Tự Lực Văn Đoàn thành lập vào trung tuần tháng 7/1933, gồm toàn bộ nhân viên toà soạn báo Phong Hoá: Nhất Linh, Khái Hưng, Tứ Ly (Hoàng Đạo), Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ.
Mặc dù là người quyết đoán, ông không bao giờ lạm dụng uy thế một ông bầu và một ông chủ báo, hay cố giữ một “khoảng cách” với người cộng sự, như hầu hết các ông chủ báo cốt dùng tờ báo để khoe danh và thăng quan tiến chức. Ông hòa hợp mật thiết với anh em, nhận số lương ngang như anh em, gánh vác tất cả mọi việc không khác gì anh em.
Nhất Linh đã biết đoàn kết cả nhóm lại trong một ý hướng chung do mình xướng xuất, biết truyền niềm say mê mãnh liệt của mình cho người khác, nhất là có con mắt tinh đời, biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người để mỗi tác giả trong văn đoàn trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại.
Như Khái Hưng, được ông khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết. Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng. Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho “thơ mới”…
Có ai ngờ được rằng bấy nhiêu lời chỉ bảo tưởng chừng bâng quơ như thế cuối cùng đều có một đáp án chính xác: chỉ sau chưa đầy 3 năm kể từ ngày thành lập, Tự lực văn đoàn nghiễm nhiên là một hàn lâm văn học sang trọng, phát ngôn cho mọi chuẩn mực giá trị của văn học được công chúng xa gần thừa nhận.
Và mỗi thành viên của nó cũng nghiễm nhiên đóng vai trò ông tổ của cái hình thức sáng tác mà Nhất Linh đã phó cho mình cầm chịch.
Không ai còn có thể tranh ngôi vị cây bút tiểu thuyết tài danh của Khái Hưng. Nói đến giọng thơ trào phúng kế sau Tú Xương ai cũng phải nhường Tú Mỡ. Còn Thế Lữ thì được cả làng “thơ mới” thừa nhận là chủ soái thi đàn.
Cũng không thể quên Thạch Lam với những kiệt tác truyện ngắn trữ tình mà về sau ít người sánh kịp. Và Xuân Diệu, người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn thắng cho “thơ mới”, phổ vào thơ cái ma lực của những cảm xúc đắm say quyến rũ.
Nhất Linh - Nghệ sĩ đa tài
Nhất Linh trước hết là một nhà văn. Ông còn là nhà văn luôn luôn tìm tòi không ngừng, không mỏi.
Thời Tự lực văn đoàn, vừa cho ra mắt một loạt tiểu thuyết luận đề làm cả một thế hệ thanh niên mê thích, ông lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết không cốt truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm lý nhân vật làm chủ điểm (Đôi bạn), rồi lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết khơi sâu vào những miền khuất tối, không dễ nhận biết của cái “tôi”, cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người, kể cả sự mò mẫm vô thức trên quá trình cái “tôi” phân thân, tự hủy, ít nhiều mang dáng dấp hiện sinh (Bướm trắng)...
Trong rất nhiều tác phẩm nổi tiếng của Nhất Linh,
Đôi bạn đem lại cho độc giả nhiều ấn tượng.
Câu chuyện, xúc cảm, nhân vật, khung cảnh, tất cả đều bao trùm một màu sắc đẹp đẽ vô cùng thanh thản, dễ chịu và nó sẽ khiến một tấm lòng dịu dàng lại. Dĩ nhiên, cái buồn bã bao trùm ở cuốn tiểu thuyết này cũng là một đẹp đẽ ướt đẫm được biện giải bằng một thứ văn phong óng ánh, tươi tốt như nắng ban mai, vừa có nét đưa đẩy gợi cảm, lại điềm đạm như lời thầm thì tự sự.
Chất nội tâm chảy trôi, êm đềm lại khắc khoải của các nhân vật, đặc biệt là Dũng, được Nhất Linh tỏ bày bằng thứ văn chương khoan thai nhàn nhã. Đôi bạn chú trọng vào những “dòng ý thức” của nhân vật, diễn tả tâm lý sâu xa, chứ không còn lưu tâm nhiều đến kịch tính cốt truyện như trong những tác phẩm trước đây của Nhất Linh là Đoạn tuyệt hay Đời mưa gió...
Không chỉ là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng,
Nhất Linh còn là một nhà thơ, một họa sĩ tài năng.
