Mỗi Cuộc Gặp Gỡ Trong Đời Đều Là Duyên Phận
Có câu nói rằng: “Hãy chấp nhận những điều mà số phận mang đến, và yêu thương những người mà số phận kết nối, và hãy làm điều đó với tất cả tấm chân tình”.
Một người sau khi trải qua nhiều biến cố trong...Mỗi Cuộc Gặp Gỡ Trong Đời Đều Là Duyên Phận
Có câu nói rằng: “Hãy chấp nhận những điều mà số phận mang đến, và yêu thương những người mà số phận kết nối, và hãy làm điều đó với tất cả tấm chân tình”.
Một người sau khi trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời, họ sẽ nhận ra rằng mọi thứ đều là sự an bài của ông Trời, mọi chuyện đều là định mệnh xảy ra và không có đúng sai.
Trong cuộc đời này, dù chúng ta thành công hay thất bại, được hay mất, gặp gỡ hay chia ly, thực ra, tất cả đều là định mệnh, chúng ta nên cố gắng hết sức, lắng nghe vận mệnh, tuân theo ý trời thì chúng ta sẽ có một cuộc đời bình yên.
1. Thành công hay thất bại đều là những thử thách mà ông Trời dành cho bạn
Cuộc đời này không thể lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, sẽ luôn có những khó khăn và mất mát để bạn hiểu được xung quanh mình điều gì là quan trọng nhất, để bạn hiểu rằng muốn có được thì phải mất và khi kiếm được thì biết trân trọng hơn.
Chỉ những người từng trải qua mất mát mới biết trân trọng hiện tại, biết đối xử tử tế với những người xung quanh và hài lòng với những gì mình đang có.
Cuộc đời này sẽ luôn có thành công và thất bại cùng tồn tại, khi bạn trải qua thất bại nghĩa là thời điểm thành công chưa đến, chính vì quá háo hức với thành công nên bạn sẽ thất bại. Khi bạn học được từ kinh nghiệm thất bại, bạn có thể thận trọng hơn và xem xét vấn đề một cách nghiêm túc hơn.
Chỉ những người biết nhìn lại bản thân sau thất bại mới có thể khởi đầu tốt hơn và rẽ sang một hướng đi tốt hơn.
2. Sinh, lão, bệnh, tử đều đã được sắp đặt
Trong cuộc đời này, bạn có thể sống được bao lâu và những điều bạn gặp phải thực chất là định mệnh. Có người sống đến 30 tuổi, có người sống đến 40 tuổi, có người sống đến 50 tuổi, có người sống đến 70 tuổi và có người sống đến một trăm tuổi.
Show more
Thank you 😊
Việt Nam – Nhìn Lại Sau 48 Năm Và Hướng Tới Tương Lai
Một cách tóm tắt, nhìn vào Việt Nam hiện nay sau gần nửa thế kỷ dưới chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản lãnh đạo, chúng ta thấy gì? Một đảng cầm quyền thất bại. Một chính phủ thất bại. Một quốc...Việt Nam – Nhìn Lại Sau 48 Năm Và Hướng Tới Tương Lai
Một cách tóm tắt, nhìn vào Việt Nam hiện nay sau gần nửa thế kỷ dưới chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản lãnh đạo, chúng ta thấy gì? Một đảng cầm quyền thất bại. Một chính phủ thất bại. Một quốc gia thất bại.
Cho đến nay các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện thành công hai mục tiêu duy nhất và quan trọng nhất đối với đảng: Một, giành được độc quyền lãnh đạo trên toàn cõi Việt Nam bằng mọi giá. Hai, giữ được quyền lực đó bằng mọi giá.
Cho đến nay đảng cộng sản Việt Nam vẫn là một trong vài đảng cộng sản còn lại trên thế giới được nắm trọn quyền. Không những thế, đảng cộng sản đã biến đất nước, nhân dân Việt Nam thành tài sản riêng, quyền sở hữu riêng của đảng, Với giang sơn lãnh thổ này đảng cộng sản muốn khai thác vơ vét tài nguyên đến cạn kiệt ra sao, muốn cắt nhường lãnh thổ lãnh hải hay đem cho thuê dài hạn, tùy ý. Với 100 triệu người dân, đảng tha hồ vắt kiệt mồ hôi sức lao động của dân qua đủ loại thuế phí cắt cổ, đưa dân đi “lao động xuất khẩu” để thu gom ngoại tệ, đảng muốn bắt ai, thả ai, kết án ai với đủ thứ tội danh mù mờ, đày ải ai… như thế nào, tùy ý. 5,3 triệu đảng viên hầu hết là có đời sống sung túc, của chìm của nổi hơn rất nhiều thành phần khác trong xã hội. Chức càng cao thì càng giàu, có nhà cửa bất động sản, tài khoản ngân hàng ở nước ngoài, con cái toàn đi học ở những trường ngon nhất tại các quốc gia phương Tây giàu có, văn minh nhất. Đúng với câu hát “bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình” (lời bài hát Quốc tế ca, tiếng Pháp: L’Internationale). Đúng với ý nghĩa đảng cộng sản đi làm cách mạng không phải để cứu nước, giải phóng nhân dân mà để “giải phóng” chính họ.
Nhưng sau gần nửa thế kỷ kể từ ngày giành được toàn Việt Nam về tay mình, đảng cộng sản vẫn là một đảng cầm quyền thất bại, chính phủ này vẫn là một chính phủ thất bại, và Việt Nam vẫn là một quốc gia thất bại.
Show more
Tại sao lại nói đảng cộng sản thất bại? Bởi vì, họ thắng một cuộc chiến nhưng đại bại trong hòa...Việt Nam – Nhìn Lại Sau 48 Năm Và Hướng Tới Tương Lai
Tại sao lại nói đảng cộng sản thất bại? Bởi vì, họ thắng một cuộc chiến nhưng đại bại trong hòa bình, khi đã phản bội lại toàn bộ lý tưởng xây dựng “một nước XHCN giàu mạnh, công bằng, tốt đẹp gấp trăm lần các nước tư bản phương Tây”, phản bội lại toàn bộ học thuyết, lý luận chủ nghĩa Mác Lenin, mô hình thể chế XHCN mà họ từng tôn thờ lúc đầu và bắt nhân dân phải đi theo, tất cả những gì mà hồi xưa họ lên án thì bây giờ họ đang quay ngược 180 độ làm theo mà còn tệ hại hơn gấp bội.
