Sài Gòn xưa: Hoài niệm về xe lam, xe đò
Sài Gòn xưa:
Hoài niệm về xe lam, xe đò
Lê Nguyên
Trước 1975, khi đặt chân đến Sài Gòn, ai mà không bị hớp hồn bởi một đô thành phồn hoa đô hội với những đại lộ thênh thang, dập dìu xe cộ nhưng rất thông thoáng.
Phương tiện đi lại trên đường phố Sài Gòn chủ yếu có xe đạp; xe gắn máy loại phân khối nhỏ như Honda Damme dành cho nữ, Honda SS67 dành cho nam; xe máy đạp có Vélo Solex, Mobylette; còn phương tiện công cộng thì có xích lô đạp, xích lô máy, taxi, và xe lam.
Đặc trưng của phương tiện giao thông công cộng ở Sài Gòn thời đó ngoài xích lô và taxi ra còn có xe lam. Hồi đó lộ trình xe lam giăng kín Sài Gòn như xe buýt sau này, nhưng điểm khác biệt của xe lam là không có trạm dừng cố định cho khách lên xuống. Ai muốn đi xe lam cứ việc ra sát vệ đường vẫy tay đón. Xe dừng lại bất cứ chỗ nào cho khách xuống!
Thiết kế của xe lam chở khách khá đặc biệt, chia làm hai “toa” hẳn hoi. Phần đầu xe là nơi bác tài ung dung ngồi một mình để cầm cái càng lái giống như ghi-đông xe gắn máy. Dưới ghế ngồi của bác tài là thùng chứa máy xe, hễ xe chết máy hay “xịch đụi” là bác tài phải nhảy xuống đường, giở yên lên, rồi dùng một sợi dây thừng kéo cho máy nổ hoặc tra dầu, chùi bu-gi cho máy xe.
Tuy thùng sau xe được gắn để chở khách, nhưng nếu thùng sau hết chỗ, các bác tài sẵn sàng ngồi khép nép lại một tí để có thể chở thêm được 2-3 khách. Xe thì thiết kế cho 8-10 người ngồi nhưng khi đến Việt Nam, cũng như bao loại xe khác, xe lam vẫn phải “cõng” một số lượng khách gấp đôi, có khi gấp 3 trọng tải cho phép. Khách ngồi trên hai hàng ghế dài ở khoang sau, ngồi chen lên khoang lái, và leo cả lên trên nóc nữa…
Xe lam ngoài tác dụng chở khách còn có tác dụng chở hàng. Kỳ thực nó được nhập về Việt Nam Cộng Hòa ở dạng không đóng thùng, và tuỳ công năng chuyên chở mà nó sẽ được đóng thùng sau khi nhập.
Tên gọi “xe lam” bắt nguồn từ tên gọi của dòng sản phẩm xe 3 bánh Lambro hay Lambretta của Ý do công ty cơ giới Innocenti chế tạo. Các dòng xe lam lần lượt được nhập vào Việt Nam Cộng Hòa vào giữa thập niên 1960 để thay thế xe thổ mộ (xe ngựa kéo) vẫn còn được lưu hành vào khoảng thời gian đó.
Trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có 17.000 chiếc được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.
Sau này một số xe có kiểu dáng tương tự nhưng của các hãng khác (như Vespa), ít gặp hơn, được nhập về, và cũng được gọi là xe lam.
Trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc vào những năm đầu 1960 thì việc sở hữu được một chiếc xe lam cũng không phải là dễ, dù nghề lái xe lam mang lại nhiều lợi nhuận. Giá 1 chiếc xe lam vào thập niên 1960 tại Sài Gòn lúc đó khoảng 30 cây vàng.
Năm 1966 – 1967, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tiến hành một chương trình mang tên “Hữu sản hoá” nhằm cung cấp phương tiện hành nghề chuyên chở công cộng cho những ai cần việc làm và cũng để cải thiện đời sống giới thợ thuyền, phát triển hạ tầng cơ sở vận tải.
Đợt hữu sản hóa đầu tiên mang tên “Tự chủ” được thực hiện bằng cách cho giới lao động đang cầm lái thuê mượn tiền, và cho trả góp, để mua loại xe mà họ đang sử dụng để kiếm sống.
Phương tiện giao thông ở Sài Gòn bấy giờ đã tiến bước dài. Thập niên 1950, người Sài Gòn vẫn thấy xe ngựa. Từ thập niên 1950 sang 1960 thì xích lô đạp và xích lô máy nở rộ. Sau đó là đến xe lam và taxi. Số lượng xe lam riêng tại Sài Gòn là 2.300 chiếc xe vào đầu thập niên 1960, sang thập niên 1970 thì tăng lên 4.000 chiếc.
Sau 1975, các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không sử dụng được, và xe lam trở thành phương tiện phổ biến rẻ tiền, bước vào thời kỳ rực rỡ nhất.
Xe lam, trong hồi ức của nhiều người thành thị vẫn là một thứ dư vị khó phai, với những tiếng “bành… bành…’’ đầy quen thuộc.
Sài Gòn xưa: Hoài niệm xe đò
Xe không chạy trên sông sao gọi xe đò? Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt tay, khuôn mặt ốm nhăn nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông thủng thỉnh trả lời theo kiến giải của mình.
Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện.
Xe đò lỡ Sài Gòn – Hốc Môn năm 1969 (Ảnh: Saigonoldphoto)
Nghe vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện.
Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập Hồi ký Sơn Nam: “Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc.
Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ.
Tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách.”
Xe đò dài Thuận Hiệp đi Sài Gòn – Cà Mau (Ảnh: Douglas Pike)
Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ.
Giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.
Sơn Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng ‘ga’, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi ‘Autogène’, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn.”
Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương.
Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào.
Riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.
Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường. Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.
Xe đò nhỏ chạy bằng than sau năm 1975 (Ảnh: Anhxuavn)
Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình.
Sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát. Ðường về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận.
Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường.
Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi. Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt.
Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.
Bến xe đò Petrus Ký năm 1950 (Ảnh: AnhxuaVN)
Trước năm 1975, Xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân.
Còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay.
Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q. 9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.
Bến xe đò trên đường Nguyễn Cư Trinh trước 1975 (Ảnh: Anhxuavn)
Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm. Có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi.
Cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa. Và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ.
Trang Nguyên
----------
Kim Quy tổng hợp
Hình Internet