Ít ai biết được trước khi đến với văn chương, Nhất Linh từng là sinh viên khóa đầu tiên của trường Mỹ Thuật Hà Nội. Bạn cùng lớp với ông có Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ,Mai Trung Thu, Lê Ang Phan… những người mà sau nầy được xem là lớp họa sĩ tiền phong cho nền hội họa Việt Nam hiện đại.
Mặc dù sau năm 1929 Nhất Linh không sống về nghề vẽ như một họa sĩ chuyên nghiệp nhưng lòng mê say hội họa của ông vẫn theo ông cho đến cuối đời. Ông dùng tài vẽ của mình, theo từng giai đoạn, hoặc để làm báo, hoặc vẽ theo cảm hứng.
Với báo Phong Hóa và Ngày Nay trước kia ông ký tên Ðông Sơn và sau này với Văn Hóa Ngày Nay ông ký tên Nhất Linh trên những bức vẽ. Có một số bức họa rất nổi tiếng của ông như Cảnh phố chợ Đông Phương, hay Cúc xưa...
Sinh thời, nhiều người vẫn nói, kỹ thuật viết văn của Nhất Linh bị chi phối và chịu ảnh hưởng nhiều bởi lối viết của Lev Tolstoi, nhưng với Nhất Linh cuốn tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại là cuốn Đồi gió hú của Emily Brontë. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết duy nhất ông dịch trong đời. Ngay cả lúc quyên sinh, ông cũng nằm cạnh cuốn sách này.
Đúng như di chúc Nhất Linh để lại, đời ông lịch sử sẽ phán xét. Thế nhưng ông đã tự nhận ra rằng: trong cuộc đời của mình, Nguyễn Tường Tam đã thất bại khi làm chính trị, chỉ còn một nhà văn Nhất Linh sống mãi trên văn đàn Việt Nam.
"Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do."
(Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam)
Đoạn văn trên là bức thư tuyệt mệnh Nhất Linh viết ngày 7/7/1963 trước khi dùng độc dược từ giã cõi đời để phản đối chính sách được coi là “đàn áp Phật Giáo” của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông tự sát một ngày trước khi bị chính phủ đem ra xét xử, ngày 8/7/1963.
Diễn biến chính trị trong năm 1963 đã dẫn đến sự cáo chung của nền Đệ nhất Cộng hòa, qua đó hai anh em ông Diệm – Nhu đã bị hạ sát trong một cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Cái chết của Nhất Linh cũng được coi là “giọt nước tràn ly” trong tình hình chính trị vào thời điểm đó.
Ngày nay, các nhà sử học vẫn còn những ý kiến “trái chiều” về chính phủ của Tổng thống Diệm. Ông có “công” hay có “tội” vẫn còn tùy thuộc vào chính kiến và sự nhận xét của từng cá nhân người viết sử. Tuy nhiên, mọi người đều có chung một suy nghĩ: cái chết của Nhất Linh năm 1963 là một hành động “phi thường” của một con người can trường trong cuộc tranh đấu cho tự do.
Trong tác phẩm Đoạn Tuyệt (1934), Nhất Linh lấy chủ đề là sự xung đột giữa Cũ và Mới. Ông đã để cô Loan nói lên một quan niệm hoàn toàn mới về gia đình, cụ thể là cảnh “mẹ chồng, nàng dâu”:
“Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường?”
Khi thành lập “Tự lực văn đoàn”, Nhất Linh chỉ có một mục đích duy nhất là tập họp những người đồng chí hướng trong văn giới để cổ súy những tư tưởng mới. Văn phong của TLVĐ hoàn toàn theo phong cách “bình dân” nhưng đó lại là lối hành văn chuẩn mực.
Tôn chỉ của nhóm có ghi: “Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả qúy phái”. Cũng vì thế, giáo dục trong suốt thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại Miền Nam, TLVĐ được coi là “khuôn vàng, thước ngọc” cho các học sinh.
Tác phẩm “Đoạn Tuyệt”
Ta hãy đọc lại đối thoại “rất đời thường” giữa Loan và Dũng trước khi Loan đi lấy chồng trong Đoạn Tuyệt. Dũng là người mà Loan yêu nhưng gia đình cô không chấp nhận:
“- Năm nay cô nhất định thôi học?
Loan đáp:
- Nào có ở em mà em định. Em muốn học nữa nhưng nhà không cho.
- Vì cớ gì thế cô?