Họ cũng thất bại vì đối nội không thu phục được nhân tâm, đối ngoại phải quay sang bắt tay với Mỹ, thắng Mỹ nhưng bây giờ từ người dân cho đến quan chức đều cho con đi du học ở Mỹ (và các nước dân chủ phương Tây), thích hàng hóa cho tới cuộc sống Mỹ, đều tìm đường sang Mỹ định cư; và vẫn phải cần đến Mỹ trước sự hung hăng bành trướng của Bắc Kinh trên biển Đông. Chưa kể, họ thất bại vì đuổi Mỹ đi nhưng lại tự nguyện rơi vào cái vòng kim cô của Trung Cộng, bị trả giá thêm 2 cuộc chiến khác, bị mất thêm đảo, lãnh thổ lãnh hải vào tay Bắc Kinh v.v…
Không những đã phản bội hàng chục triệu người dân miền Bắc, trong đó có hàng triệu người ngã xuống vì tin vào “cuộc chiến tranh thần thánh chống Mỹ, giải phóng miền Nam” cho một tương lai tốt đẹp hơn, họ cũng phản bội xương máu của những người lính đã ngã xuống ở Trường Sa và trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, khi quay lại cầu hòa với Trung Cộng, gọi kẻ thù là đồng chí, anh em và nhiều năm sau vẫn không dám nhắc đến cuộc chiến này.
Càng ngày họ càng không thuyết phục được phần lớn người dân Việt Nam tin vào mô hình thể chế, vào tính chính danh, vào con đường đi lên CNXH của họ. Xã hội Việt Nam bây giờ ai cũng biết, hoàn toàn không phải là một xã hội XHCN, mà là một xã hội tư bản hoang dã, rừng rú, kết hợp với mô hình thể chế độc tài toàn trị. Và bây giờ thì có thể nói hơn 90% đảng viên cũng không tin vào điều đó hay có lý tưởng gì cả, ngoài chuyện phải bám lấy đảng vì quyền lợi.
Về mặt chính quyền, nhà nước cộng sản Việt Nam là một chính quyền thất bại, vì không xây dựng được một nền kinh tế tự lực tự cường, mà chủ yếu vẫn chỉ bán nông ngư sản, bán nguyên liệu thô, bán sức lao động rẻ mạt của nhân dân. Một nền kinh tế và chính trị quá phụ thuộc vào nước láng giềng Trung Cộng còn vũ khí thì phụ thuộc vào Nga, để bây giờ khi vũ khí của Nga đã chứng tỏ sự thua kém rất xa so với vũ khí của Hoa Kỳ và một số quốc gia phương Tây trong cuộc chiến Ukraine và Nga phải bắt tay với Trung Cộng cũng như tương lai sẽ phải phụ thuộc vào Trung Cộng nhiều thứ thì Việt Nam bị rơi vào thế khó. Không xây dựng được xã hội tốt đẹp, mọi điều nhà nước cộng sản hứa hẹn họ không làm được, ngay một ví dụ là chống tham nhũng họ tiến hành bao lâu nay, mở cả chiến dịch “đốt lò”, bắt bớ hàng trăm quan chức tham nhũng thuộc mọi lĩnh vực, cấp bậc, nhưng tệ nạn tham nhũng vẫn cứ hoành hành, tàn phá xã hội như một căn bệnh ung thư ở thời kỳ cuối.
Cuối cùng, Việt Nam là một quốc gia thất bại vì bị tụt hậu, thua kém nhiều mặt ngay đối với các nước láng giềng chứ chưa nói đến vị trí trên toàn cầu, không được thế giới ngưỡng mộ vì những thành tích trong các lĩnh vực kinh tế, quân sự, quốc phòng, hay sự hào phóng, tử tế với thế giới, ngược lại, luôn luôn bị đánh giá rất tệ về tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, hồ sơ nhân quyền, chỉ số minh bạch quốc gia, chỉ số Dân chủ v.v… Một quốc gia thất bại vì người dân không được sống trong tự do, dân chủ, văn minh, hạnh phúc, bằng chứng rõ ràng của điều này là ngay sau khi cuộc chiến vừa kết thúc chưa bao lâu, người Việt đã ồ ạt bỏ nước ra đi và suốt gần nửa thế kỷ, dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại. Không biết ai đã nghĩ ra cụm từ “bỏ phiếu bằng chân” chính xác đến thế.
Để hiểu rõ hơn, hãy thử tìm hiểu ngược lại thế nào là một quốc gia thành công, một dân tộc thành công? Không so sánh với những cường quốc lớn về diện tích, dân số, về nền kinh tế, hãy thử nhìn sang các nước Bắc Âu như như Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy dù nhỏ bé, dân số chỉ có từ 5 đến 10 triệu người nhưng thế giới luôn luôn khâm phục, đánh giá rất cao các quốc gia này vì có nền kinh tế phát triển cao, có một hệ thống phúc lợi xã hội rộng rãi, luôn đạt thứ hạng cao trong nhiều bảng xếp hạng quốc tế về chất lượng cuộc sống, y tế, giáo dục, bảo vệ tự do dân sự, cạnh tranh kinh tế, bình đẳng, thịnh vượng và phát triển con người cho tới Chỉ số Liêm chính công, Chỉ số Dân chủ… Các quốc gia này cũng luôn luôn nằm trong top các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới hàng năm.
Thế giới cũng khâm phục quốc gia Israel mặc dù có diện tích lãnh thổ nhỏ cũng như dân số khiêm tốn chưa đến 10 triệu người, nhưng có bình quân thu nhập đầu người vào mức rất cao, với hạng 19 toàn cầu, đồng thời là nền kinh tế lớn thứ 30 trên thế giới, lực lượng lao động có tư chất, có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có sức mạnh quân sự, kinh tế và tầm ảnh hưởng lớn về văn hóa, chính trị nên vẫn được công nhận là một cường quốc khu vực tại Trung Đông cũng như là một trung cường quốc trên thế giới.
Hoặc như Đài Loan bị hạn chế công nhận chủ quyền, bị Trung Cộng tìm mọi cách cản trở sự phát triển và hội nhập với thế giới bằng chính sách ngoại giao thù địch dựa trên nguyên tắc Một Trung Quốc, nhưng Đài Loan vẫn vươn lên mạnh mẽ. Nền kinh tế Đài Loan từ thập niên 1960 trở đi có sự phát triển thần tốc, tạo nên Kỳ tích Đài Loan. Từ thập niên 1990, Đài Loan trở thành quốc gia phát triển. Đài Loan hiện nay là trung cường quốc, nền dân chủ đang hoàn thiện từng ngày, xã hội văn minh, tiến bộ…
Sơ sơ như thế để thấy Việt Nam, có diện tích trung bình, dân số gần 100 triệu đứng đứng thứ 15 trên thế giới, có tài nguyên khoáng sản, vị trí địa chính trị thuận lợi, nhưng sau gần nửa thế kỷ thống nhất làm một dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản đã thành công hay thất bại. Những sự thay đổi trong đời sống của một bộ phận dân chúng hay trên bề mặt tại các thành phố, tỉnh thành lớn chỉ là so với chính Việt Nam của thời kỳ bao cấp hay với Miền Bắc trước năm 1975 mà thôi, còn nếu đi về làng quê, vùng sâu vùng xa, đời sống của dân nghèo, đồng bào các sắc dân bản địa, dân tộc thiểu số vẫn rất cực khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ.
Những sai lầm, tội ác và những di sản nào nặng nề nhất mà đảng cộng sản đã và đang gây ra cho đất nước, dân tộc Việt Nam?
