bạn của cô kể lại trong thời kỳ theo học cùng với cô ở trường Thánh Tâm, trong thời gian gia đình cô cư ngụ tại Xóm Mới, Nha Trang trong một villa lớn, kín cổng cao tường.

Vào những ngày chủ nhật, Ngọc Lan cũng như các chị em đều theo bố mẹ đi lễ ở Nhà Thờ Núi Nha Trang và đã tỏ ra rất sùng đạo từ khi còn trong tuổi ấu thơ. Lớn lên trong sự yêu thương đùm bọc của mẹ, Ngọc Lan đã tỏ ra hết lòng thương yêu người mẹ yêu quí của mình và thường nhắc đến bà trong những lần tâm sự.

Khi còn ở Việt Nam, Ngọc Lan đã từng có một thời gian theo học nhạc với nhạc sĩ Lê Hoàng Long và đã từng có những hoạt động với các ca đoàn công giáo trong thời gian cô cùng gia đình cư ngụ tại Gò Vấp. Đến năm 1980 Ngọc Lan cùng với gia đình vượt biên và đã trải qua những ngày hãi hùng trên biển cả. Sau một thời gian ở trại tỵ nạn, gia đình cô đặt chân tới tiểu bang Minnesota và cư ngụ tại đây trong hai năm trước khi cả nhà quyết định dời về Nam California.

Đến Cali vào năm 1982, Ngọc Lan vì muốn có tiền để tiếp tục việc học vấn nên đã nghĩ tới việc đi bán hamburger. Nhưng chưa thực hiện điều này thì Ngọc Lan được một người bạn quen từ khi còn ở Việt Nam giới thiệu với một quán cà phê cũng mang tên Lan ở vùng Little Sài Gòn để hát, thay vì đi bán hamburger như cô dự tính: “Thì Lan thấy nghe lời cô ấy cũng được nên Lan đến Lan xin để Lan được hát. Bà chủ quán tối hôm đó bà ấy kêu Lan lên hát thử. Bà ấy mới hỏi Lan là cô tên là gì, thì Lan nói dạ, dạ em tên Thanh Lan. Bà ấy nói không được đâu, đã có Thanh Lan rồi, tại sao mà còn lấy Thanh Lan nữa. Thôi tên Kim Lan đi. Thế rồi bà ấy lên giới thiệu là đây ca sĩ Kim Lan.”

Cuộc đời của Ngọc Lan bắt đầu đi vào một khúc quanh sau khi cô đi hát lần đầu tiên tại quán cà phê Lan này vào năm 1983 với cái tên Kim Lan với hai nhạc phẩm “Dấu Tình Sầu” và  “Giáng Ngọc.” Đây là hai nhạc phẩm cô được một người quen tập cho trong thời gian ở trại tỵ nạn.

Nhưng cái tên Kim Lan cô được giới thiệu khi bước lên sân khấu lần đầu tiên đó chỉ được biết đến trong một lần xuất hiện với tất cả sự hồi hộp và lo lắng của cô. Vì qua tối hôm sau, Ngọc Lan đã được giới thiệu đi hát ở một quán cà phê khác có tên là Hoài Hương. Cô kể: “Qua ngày mai Lan hát ở một cái quán khác tên là quán Hoài Hương thì cái ông chủ, ông ấy mới nói là lấy tên Ngọc Lan đi, đừng có tên Kim Lan kỳ lắm. Thì lúc đó Lan đâu có nghĩ mình là ca sĩ, Lan cũng chẳng có định trước cái gì. Lan nói rồi… tên Ngọc Lan cũng được. Giới thiệu Lan lên thì Lan hát ở đó một tuần lễ thôi.”

Thế là cái tên Ngọc Lan định mệnh bắt đầu có từ đó sau ba đêm cuối tuần hát ở quán Hoài Hương với số tiền thù lao là 35 mỹ kim. Đối với Ngọc Lan với số tiền đầu tiên kiếm được trong cuộc đời đi hát đã khiến cho cô rất hài lòng vì dù sao cũng nhẹ nhàng hơn công việc bán hamburger. Lan được trả 35 đồng mà rất là happy. Happy hơn bây giờ nữa. Rất là happy tại vì đâu có tìm được số tiền nào khác… tại trong lúc đó mình đâu có tiền gì đâu. Mà đi làm như vậy, Lan thấy cũng dễ dàng hơn là bán hamburger.

Tuy nhiên vì chưa quen hát nhiều, nên sau khi hát liên tiếp ba đêm cuối tuần vì quá mệt mỏi nên Ngọc Lan quyết định xin nghỉ.

Vào ngày cuối cùng trước khi quyết định thôi hát tại quán Hoài Hương thì định mệnh đã đưa đẩy Ngọc Lan gặp được Trần Ngọc Sơn là người điều hành trung tâm Dạ Lan lúc đó, tức tiền thân của trung tâm Asia hiện nay. Nhận thấy Ngọc Lan có một giọng hát khá cùng với một sắc đẹp lôi cuốn, nên Trần Ngọc Sơn đã xin số điện thoại của cô để sau đó gọi lại mời cô thu tiếng trong những băng nhạc của trung tâm Dạ Lan.

Với bản tính nhút nhát, Ngọc Lan cho biết khi mới vào nghề cô rất ngại xuất hiện trước khán giả. Cũng chính vì vậy cô đã quyết định không tiếp tục cộng tác với quán Hoài Hương. Nay nhận được lời mời thu băng nhạc nên cô thấy thoải mái hơn là đứng trên sân khấu, trước khán giả. Qua những băng nhạc đầu tiên với Dạ Lan, tiếng hát ngọt ngào của cô, lúc đó có nét phảng phất giống như tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh Lan, đã chiếm ngay được cảm tình của thính giả.

Sau một thời gian hát tại một số quán cà phê ở vùng Little Sài Gòn như Lan, Hoài Hương, Đỉnh Thiêng, Tay Trái,… tên tuổi Ngọc Lan bắt đầu được biết đến, tuy nhiên vẫn ở trong một phạm vi nhỏ. Đến năm 1985, Ngọc Lan chính thức bước vào con đường nhà nghề khi được nhạc sĩ Ngọc Chánh khuyến khích vì nhận thấy cô có hội đủ những yếu tố để trở thành một ca sĩ tên tuổi. Ngọc Lan nhận lời và được trả thù lao là 250 mỹ kim cho một tuần.

Sau gần một năm đi hát ở vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh, tên tuổi Ngọc Lan được biết đến nhiều hơn để cô bắt đầu nhận được nhiều lời mời đi show ở các tiểu bang Hoa Kỳ và Canada. Ngọc Lan từ đó đã thật sự trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp và chiếm được lòng ưu ái của mọi người. Nhất là đối với những nhà tổ chức những chương trình ca nhạc, Ngọc Lan luôn biểu lộ một sự thông cảm. Những buổi tổ chức nào không được đông khách cô đều giảm bớt thù lao của mình xuống, để coi đó như một sự chia xẻ với người tổ chức.

Ngọc Lan tâm sự là trong thời gian bắt đầu đi hát ở vũ trường Ritz, cô vẫn còn có một sự lưỡng lự, đắn đo, không biết có nên dấn thân hẳn vào con đường này hay không. Qua những lần tiếp xúc với nhà thơ Nguyên Sa, cô luôn được nhà thơ này khuyến khích để trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp và được cô kể lại như sau qua cuộc phỏng vấn với ký giả Việt Tiến ở Toronto, lúc đó ông Nguyên Sa hay gọi Lan nói chuyện.

Ông nói “không thể gọi cháu là amateur được, vì cháu đã lấy tiền, đi hát thì phải là ca sĩ chuyên nghiệp rồi. Mà nếu là ca sĩ chuyên nghiệp thì phải có một cái gì chứ, chứ lem nhem không được. Khi có con, cháu sẽ nói với con là ngày xưa mẹ cũng đi hát, rồi con nó nói làm sao, con nó nói là ủa sao mẹ đi hát mà con không biết mẹ là ai, không biết người ta nói gì đến mẹ thì cháu sẽ nghĩ xấu hổ như thế nào.”

(Ảnh: iloveNgocLan)

Từ câu nói của nhà thơ Nguyên Sa, Ngọc Lan sau khi suy nghĩ kỹ càng, đã quyết định đi theo con đường ca hát nhưng vẫn có một thắc mắc không biết đó là một sự may mắn hay xui xẻo. Lan suy nghĩ, đúng rồi, vậy thì phải đi hát chứ. Không biết cái đó là một dịp may, một cái may mắn đến với Lan hay là một cái xui xẻo, Lan không biết bây giờ Lan bước vào ngành hát, có may mắn không.