Không có một đảng cầm quyền nào, một chế độ nào trong lịch sử hơn 4000 năm của Việt Nam mà mức độ phá hoại của nó lại kinh khủng và di họa để lại về sau lại to lớn như chế độ độc tài do đảng cộng sản lãnh đạo. Có thể kể ra rất nhiều sự phá hoại vô cùng nghiêm trọng như:
– Tài nguyên cạn kiệt, môi trường thiên nhiên bị tàn phá nặng nề.
– Gây thêm sự chia rẽ trong dân tộc. Dân tộc Việt Nam vốn đã bị chia rẽ nặng nề do hậu quả của một cuộc nội chiến dài 30 năm, vết thương đó lại càng bị khoét sâu vì những chính sách trả thù tàn bạo của đảng và nhà nước cộng sản đối với những người thua cuộc sau ngày 30/4/1975, chính sách phân biệt lý lịch, bất công vùng miền… trong suốt thời gian qua.
– Những sai lầm trong chính sách nhu nhược với Trung Cộng khiến Việt Nam bị mất thêm đảo, lãnh thổ lãnh hải, bị phụ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị, quốc phòng.
– Nhưng nghiêm trọng hơn là đảng cộng sản đã hủy diệt bao nhiêu nhân tài của đất nước, tiêu diệt tầng lớp trí thức với ý nghĩa thực sự của hai từ này – trí thức là có kiến thức độc lập, quan tâm đến vận mệnh đất nước, có tinh thần phản biện lại những sự sai trái của chính phủ… – chỉ còn lại “đội ngũ” công chức, cán bộ ngoan ngoãn cúi đầu ngậm miệng vâng theo lệnh đảng. Tiêu diệt văn hóa tự do sáng tạo, chỉ còn lại những sản phẩm tuyên truyền một chiều. Tàn phá niềm tin của con người vào con người, vào luật pháp, vào tương lai vận mệnh của đất nước và khi hoàn toàn mất niềm tin thì người dân không cảm thấy phải gắn bó sống chết vì một tương lai chung, vận mệnh chung, ngược lại chỉ lo vơ vét thủ thân, thậm chí coi quê hương như cái “quán trọ” để sống tạm rồi tìm cách “hạ cánh an toàn” ở nước ngoài khi có cơ hội v.v… Chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam cũng tiêu diệt dũng khí, tính nhân bản, lòng tử tế, sự trung thực, phẩm giá, nhân cách của con người.
– Xã hội Việt Nam bây giờ là một xã hội khủng hoảng giá trị, khủng hoảng niềm tin, đạo đức xuống cấp. Và tất cả những điều đó sẽ mất rất nhiều thời gian để phục hồi, xây dựng lại.
Quê hương sau 48 năm, tương lai đi về đâu?
Cứ nhìn vào chân dung giới lãnh đạo ở những vị trí cao nhất và tư duy, trí tuệ, tầm nhìn của họ qua từng hành động, phát ngôn, là sẽ có câu trả lời.
Cứ nhìn vào đám quan chức từ Nam ra Bắc tiếp tục điên cuồng vơ vét, bán đắt bán rẻ mọi thứ còn lại cho tới từng phần lãnh thổ của Tổ quốc, đua nhau hốt hụi chót trước khi nhảy sang nơi khác và hạ cánh an toàn… là sẽ có câu trả lời.
Cứ nhìn vào phần lớn tầng lớp người giàu trong xã hội, đồng tiền của họ từ đâu ra, cách họ làm giàu, cách họ tiêu tiền, có phần nào dành đầu tư vào những lĩnh vực/những dự án lâu dài mang tính quốc gia, trả nợ lại cho xã hội hoặc vun đắp cho các thế hệ tương lai hay không… là sẽ có câu trả lời.
Cứ nhìn vào giới trí thức, có bao nhiêu phần trăm lên tiếng vì những bất công, phi lý của xã hội, là sẽ có câu trả lời.
Cứ nhìn vào những người trẻ tuổi, hầu hết đang nghĩ gì, mơ gì, là sẽ có câu trả lời.
Cứ nhìn vào bức tranh của ngành giáo dục, là sẽ có câu trả lời.
Cứ nhìn vào dòng người suốt 48 năm qua vẫn không ngừng bỏ nước ra đi, bằng nhiều con đường khác nhau, ngày càng thêm nhiều thành phần khác nhau kể cả những người thành đạt, các đại gia, các quan chức cộng sản và con cháu họ… là sẽ có câu trả lời.
Hòa hợp hòa giải dân tộc, vì sao vẫn chưa làm được?
Có cuộc chiến nào đã kết thúc gần nửa thế kỷ nhưng trong lòng đa số người dân, dù có trực tiếp dính líu đến cuộc chiến hay không, dù ở phe nào, vẫn chưa hoàn toàn bình yên, vẫn đầy chia rẽ, như cuộc chiến Việt Nam?
Không chỉ nhà cầm quyền Việt Nam từ nhiều năm qua cứ lặp đi lặp lại cụm từ “hòa giải hòa hợp dân tộc”, mà rất nhiều người, phần lớn chưa thực sự trải qua những bi kịch sau ngày 30/4/1975, cũng lên giọng chỉ trích những người khác rằng sao cứ nhắc mãi về quá khứ, tại sao không bỏ qua những hận thù cũ, cùng nhau xây dựng đất nước v.v… Thật ra mọi lời kêu gọi “hòa giải hòa hợp dân tộc” hay gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, trong một chừng mực nào đó là ngây thơ (hoặc giả dối, đứng về phía nhà nước Việt Nam khi họ nói rất nhiều ở đầu môi chót lưỡi nhưng không làm được một hành động thành tâm thiện ý nào cụ thể) và vẫn sẽ không làm được, chừng nào chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam còn chưa thay đổi về bản chất.
Về phía đảng và nhà nước cộng sản, khoan hãy nói tới những điều xa vời như kêu gọi họ khoan dung, “hòa giải hòa hợp” với bên thua cuộc, hay thừa nhận những sai lầm, tội ác của họ trong quá khứ, mà trước hết họ hãy tỏ ra khoan dung đối với những người dũng cảm nói lên thực trạng đất nước, chỉ ra những cái sai trong đường lối chính sách của nhà nước Việt Nam trong hiện tại đi đã. Chừng nào họ còn đối xử tàn bạo, dã man, coi dân như kẻ thù, chừng nào họ còn cướp đất của dân, còn không cho phép người dân mở miệng, không cho phép người dân được có những cái quyền cơ bản của một Con Người, một công dân, chừng nào họ còn coi đất nước này chỉ là của riêng của một đảng, thậm chí của riêng của một nhóm người, và muốn làm gì đất nước này thì làm… thì đừng nói đến chuyện họ khoan dung với bất cứ ai.
Và một khi họ còn hành xử như vậy thì có cửa nào để người khác hợp tác với họ xây dựng đất nước không, hay mới có mấy người ra ứng cử đại biểu Quốc hội là bị bắt hết, có mấy người định lập hội (như Hội nhà báo độc lập), định làm báo khác đi (nhóm Báo Sạch) thì cũng bị tóm hết?