Nhưng dù sao một khi đã quyết định như vậy, Ngọc Lan đã bỏ công sức ra để trau dồi thêm về tài nghệ cùng một lúc nhận được sự chỉ dẫn của nhạc sĩ Thanh Lâm trong thời gian đầu tiên cô hát với ban nhạc Shotguns của Ngọc Chánh. Dần dần giọng hát ngọt ngào của cô đã chiếm được cảm tình của khán thính giả trong những bài tình ca Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, cô còn trình bầy được cả nhạc Mỹ, nhất là nhạc Pháp, được coi là rất hiếm người trình bầy một cách xuông xẻ.

Đến năm 1991, tên tuổi Ngọc Lan hoàn toàn chinh phục được cảm tình của mọi người, sau khi trung tâm Mây thực hiện riêng cho cô hai chương trình video đặc biệt dưới quyền đạo diễn của Đặng Trần Thức, người đã đạo diễn phim “Hè Muộn” trước năm 75 với Như Loan, Bội Toàn,…

Video thứ nhất mang tựa đề “Như Em Đã Yêu Anh” (Mây 1) sau khi tung ra thị trường đã được coi như một video bán chạy nhất lúc bấy giờ. Và cho đến hôm nay vẫn xứng đáng là một video giá trị nhất về mặt nghệ thuật được thực hiện riêng cho một giọng ca. Video thứ 2 được tung ra sau đó không lâu với tựa đề “Mặt Trời Bên Kia Mùa Hạ” (với một số nhạc phẩm của Đức Huy và Alan Nguyễn) cũng đã nhận được một sự chiếu cố nồng nhiệt nơi những người yêu nghệ thuật.

Những năm kế tiếp, Ngọc Lan đã dành cho mình được một chỗ đứng cao trong làng ca nhạc Việt Nam hải ngoại sau những lần xuất hiện trên những chương trình “Hollywood Nights” của trung tâm Mây mà chương trình đầu tiên – và cũng là video ca nhạc đầu tiên thực hiện tại Hoa Kỳ, trong thời gian trung tâm Thúy Nga còn quay tại Paris – với sự có mặt của Ngọc Lan, được thu hình tại Irvine vào ngày 10 Tháng Ba năm 1992. Đây là lần đầu tiên Ngọc Lan trả lời một cuộc phỏng vấn trước ống kính thu hình.

Một điểm đáng lưu ý đây cũng là lần xuất hiện đầu tiên của Nguyễn Cao Kỳ Duyên trên video với vai trò MC và cũng là video đánh dấu cho lần xuất hiện đầu tiên của Ý Lan. Qua cuộc phỏng vấn, Nam Lộc đã đặt cho Ngọc Lan ba câu hỏi.

Câu hỏi đầu tiên, là mẫu người đàn ông lý tưởng của Ngọc Lan ra sao? Cô trả lời là nhân vật Dũng trong tác phẩm “Đoạn Tuyệt ” của Khái Hưng. Đối với cô, không những Dũng là người có tình cảm gia đình, còn là người có tâm hồn đối với quê hương và đất nước. Câu hỏi thứ hai, Ngọc Lan có dự định đóng phim hay không, vì nhiều người đã nhận thấy cô rất có khả năng về điện ảnh qua hai video thực hiện riêng cho cô trước đó. Ngọc Lan trả lời rất thích nếu có được cơ hội phát triển tài năng của mình. Khi trả lời câu hỏi cuối cùng về cảm nghĩ của cô đối với nền âm nhạc Việt Nam, Ngọc Lan cho rằng phải đổi theo sự đòi hỏi của huynh hướng nơi thế hệ sau để phù hợp với xã hội hiện tại.

Cũng theo Nam Lộc, anh không ngờ lại cũng là người phỏng vấn Ngọc Lan lần cuối cùng trước ống kính thu hình vào năm 1998 và cũng vào ngày 10 Tháng Ba như lần phỏng vấn đầu tiên.