Hòa giải hòa hợp ở đây theo cái nhìn của đảng cộng sản chỉ có nghĩa là chấp nhận vô điều kiện chế độ độc tài Việt Nam và quyền lãnh đạo duy nhất, vĩnh viễn của đảng cộng sản. Và nếu như gần 100 triệu người dân trong nước không có quyền gì đối với nhà nước cộng sản ngoài cái quyền đóng thuế, thì người Việt Nam ở hải ngoại cũng chỉ có một cái quyền duy nhất là gửi tiền về, hoặc bỏ tiền ra đầu tư làm lợi cho chế độ. Mà ngay cả chuyện đầu tư này cũng đã có nhiều người về Việt Nam làm ăn, cuối cùng bị nhà nước Việt Nam tìm cách “bẫy”, lấy hết tiền, trở thành trắng tay!
Ứng xử thế nào với quá khứ?
Nhìn ra thế giới, chúng ta có thể thấy biết bao nhiêu bài học từ các dân tộc “trưởng thành” trong việc ứng xử với quá khứ.
Như cách người Mỹ thừa nhận mình thua trong cuộc chiến Việt Nam và mổ xẻ về những thất bại đó để không lập lại, cách người Nhật vươn mình đứng dậy sau đại bại trong thế chiến thứ Hai và trở thành một cường quốc như ngày nay, cách người Đức tự sám hối những tội ác của mình trong giai đoạn phát xít nói chung và với dân tộc Do Thái nói riêng – cả hai dân tộc Nhật, Đức ngày nay đều trở thành những quốc gia thân thiện, tích cực giúp đỡ các nước khác… Người Đức cũng có thêm tấm gương về chuyện thống nhất bằng con đường hòa bình và hòa giải hòa hợp dân tộc giữa hai miền Đông-Tây, người Mỹ là chuyện ứng xử với nhau sau cuộc nội chiến Nam-Bắc v.v…
Điều đó cho thấy dân tộc nào biết nhìn thẳng vào sự thật, biết sám hối và biết học những bài học từ quá khứ thì dân tộc đó, quốc gia đó sẽ vượt lên quá khứ, trở thành những quốc gia giàu mạnh, thành công, tốt đẹp hơn.
Điều đó cũng lý giải tại sao đảng cộng sản có thể bình thường hóa quan hệ với những cựu thù như Mỹ, Trung Quốc mà vẫn không làm hòa được với chính đồng bào của mình. Đảng cộng sản Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ từ năm 1995, tức là 20 năm sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Đối với Trung Cộng, họ còn mau mắn hơn – năm 1991, sau một loạt các cuộc đụng độ quân sự trên biên giới và hải đảo giữa hai nước kéo dài từ 1979-1989 và việc Trung Cộng đánh chiếm Gạc Ma mới xảy ra năm 1988.
Cái khác nhau là vì khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ hay với Trung Cộng, không ai bắt họ phải nhìn lại quá khứ, mổ xẻ quá khứ, sám hối hay sửa chữa những gì họ đã làm!
Vấn đề bây giờ không chỉ riêng đảng và nhà nước cộng sản mà chỉ khi nào người Việt Nam chúng ta có thể ứng xử với quá khứ như một số các dân tộc vĩ đại khác, thì chúng ta mới có hy vọng bước qua quá khứ, hướng tới tương lai.
Những gì mỗi người Việt chúng ta có thể và cần phải làm
Vận mệnh của một quốc gia, một dân tộc phải do chính dân tộc đó tự quyết định.
Một chế độ độc tài đã quen với việc nắm trọn quyền lực trong nhiều năm và dày dạn kinh nghiệm “đối phó” với nhân dân và dư luận quốc tế như đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam sẽ không bao giờ chịu lùi bước, nhân nhượng nếu chưa thật sự bị ép vào đường cùng, và sức ép đó phải từ người dân Việt Nam cộng với những biến chuyển của tình hình chính trị trên thế giới. Sức ép đó phải diễn ra hàng ngày, ngày này qua ngày khác, và là công việc chung của mọi người, mỗi người góp phần một chút, trên hành trình thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa đất nước.
Không chờ đợi, kêu gọi gì ở đảng và nhà nước độc tài này, mỗi người chúng ta tập hòa hợp với nhau, tôn trọng sự khác biệt, đa nguyên. Tập làm người dân chủ. Tập suy nghĩ độc lập, tự do. Sống trung thực, tử tế. Không chờ đến khi giành được đất nước rồi mới xây dựng con người dân chủ.
Nhìn lại lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta thấy so với nhiều dân tộc khác, dân tộc Việt Nam thật bất hạnh vì cho tới tận bây giờ, chúng ta chỉ có vỏn vẹn 20 năm một nửa nước được sống trong một thể chế tương đối dân chủ, một xã hội tương đối tự do và nhân bản. Còn lại, vừa thoát ra khỏi thời kỳ thực dân phong kiến là rơi vào nội chiến, rồi bị kìm hãm bới một chế độ độc tài toàn trị.
Nhưng có những dân tộc đã biến cái không may thành lợi thế, nhờ biết học bài học của quá khứ, của lịch sử.
Biết đâu nhờ cái không may, nhờ sự bất hạnh đó mà người Việt sẽ không còn lầm lẫn, mơ hồ về chủ nghĩa cộng sản, về những lời mỵ dân, về cái bánh vẽ “thiên đường XHCN dưới sự dẫn dắt của đảng cộng sản”, nhận chân ra nhiều sự thật và từ đó khát khao dân chủ hóa đất nước càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Song Chi
Theo Diễn Đàn Thế Kỷ ngày 30 tháng 4, 2023 Show more 2 years ago
Gom góp từ ngữ miền Nam và Sài Gòn xưa
Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Sài Gòn/Miền Nam hay dùng, như: Mèn ơi, Nghen, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,…, và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu...Gom góp từ ngữ miền Nam và Sài Gòn xưa
Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Sài Gòn/Miền Nam hay dùng, như: Mèn ơi, Nghen, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,…, và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm… Xin nhờ bạn đọc comment thêm những từ nào còn nhớ để có thể góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Sài Gòn và miền Nam trước đây, e rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một…
Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Sài Gòn, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Và bài hát “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cô gái chạy xe chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng theo sau năn nỉ làm quen, không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghe. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo ke” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các chúng đã từng nghe trên các video chương trình Ca nhạc, kể chuyện,… Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Sài Gòn miền Nam, nếu dùng google dịch thì câu “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua), google nó dịch ra như vầy: “through through through through this gaping expression too”. Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà…
Show more
Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật...Gom góp từ ngữ miền Nam và Sài Gòn xưa
Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng beng (từ bèng beng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết… Ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén” , ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh. Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể. Thí dụ: Khi nghe ai nói chuyện lặp đi lặp lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn: “Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa em về!”. Người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghe ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi Diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt. Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dzậy?”. Cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): “Xí! Hổng chịu đâu”, ”Xí! Cha già dịch nè!”, ”Sức mấy!”, “Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “Cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghe rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghen. Nhưng đến khi nghe câu: ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghen!” thì coi chừng… liệu hồn đó. Thật ra không phải người Sài Gòn ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình dân mới dám xài từ như “Mả cha, Tổ mẹ” để kèm theo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được ba má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa. Ra đường nghe mấy đứa con nít nói “DM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghe Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghen!” Chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền: “Chỗ người lớn nói chuyện không được chen vô nhớ chưa?” Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Sài Gòn dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Game Show chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ”, “Các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghe thấy nó lạ lạ làm sao đâu á… Tò te tí te chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Sài Gòn một trời thương nhớ! Trân trọng, Tác giả Nguyễn Cao Trường
A-ma-tưa(ơ) = hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp amateur) À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha) Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ chừng = dự đoán (từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu chiều nay nó dìa tới đó bây) Anh em cột chèo Áo ca-rô = áo kẻ ô (bắc) Áo thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc) gốc Pháp maillot Áp-phe = trúng mánh, vô mánh (chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền!) gốc tiếng Pháp affaires Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả (billard: để hết áp-phê bên trái chúi đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà) Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng Ăn cộc đi con = ăn nhiều dô (Gò Công) Ăn hàng = ăn uống, đi ăn cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăn cơm trưa-chiều. (Thường chỉ có con gái mới dám đi ăn hàng, hồi xưa con trai không dám đi ăn hàng vì bị chọc thì mắc cở lắm, thêm nữa, gia đình giáo dục con trai khác với con gái, thường Ông Bà Bô hay nói: “con trai phải ra con trai nghen, ai đời con trai mà ăn hàng như con gái”. Con gái mà đi ăn hàng nhiều cũng bị la rầy. (sau này mấy tay trộm cướp cũng xài từ “ăn hàng”, tức là đi giựt dọc, cướp bóc từ sau 1975) Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách) Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn) Bá chấy, bá phát = quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó! Là ngon quá trời đất luôn! Ba ke, Ba xạo = xạo – sau này (1975) có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía (đừng có đía = đừng có nói xạo) Ba lăm = 35 = già dê (dê 35) Ba lơn = tính hay đùa cợt, chòng ghẹo người khác nhưng không gây hại, hoặc có chủ đích hại người Bá Láp Bá Xàm = Tầm xàm – Bá láp Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa) Ba Tăng = Bảo kê gốc Pháp patente Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường Bành ki = bự Banh ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe) Bảnh tỏn, Sáu bảnh = đẹp ra dáng (mặt đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha) Banh xà lỏn Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng) Băng = nhà băng, ngân hàng gốc Pháp (banque) Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi Bắt kế: là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn Bất thình lình = đột ngột, Bất tử Bầy hầy = bê bối, ở dơ Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa) Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!) Bí lù = không biết đường trả lời, không biết Bí xị = buồn Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy Biết sao hôn! Biệt tung biệt tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo, nhưng câu “ai biểu” thì lại có hàm ý người kia: “tự làm thì tự chịu” Bình thủy = phích nước Bình-dân = bình thường Bít bùng Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít) Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình) Bỏ thí = bỏ Bồ = gọi bạn thân thiết (Ê chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen) Bồ đá = bị bạn gái bỏ Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay (nay) Buồn xo, buồn hiu = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? ) Buột = cột Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về / bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?) Cà chớn cà cháo = không ra gì Cà chớn chống xâm lăng. Cù lần ra khói lửa. (một câu nói trong thời chiến) Cà giựt = lăng xăng, lộn xộn Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện Cà lăm = nói lắp Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhõng tối ngày), có khi gọi là nhõng nhõng Cà lơ phất phơ Cà rem = kem Cà rề, Cà rịt cà tang = chậm chạp Cà rịch cà tàng Cà rởn = giởn chơi cho vui, ngoài ra cũng có nghĩa như ba lơn Cà tàng = bình thường, quê mùa,…. Cà tong cà teo = ốm, gầy yếu Cà tưng cà tửng Cái thằng trời đánh thánh đâm Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây Cạn tàu ráo máng; ăn cháo đá bát = vô ơn Càng quấy = phá phách hư hỏng Cạo đầu khô Cảo = kéo, rít (cảo điếu thuốc gần tới đót) Cảo Dược= làm cho thẳng Có chi hông? = có chuyện gì không? Coi = thử; liền vd: Nói nghe coi? Làm coi Coi bộ ngon ăn, ngon ăn đó nghen = chuyện dễ ăn (không liên quan tới ngon dỡ – chuyện này làm coi bộ ngon ăn đó nghen!) Coi được hông? Còn ai trồng khoai đất này = chính là tôi, “tôi đây chớ ai” Còn khuya = còn lâu (uh! mày ngon nhào vô kiếm ăn, còn khuya tao mới sợ mày!) Con ở = người ở, (nay Oshin từ tựa đề bộ phim của Nhật) Cô hồn, các đảng Công tử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh yếu đuối- Xem thêm Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh… (thằng này cù lần quá!) Cua gái = tán gái Cụng = chạm Cuốc = chạy xe (tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Sài Gòn cũng được trăm hai bỏ túi!) Cưng = cách gọi trìu mến (“Cưng” dân Trảng bàng nè! Trên cưng ”dẫn” ”sài” ”dậy” hà) Cứng đầu cứng cổ Chả = Cha đó Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi!” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?) Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi (Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi!) Cháy túi = hết tiền Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về (thôi tụi bây ở chơi tao chạy (dọt) trước à!) Chẩu: 走 nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông Chạy te te = chạy một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te ra đằng sau trốn mất tiêu rồi Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức – cũng có nghĩa là chơi thoải mái – “mày cứ chơi “tẹt ga” (mát trời ông địa) đi, đừng có sợ gì hết, có gì tao lo” (ga = tay ga của xe) Chạy u đi Chạy vắt giò lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chạy không kịp thở Chằn ăn trăn quấn = dữ dằn Chăm bẳm = tập trung (dòm cái gì mà dòm chi chăm bẳm vậy?) Chậm lụt = chậm chạp, khờ Chận họng = không cho người khác nói hết lời Chém vè (dè)= trốn trốn cuộc hẹn trước Chén = bát Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên Chèo queo = một mình (làm gì buồn nằm chèo queo một mình dậy? ) Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó). Chiên = rán Chình ình, chần dần = ngay trước mặt (Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt) Chịu = thích, ưa, đồng ý (Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn) Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác Chói lọi = chói sáng Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè) Chỗ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác Chột dạ = nghe ai nói trúng cái gì mình muốn dấu Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy?) Chưn = chân Chưng hững = ngạc nhiên Chưng ra = trưng bày Dạ, Ừa (ừa / ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ Dạo này = thường / nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! / thường) Dấm da dấm dẵng Dân chơi cầu ba cẳng = dân giang hồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa (nhìn mày giống dân chơi cầu ba cẳng quá) Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó Dè chừng = coi chừng (Tui lỡ nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn) Dễ tào = dễ sợ Dì ghẻ = mẹ kế Dị hợm = quái dị, không giống ai – Dĩa = Đĩa Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng) Diễu dỡ =? Dọt lẹ Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi) Dù = Ô Du ngoạn = tham quan Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”) Dùng dằng = ương bướng Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn ) Dữ đa thường dùng cuối câu ” cái này coi bộ khó kiếm dữ đa” Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói) Dừa dừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá Đá cá lăn dưa = lưu manh Đa đi hia = đi chỗ khác. Đã nha! = Sướng nha! Đài phát thanh = đài tiếng nói Đánh dây thép = gữi điện tín Đàng = đường (Đi một đàng học một sàn khôn) Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn (học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông) một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau. Đánh tù xầm, Quảnh tù xì = oẳn tù tì (trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao) gốc từ tiếng Anh: one two three Đâm ra = thành ra Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài tử cải lương = nam Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?) Đầu đường xó chợ Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen Đẹp trai con bà Hai = đẹp Đế = chen thêm (đang nói nó đế vô một câu chận họng làm tui câm luôn) Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9 Đi bang bang = đi nghênh ngang Đi bụi Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí Đi mần = đi làm Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà) Đồ già dịch = chê người mất nết tùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ có hàm ý khác Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo Đờn = đàn Đùm xe = Mai-ơ Đực rựa = đàn ông, con trai Đừng có mơ, đừng có hòng Được hem (hôn/hơm)? = được không? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm Gác dan = bảo vệ, người gác cổng (gốc Pháp: gardien) Gần xịt = thiệt là gần Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê Ghét = tùy cách nhấn giọng và kéo dài thì …. ghét chưa chắc đã ghét mà chỉ là câu nói thể hiện thương, hay chấp nhận nữa hổng chừng. Ngó nó mà thấy ghét ghê ê ê ê! (ghét thương) chớ hồng phải NHÌN (giọng Bắc) thấy ghét. Dòm cái bản mặt nó mà phát ghét (ghét thiệt) Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê Ghệ linh = em đẹp Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích Già dịch = Già dê Già háp = già khằn, già cú đế Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc) Ghi-đông, Bọt-ba-ga (guidon, porte-bagages) Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp Hay như = hoặc là Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp) Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông) Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn Héo queo = xụi lơ, bi xị Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết) Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á!) Hôi mợi= thôi mày ơi Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng hổm bữa = hôm trước Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay Hổng có chi! = không sao đâu Hổng chịu đâu Hổng thích à nhen! Hổng xi nhê = không ăn thua, không có ý nghĩa gì hết , (Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì) gốc Pháp signifier Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài Hờm = chờ sẵn ( tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo luôn) Hợp gu = cùng sở thích (goût) Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi (nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin) Hú hồn hú vía Kẻo = coi chừng (Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe) Kể cho nghe nè! = nói cho nghe Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,… xem thêm bài kêu đò Thủ Thiêm Kêu giựt ngược = kêu gấp bắt buột người khác phải làm theo ý mình (kêu cái gì mà kêu như giựt ngược người ta hà!) Kinh thiên động địa Khán thính giả (người xem kịch, cải lương, truyền hình,…) trong đó Khán (看): xem – Thính (聽): nghe, giả (者 ) = người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu ngắn gọn là khán giả: chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi Khính = ké – mặc đồ khính, đi ăn khính,… Khỉ đột Khỉ gió Khỉ khô Khó ưa = chê nhưng có lúc lại là khen. (Mặt thằng nhỏ khó ưa quá hà!) Khoái tỉ = thích gần chết Không thèm = không cần (Làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ qua nhữ lại trước mặt tui?) Lâu lắc= chậm trễ, trễ nãi hàm ý trách móc (Kêu hoài sao ko mở cửa, làm gì trong trỏng mà lâu lắc vậy?) Lai căng = không nguyên bản Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm Làm (mần) dzậy coi được hông? Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh Làm gì mà toành hoanh hết zậy Làm mướn = làm thuê Làm nư = lì lợm, làm cho lợi gan Làm um lên = làm lớn chuyện Lán cón = bảnh bao (có thể do hồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này) Lanh chanh Lạnh xương sống Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa) Láo-háo = khoảng chừng (tuổi nó láo háo cở tuổi tao chứ mấy) Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa) Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu Lặc lìa lặc lọi = ? Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen) Lăn cù mèo = lăn long lóc, té ngữa Lắc lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng lại Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào) Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?) Lấy le = khoe đồ Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai (đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy) Leo cây; leo cây me = thất hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi. Lèo = thất hẹn – hứa lèo Lề mề Lên bờ xuống ruộng Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha! Liệu = tính toán (thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó nhen!) Liệu hồn = coi chừng Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái Lóng rày = hổm rày (thời gian gần đây) Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt) Lộn = nhầm (nói lộn nói lại) Lộn xộn = làm rối Lục cá nguyệt: sáu tháng. Ví dụ: Nộp báo cáo sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt. Lục đục = không hòa thuận (gia đình nó lục đục quài), đôi khi lại có nghĩa khác (Làm gì lục đục ở sau bếp hoài vậy bây?) Lụi hụi = (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!) Lùm xùm = rối rắm, Lung tung xà beng Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen) Lười chẩy thây; đại lãn; liệt = làm biếng Má = Mẹ Mả = Mồ Ma lanh, Ma le gốc Pháp (malin) Mã tà = cảnh sát Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa Mari sến = sến cải lương Mạnh giỏi = mạnh khỏe Mát trời ông địa, tẹt ga = thoải mái Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ Mắc cười = buồn cười Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt. Nhưng cũng có nghĩa nói ngầm là đồng ý nữa, thí dụ: “Giữ đi, mắc dịch không hà trả lại tui mần chi?” Mắc địt = dỡ ẹt; một cách chê cái gì đó dỡ Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm Mần ăn = làm ăn Mần chi = làm gì Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa) Mé = phía (nhà ổng ở xích mé bên kia kìa) Mé = tỉa nhánh Mè nheo = Mèo nheo Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng (cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba rầy) Mét = mách Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) gốc K’mer Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò Mở bum, mở ban: Mở party nhấy đầm Mợi = mày ơi Mồ tổ! = câu cảm thán Một lèo, một hơi = một mạch Muỗng = Thìa, Môi Mút mùa lệ thủy = mất tiêu Mút chỉ cà tha Mừng húm Mưa thúi đất (nam bộ) xem thêm tháng mười “mưa thúi đất” để rõ hơn Nam Tàu Bắc Đẩu Nào giờ = từ trước tới nay Năn nỉ ỉ ôi Niềng xe = vành xe Nói nghe nè! Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm Nổ banh xác = nói láo Nổ dữ dội= quăng lựu đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạn” vô chợ khủng bố dân lành) Nổi cơn tam bành = giận dữ Nước lên, nước xuống, nước rồng (thủy triều) Nước phun-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine Ngang Tàng = bất cần đời Nghen, hén, hen, nhen Nghía = ngắm Ngó = Nhìn, dòm Ngó lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó Ngoại quốc = nước ngoài Ngõ đường = ngã đường (ngõ ba ngõ tư) Ngon bà cố = thiệt là ngon Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén) Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp) Ngủ nghê Ngựa đực, Ngựa cái = xãnh xẹ Người Thượng = người dân tộc miền núi Nhá qua nhá lại Nhà đèn = công ty điện lực Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép Nhà thuốc GÁC = nhà thuốc Tây bán 24/24 Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt Nhào vô kiếm ăn, ngon vô đây = thách đố ( dám chơi hông, ngon vô đây!) Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia (Nói gì thì nói giờ nhậu cái đã) Nhí nhảnh Nhiều chiện = nhiều chuyện Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau Nhóc, đầy nhóc = nhiều Nhột = buồn Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại cái gì đó trước mặt ai (tương tự “nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui” nhưng cấp độ mạnh hơn) Nhựt = Nhật Òm = dễ òm, dị òm,… Oải chè đậu; quải chè đậu Ông bà bô = ba má (thường những người có học vấn thì dùng từ này để nói chuyện với bạn về ba má mình) Ông bà ông giải = Ông bà ông vãi (bắc) Ồng Cò = cảnh sát Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói) Pê Băm-Tám: đồ khui bia, khui nghe cái Bốp giống nổ súng P-38 Phi cơ, máy bay = tàu bay Phờ râu = mệt Qua bên bển, vô trong trõng, đi ra ngoải, Quá cỡ thợ mộc…= làm quá, Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! ) Quá xá quà xa = quá nhiều, quá đã Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường Quăng lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng “lựu đạn” vô chợ khủng bố dân lành) Quần què = (từ tục) chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!) Quê một cục Quê xệ Quề trớt = huề vốn, cũng như không Quởn = rảnh rỗi Quới nhơn = Quý nhân =/= Cô hồn các đảng (Quới nhơn= Quý nhơn, quý nhân, người tốt đến giúp đỡ) Ra giường (drap) = vải trãi giường (tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ xài từ chăn, ga , gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăn trải giường, khăn chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trãi giường được) Ra giêng = qua năm mới, qua tết Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui rành nó tới “sáu câu vọng cổ”. Ráo = hết Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới) Rân trời = Rần trời, um sùm Rầu thúi ruột = Sầu thê thảm Riết = liên tục, hoài – Mần riết = làm hoài Ro ro = nhuần nhuyễn, (mới tập chạy xe honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro) Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả Rũng rỉnh = có tiền trong túi Ruột xe = xăm Rượt = chạy đuổi theo Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai! Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng Sạp = quầy hàng Sáu Bảnh Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy đứa nhỏ Sến = cải lương màu mè (mặt đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương. Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà. Sên xe = xích gốc pháp chain Sếp phơ = Tài xế Sợ teo bu gi : (sợ gần chết) Sống lây lất qua ngày Sụm bà chè = mệt mõi, đi hết nổi Sức mấy = Sức mấy mà buồn = đâu buồn gì Sườn xe = khung xe Tả Pín Lù: Hầm bà lằng (gốc Quảng Đông) Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ Tài lanh Tài khôn Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi Tàng tàng = bình dân Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn Tạt qua = ghé qua Tàu hủ = đậu phụ Tầm ruồng Tầm xàm bá láp Tần ngần = do dự (tẩn ngẩn tần ngần) Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba muốn gỏ cửa mà khổng dám. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi Té (gốc từ miền Trung)= Ngã (ngã cái ịc -chú thích anh Tuấn Khải – Mắt chú tững nó xụp thần dì mới chịu ngã cái ịc xuống gối ngủ hết biết đầu đít chỗ nào) Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư Teo bu-gi = Sợ gần chết (bugi gốc Pháp bougie) Tía, Ba = Cha Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …! Tó = lấy, bắt Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu” Tòn teng = đong đưa, đu đưa Tổ cha, thằng chết bầm Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi (thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăn cơm nhen”) Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản) Tới chỉ = cuối (Hôm nay chơi tới chỉ luôn!) Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi (trong đó tui = tôi) Tui, qua = tôi Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó Tử tế = tốt bụng Tức cành hông = tức dữ lắm Tháng mười mưa thúi đất Thảy = quăng Thắng = phanh Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ Thâm căn cố đế = người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc Thậm thụt Thân chủ = người khách quen thường xuyên Thầy chạy Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm) Thấy gớm = thấy ớn Thèo lẽo = mách lẽo (Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó!) Thềm ba, hàng ba Thêm thắc Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ (thôi thí cho nó đi!) – xưa SG có nhà thương thí: bệnh nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm ý xấu như bây giờ Thí cô hồn Thí dụ = ví dụ Thiếu Tá lỗ: Thượng Sĩ, vì cái lon Thượng Sĩ giống Thiếu Tá nhưng có cái lỗ tròn Thiệt hôn? = thật không? Thiệt tình = cảm thán (thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té nằm một đống) Thính giả (người nghe radio, đài) Thọc cù lét, chọc cù lét = làm cho ai đó bị nhột Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó Thôi hén! Thơm = dứa, khóm Thúi = hôi thối, Thủng thẳng, Thủng thỉnh = từ từ Thủy cục = công ty cấp nước Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác Thước = 1 mét (Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái áo dài cho sấp nhỏ) Thưởng Lãm Thưởng Ngoạn Trà = Chè Trả treo Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%) Trật chìa, trật đường rầy= sai giờ giấc (Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi) Trẹo Bảng họng, lẹo lưỡi = khó phát âm (nói muốn trẹo bảng họng) Trển = trên ấy (lên trên Sài Gòn mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm) Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng Tròm trèm = cũng cở, gần tới (tròm trèm 70 tuổi rồi) Trời thần đất lở Trời ui ui = trời hơi tối tối Trụi lũi = nhẵn thín ( cạo râu trụi lũi) Trừ phi = Trực thăng = máy bay lên thẳng Tụi mình = chúng mình Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ Um xùm Ứa gan = chướng mắt Ưng = đồng ý, thích, chịu, … (Ưng ý) Ướt chèm nhẹp Ướt như chuột lội (miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột) Ván ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văng, có ba tấm gỗ dày đặt lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa Vầy = như vậy (làm vầy nè = làm như vậy nè) Vè xe = chắn bùn xe Vỏ xe = lốp Xa lắc xa lơ: xa thiệt xa Xả láng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết Xà ích ( Sãis) có nghĩa là Thằng đánh xe, (1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi) Xà lỏn, quần cụt = quần đùi Xà quần gốc K’mer Xài = dùng, sử dụng Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng để chở hàng, không chở người. Xem thêm: xe cá Xe ba gác = xe ba bánh dùng để chở đồ , xe ba gác máy ( như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp) Xe cam nhông = xe tải Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh) Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?) Xe hơi = Ô tô con Xe nhà binh = xe quân đội Xe ôm Xe thổ mộ Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết) Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh) Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo) Xi-cà-que: đi cà nhắc Xi nhan = ra hiệu (gốc từ tiếng Pháp signal) Xì-tin= style Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ Xí xọn Xí cái bùm bum Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen!) Xĩa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xĩa răng nữa) Xĩa xói = châm chọt Xiết = Làm hết xiết (làm không nổi) Nhưng Ở một số vùng tây nam bộ (Cà Mau) cũng có nghĩa là : Nhanh- Ví dụ ; Làm xiết xiết = Làm nhanh nhanh , Chạy xiết đi = Chạy nhanh đi. Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải) Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy” Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên) Xú chiên = áo lót nữ – gốc tiếng Pháp (soutien-gorge) Xì líp = quần lót Xụi lơ Xưa như trái đất, hồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xua thiệt là xưa Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa TCS) Y chang, Y đúc, Y khuông, y bon = giống nhau
MỘT BÀI THƠ, CHỤC CÁCH ĐỌC
Tiếng Việt của chúng ta thật tuyệt vời ! Bài Cảnh xuân của tác giả Nguyễn Vân Thiên (Thiện Mỹ Giang) viết năm 1972-1973 khi đang học Trung học tại Đà Nẵng. Được sáng tác theo thể "Thuận nghịch độc" tức là có thể được đọc bằng 2 cách xuôi, ngược đều có nghĩa.