Một sự trùng hợp lạ kỳ khác là đúng vào ngày 10 Tháng Ba, anh cũng lại là người thay mặt một số anh chị em nghệ sĩ tuyên bố những lời đưa tiễn Ngọc Lan đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Trong thời kỳ đầu tiên tiếng hát của Ngọc Lan thường được khán thính giả cho là có nét phảng phất giọng ca của Thanh Lan. Cũng chính vậy khi thu thanh tiếng hát của cô, một số trung tâm nhạc vì mục đích thương mại đã chỉ chọn những bài do Thanh Lan đã trình bầy trước đó để cho cô hát… .Nhưng sau đó Ngọc Lan đã tìm cho mình một hướng đi riêng biệt để thoát ra khỏi ảnh hưởng của một người nữ ca sĩ đàn chị.

Nhưng càng lâu thì Lan càng nhận thức là tại sao mình lại phải giống một người khác. Mình phải có cái hay của mình chứ, mình giống người khác nó có nhiều cái xấu hổ quá mà. Tại sao mình phải giống người khác? Lan thấy không được cho nên Lan tìm một cái đường đi riêng cho mình. Và Ngọc Lan đã thành công với con đường riêng biệt của cô trong nghệ thuật trình bầy những nhạc phẩm tình cảm, điển hình là nhạc phẩm “Mưa Trên Biển Vắng,” được cô coi là nhạc phẩm đã gắn liền với tên tuổi của mình.

Một điều không may xẩy đến với Ngọc Lan khi tên tuổi cô đang ở trong thời kỳ chói sáng nhất thì bệnh hoạn đã bắt đầu nhen nhúm nơi cô ngay từ năm 1992, 1993 như cô đã trả lời với những tiếng khóc nghẹn ngào trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1996 trong dịp sang thành phố Toronto thu hình cho trung tâm Asia. Đó cũng là lần xuất hiện cuối cùng của cô trên những chương trình ca nhạc của trung tâm này.

Chính cô, cũng như các y sĩ điều trị ở bệnh viện UCI tại thành phố Irvine nơi cô cư ngụ cũng không hề biết nguyên nhân nào đã gây ra chứng bệnh thần kinh hóa sợi. Và vào một buổi sáng, chứng bệnh này đã tác hại đến cơ quan thị giác của cô. Lan không biết có phải tại ăn uống hay là tại vì sao, thì có một lần tự nhiên là tự nhiên một buổi sáng thức dậy Lan không nhìn thấy như là… nếu nói mờ cũng không đúng…nó bị đen đen tối tối.

Sau khi nhuốm bệnh, Ngọc Lan phải giảm hẳn những sinh hoạt của mình một thời gian dài. Từ đó nhiều tin đồn được loan truyền về tình trạng bệnh hoạn của cô. Có tin cho là cô bị bệnh tiểu đường. Cũng có tin cô cho là cô bị một cục bưới trong óc, ảnh hưởng đến thần kinh thị giác và trí nhớ, không kể những tin đồn thất thiệt khác tạo nên một huyền thoại quanh người nữ ca sĩ khả ái nhưng kém may mắn này. Nhưng đối với Ngọc Lan, cô chỉ âm thầm chịu đựng và chấp nhận, không hề lên tiếng cải chính.

Trong thời kỳ đầu tiên, bệnh tình của Ngọc Lan chưa gây ra những tác hại nặng nề nên cô vẫn còn có khả năng thu thanh với nhiều trung tâm nhạc như Dạ Lan, Đời, Giáng Ngọc, Nhã Ca,… tổng cộng lên tới hàng chục CD. Ngoài ra cô vẫn còn xuất hiện được trên những chương trình Hollywood Nights với tất cả 15 chương trình. Trong khi đó thì Ngọc Lan được coi như tuyệt tích trên sân khấu trình diễn, không nhận một lời mời nào để có mặt trong những lời mời lưu diễn tới tấp đến với cô.

Đến Tháng Tư năm 1994, Ngọc Lan mới bắt đầu đi hát trở lại tại một số tiểu bang Hoa Kỳ và một vài thành phố lớn ở Canada. Mãi cho đến ngày 22 Tháng Mười cùng năm, Ngọc Lan chính thức xuất hiện trở lại trong đêm “Ngọc Lan Và Thính Giả Thương Yêu” tại Marriott Hotel, Anaheim, California với ban nhạc Mây Bốn Phương cùng một số ca sĩ như Tuấn Ngọc, Don Ho, Linda Trang Dài, Thanh Hà, Quốc Thái,… trong một buổi dạ vũ do MT Productions tổ chức.