Bài thơ được chia sẻ từ nhà nghiên cứu Dân tộc học và Việt học Đinh Trọng Hiếu ở Paris đăng trên "Khuôn Mặt Văn Nghệ".
Đáng tiếc khi các trang mạng lưu truyền là lại ghi khuyết danh, từ đó mà bàu thơ bị đồn là do Hàn Mạc Tử viết.
Khi đọc bài thơ này ta vô cùng khâm phục tác giả của bài thơ, càng thêm yêu quý và càng phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt.
Bây giờ ta hãy chiêm ngưỡng vẻ độc đáo của bài thơ này :
1. Bài thơ gốc:
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.
2. Đọc ngược bài gốc từ dưới lên :
Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng lặng sông chờ khách lại qua
Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.
THÊM CÁCH ĐỌC DO ĐỘC GIẢ TÌM RA
1. Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
(Sẽ có một bài ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Cảnh xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu chén đầy vơi
Giậu trúc cành xanh biếc
Hương xuân sắc thắm tươi
Khách chờ sông lặng sóng
Thuyền đợi bến đông người
Tiếng hát đàn trầm bổng
Bóng ai mắt mỉm cười.
2. Bỏ 2 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta sẽ được bài (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Mắt ai bóng thướt tha
Đàn hát tiếng ngân xa
Bến đợi thuyền xuôi ngược
Sông chờ khách lại qua
Sắc xuân hương quyện lá
Cành trúc giậu cài hoa
Chén rượu thơ vui thú
Ánh xuân cảnh mến ta.
3. Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc:
Ta mến cảnh xuân
Thú vui thơ rượu
Hoa cài giậu trúc
Lá quyện hương xuân
Qua lại khách chờ
Ngược xuôi thuyền đợi
Xa ngân tiếng hát
Tha thướt bóng ai.
4. Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta đọc ngược từ dưới lên:
Cười mỉm mắt ai
Bổng trầm đàn hát
Người đông bến đợi
Sóng lặng sông chờ
Tươi thắm sắc xuân
Biếc xanh cành trúc
Vơi đầy chén rượu
Ngời sáng ánh xuân.
5. Bỏ 4 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc:
Ánh sáng ngời
Chén đầy vơi
Cành xanh biếc
Sắc thắm tươi
Sông lặng sóng
Bến đông người
Đàn trầm bổng
Mắt mỉm cười.
6. Bỏ 4 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, ngược từ dưới lên:
Bóng thướt tha
Tiếng ngân xa
Thuyền xuôi ngược
Khách lại qua
Hương quyện lá
Giậu cài hoa
Thơ vui thú
Cảnh mến ta .
Nguyễn Vân Thiên
PHÁT ÂM CỦA NGƯỜI NAM KỲ…
Có những phương ngữ rất đặc trưng của vùng. Nếu bạn hỏi người Long An: “Năm nay lúa má sao anh?” Long An trả lời: “Hằng hà!” Còn người Vĩnh Long sẽ trả lời: “Nhóc luôn!”
Dân Nam Kỳ cũng lãng mạn lắm, gọi nước lên xuống ngày 2 lần bằng mấy chục từ diễn tả, như: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước đứng, nước nhửn, nước ương, nước đổ, nước ngập, nước nổi, nước quay, nước lụt, nước giựt, nước rút, nước chảy, nước trôi, nước nhảy, nước bò…
"Khúc sông bên lở bên bồi
Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm."
Nước ròng còn chia ra: nước ròng cạn, nước ròng sát, nước ròng rặc, nước ròng kiệt; hay còn gọi tắt là nước cạn, nước sát, nước rặc, nước kiệt…
Thời điểm nước đứng gọi là “nước nhửn”.
"Nước lớn rồi lại nước ròng,
Đố ai bắt được con còng trong hang."
Dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ gọi thuyền hay đò thì ở Nam Kỳ gọi ghe và chia ra hàng chục loại: ghe chài, ghe đục, ghe be, ghe bầu, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe lồng, ghe lườn, ghe ngo, ghe tam bản…
"Ghe bầu trở lái về đông
Làm thân con gái theo chồng nuôi con."
Người Nam Kỳ viết không sai chánh tả nhưng trong văn nói có nhiều đặc trưng của vùng, gọi là phát âm sai nếu theo lý thuyết chữ quốc ngữ.
Phát âm phụ âm cuối không phân biệt “n” và “ng”, “c” và “t”,””y”và “I”. Ví dụ: cục than thành cục thang, liên thành liêng, lan thành lang, mái và máy, lụt và lục, mát và mác, thước và thướt...
Phát âm “ê” thành “i”. Chẳng hạn cơm nếp, cái đệm thành cơm níp, cái địm. “ươ” thành “ơ”; trái mướp thành trái mớp, ăn cướp thành ăn cớp, đám cưới thành đám cứi, tức cười thành tức cừi.
Phụ âm “r” “g”, như rau răm thành gau găm, cá rô thành cá gô.
Phụ âm “r” thành “d”. Ví dụ: rau răm thành dao dăm, cá rô thành cá dô.
Vùng Gò Công cũ (Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công [tỉnh Tiền Giang], và Cần Đước, Cần Giuộc [tỉnh Long An]), ở trong quê sâu có cách phát âm “ng” thành “qu”. Ví dụ: ông ngoại thành ông quại.
Thành ra nói kêu " ông quại" cho toàn Nam Kỳ là không trúng.
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh có cách phát âm “th” thành “kh”. Ví dụ: cái thùng thành cái khùng.
Dân Bến Tre (trừ Chợ Lách và Bình Đại) đọc phụ âm “tr” thành “t”.
Ví dụ: cây tre, cây trúc thành cây te, cây túc; Bến Tre thành Bến Te; Ba Tri thành Ba Ti; Giồng Trôm thành Giồng Tôm.
"Chợ Ba Ti thiếu gì cá biển
Anh thương nàng anh nguyện về đây."
NGUYỄN GIA VIỆT Show more 2 years ago