Khán giả náo nức rủ nhau đi nghe Ngọc Lan, nhất là đi xem Ngọc Lan sau một thời gian vắng bóng như thế nào. Và cô đã không phụ lòng khán giả với giọng ca ngọt ngào và truyền cảm, chỉ khác là khuôn mặt cô còn đượm nét ưu tư.

Từ đó Ngọc Lan bắt đầu xuất hiện trở lại nhưng với một nhịp độ rời rạc tại một số địa điểm cũng như bắt đầu xuất hiện trong những chương trình video của các trung tâm Thúy Nga và Asia trong những năm 1995, 1996. Qua những chương trình video cuối cùng của cô, người ta dễ dàng nhận ra những nét mệt mỏi trên gương mặt cũng như trong giọng hát. Tuy vậy, khán giả lại càng dành cho cô nhiều cảm tình hơn và luôn mong mỏi cô được sớm bình phục để trở lại sinh hoạt một cách bình thường trong sự chờ đón của mọi người.

Vào ngày 10 Tháng Mười Hai năm 1994, Ngọc Lan chính thức kết hôn với Kelvin Khoa tại một nhà hàng nhỏ ở thành phố Long Beach trong vòng tham dự thân mật của một số người thân và bạn bè. Kelvin Khoa với tên thật là Mai Đăng Khoa là một nhạc sĩ trong ban nhạc Bolero, sau đó đã cùng cô chung sống tại thành phố Irvine trong một ngôi nhà khang trang, cũng là nơi trung tâm Ngọc Lan Musique được thành lập để liên tiếp cho ra đời một số CD với tiếng hát Ngọc Lan như “Vĩnh Biệt Tình Anh,” “Em Vẫn Cần Anh,”… và CD cuối cùng là  “Tình (sic) Say” hát chung với Duy Quang được phát hành vào năm 1998.

Qua đến cuối năm 1996, Ngọc Lan lại lui vào trong bóng tối của bệnh hoạn đang có một sự tác hại gia tăng mạnh mẽ. Lại nhiều tin đồn được tung ra, thậm chí có nguồn tin cho là người thiếu nữ tuổi Bính Thân này đã từ trần vì bệnh hoạn hay đã có nhiều lần tự tử vì quá tuyệt vọng.

Rất nhiều thắc mắc nơi khán thính giả được đặt ra về sự vắng mặt của cô. Thời kỳ này Ngọc Lan gần như không còn cố gắng được nữa để tiếp tục hoạt động mặc dù trước đó mỗi lần đi lưu diễn hoặc thu hình video, đều có một người em gái đi theo để giúp đỡ cô trong việc đi đứng vì thị lực của cô đã trở nên quá kém cỏi cũng như trí nhớ cô ở trong tình trạng sa sút trầm trọng. Tuy nhiên với mục đích đánh tan những tin đồn không tốt đối với tên tuổi của mình, Ngọc Lan cùng Kelvin Khoa đã dành cho Nam Lộc và Thụy Trinh một cuộc phỏng vấn truyền hình, phát hình vào ngày 14 Tháng Ba năm 1998 trên băng tần 18 của đài “Văn Nghệ Việt Nam” trên KSCI tại Nam California.

Qua cuộc phỏng vấn này, với mái tóc ngắn, một khuôn mặt gầy, Ngọc Lan đã tạo cho mình được một nét xinh xắn, gọn gàng. Tuy nhiên những nét mệt mỏi vẫn được dễ dàng nhận thấy được trên đôi mắt vốn dĩ đã luôn đượm vẻ u buồn.

Theo lời diễn tả về bệnh trạng của vợ mình với tác giả bài viết này trước đó cũng như với Nam Lộc và Thụy Trinh, nhạc sĩ Kevin Khoa cho biết là Ngọc Lan bị sưng một sợi giây thần kinh thị giác nên tầm nhìn của cô đã bị giảm sút từ 30-35%. Cũng theo Kelvin Khoa, các bác sĩ điều trị cho biết bệnh tình của Ngọc Lan đang trên đà thuyên giảm và sức khỏe đã khá hơn những ngày trước.

Riêng Ngọc Lan cho biết cô cũng cần hạn chế tham dự các buổi lưu diễn. Ngay cả những buổi thu hình trực tiếp trong các phim trường cho những chương trình video cũng không có mặt Ngọc Lan, thay thế vào đó là phần thu hình ngoại cảnh.

Trả lời cho câu hỏi về những tin đồn như Ngọc Lan bị mù, bị tê liệt, bị “tẩu hoả nhập ma” vì bùa ngải,… Ngọc Lan cũng như Kelvin Khoa chỉ cười và cho rằng óc tưởng tượng của người đời quả là phong phú. Ngọc Lan cũng cho biết là cô rất buồn về nguồn tin cô đã qua đời vì một căn bệnh hiểm nghèo, khởi nguồn từ một CD lậu ở Việt Nam. Theo cô đây là một kế hoạch lừa dối khán giả yêu mến giọng hát của cô để trục lọi bán băng nhạc cũng như CD của Ngọc Lan tại Hoa Kỳ cũng như ở Việt Nam.

Ngoài những lời đồn đại về tình trạng sức khỏe của Ngọc Lan vừa dược nhắc tới và đã được cô và chồng là Kelvin Khoa giải tỏa và chính thức trình bầy những sự kiện một cách công khai, còn có tin đồn cho rằng Ngọc Lan đã mang bầu và sanh con trong thời gian vắng bóng đó. Trước tin đồn này, vợ chồng Ngọc Lan cho biết đó cũng là điều mà họ dự tính và mong muốn. Nhưng rất tiếc vì tình trạng sức khỏe nên cô chưa có thể thực hiện được điều mơ ước này theo lời khuyên của bác sĩ.

Như thế những điều cần biết về tình trạng lúc đó của Ngọc Lan được coi như đã được giải đáp một cách thỏa đáng cho những người mến mộ cô. Với người viết bài này, Ngọc Lan cũng đã dành cho một cuộc phỏng vấn đặc biệt vào năm 1998 và cũng là lần phỏng vấn cuối cùng trong cuộc đời cô dành cho giới truyền thông mà trước đó cô rất ngại tiếp xúc.

Cuộc phỏng vấn này do chính Kelvin Khoa thu thanh tại ngay phòng thu của Ngọc Lan Musique, đại ý cũng giống như những điều cô đã trình bầy trong cuộc phỏng vấn truyền hình. Không ai ngờ rằng lần xuất hiện đó của Ngọc Lan là lần xuất hiện cuối cùng của cô để sau đó cô đã lùi hẳn vào trong bóng tối, tránh tất cả mọi tiếp xúc, dù ngay cả với bạn bè thân thiết.

Bệnh tình của Ngọc Lan càng ngày càng trầm trọng, nên trước tình trạng đó Kelvin Khoa phải đưa Ngọc Lan về sống với gia đình cô tại Huntington Beach để được săn sóc chu đáo hơn bởi bàn tay của những người ruột thịt cho đến khi cô nhắm mắt lìa đời tại bệnh viện Vancor vào ngày 06 Tháng Ba năm 2001 do chứng bệnh được chính thức gọi là “đa thần kinh hóa sợi.”

Trước đó không lâu, cô nhờ nhạc sĩ Ngọc Trọng sáng tác cho riêng mình một nhạc phẩm với nội dung giã từ sân khấu, nhưng Ngọc Trọng chưa hoàn tất điều mong muốn của cô thì Ngọc Lan đã ra người thiên cổ. Nhạc sĩ Trần Chí Phúc cũng cho biết anh đang nhen nhúm trong đầu để viết một nhạc phẩm với đề tài này và chắc chắn sẽ hoàn tất dù là muộn màng.

Trước đó Ngọc Lan cũng đã có dự định thực hiện một video thứ ba riêng cho mình cô. Nhưng dự định của Ngọc Lan không còn cơ hội hình thành. Tất cả đã theo cô vào trong lòng đất. Chúng ta, những người mến mộ Ngọc Lan không còn biết gì hơn là nói lên tiếng vĩnh biệt cô với lời cầu nguyện cho linh hồn Maria Lê Thanh Lan sớm được vào nước Thiên Đàng.

 

Kim Phượng sưu tầm

 

 

Theo dõi RSS này