Ngập ngừng, Loan đáp:
- Vì... vì em không còn ở nhà. Ra giêng có lẽ em...
Loan ngừng lại nhìn Dũng nhưng thấy Dũng nét mặt không có gì đổi khác. Dũng ôn tồn nói:
- À, cô sắp sửa phải về ấp Thái Hà. Khi nào có tin mừng tôi sẽ về...
- Thế ra anh đã biết?
- Vâng, tôi biết từ lâu. Tôi vẫn đợi, nhưng không ngờ rằng sắp đến ngày cô về nhà chồng, tôi lại phải đi xa. Nhưng thế nào tôi cũng phải cố về để mừng cô.
Loan mặt nóng bừng, hai con mắt nhìn Dũng có vẻ căm hờn. Nghẹn nào, nàng bảo Dũng:
- Nhưng anh đã biết đâu là một tin mừng. Đối với em không phải là tin mừng.
Thấy vẻ mặt ngơ ngác của Dũng, Loan nói tiếp:
- Vì thầy me bắt ép em.”
(hết trích)
Cơ quan ngôn luận của “Tự Lực văn đoàn” là tuần báo Phong Hóa (1932-1936) và Ngày nay (1935-1940). Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản sách của mình.
Ban đầu, nhóm chỉ có 6 thành viên chính thức là những nhà văn nổi tiếng một thời: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), và Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu). Về sau còn kết nạp thêm nhà thơ Xuân Diệu.
Bên cạnh đó còn có những “cộng tác viên”, các nhà văn, nhà thơ Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách...
Trong những năm 1937- 1939, tờ Ngày Nay lại trở thành một cơ quan chính trị với những bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo, đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời đại. Ngoài ra, đây cũng là nơi “Tự Lực văn đoàn” cổ động cho Phong trào Ánh Sáng với mục đích cải tạo nếp sống ở nông thôn.
Ngoài việc viết văn, Nhất Linh còn hoạt động trong lãnh vực hội họa và ông cũng đã kết bạn với các họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường (Le Mur), Lê Minh Đức… Trên Phong Hóa, ông tạo ra hai nhân vật để “châm biếm” là Lý Toét và Xã Xệ. Những hí họa này luôn tạo tác dụng đả phá cái cũ để xây dựng một xã hội mới đến người đọc thời đó.
Lý Toét – Xã Xệ
Xã Xệ là một ông xã trong làng với thân hình “béo tốt” còn Lý Toét là một ông già nhà quê, giữ chức lý trưởng nên được gọi là Lý. Cụ Lý bị “đau mắt hột” từ bé nên mắt mũi kèm nhèm, như viền vải tây mà ta gọi là “mắt toét”. Nhập hai chữ Lý và Toét vào nhau thành tên chứ Lý Toét không phải là tên cúng cơm, bố mẹ đặt cho.
Lý Toét ra tỉnh: “Quái, người ta chôn ai mà đào dài vậy??”
Bản thân nhà văn Nhất Linh còn là một họa sĩ và đến ngày nay một số tác phẩm của ông đã được giới thưởng ngoạn quốc tế đón nhận một cách trân trọng qua những cuộc bán đấu giá tranh quốc tế.
Tháng 10/2010, một họa phẩm hiếm quí của Nhất Linh, bức “Cảnh Phố Chợ Đông Dương” (Scène de Marché de rue Indochinois) đã được bán đấu giá tại Hồng Kông với giá khởi đầu 25.000-32.200 Mỹ kim. Trong phần giới thiệu Nhất Linh và tác phẩm, Sotheby’s Hồng Kông viết:
“Bạn cùng lớp với ông có Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Mai Trung Thu, Georges Khán, Công Văn Trung và Lê Ang Phan, những người mà sau này được xem là tầng lớp họa sĩ tiền phong cho nền hội họa Việt Nam hiện đại.”
Bức tranh “Cảnh Phố Chợ Đông Dương”
(Scène de Marché de rue Indochinois) được đấu giá tại Sotheby’s
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi trở lại câu chuyện Nhất Linh trong vai trò một nhà hoạt động chính trị. Ông là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng khi hai đảng hợp nhất vào năm 1945.
Nhất Linh chạy sang Quảng Châu và hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội để chống Pháp dù trước đó (năm 1927) ông đã từng du học và tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Giáo khoa tại Pháp.
Sau khi quân của Tưởng Giới Thạch vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 3/1946, sau khi đàm phán với Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Vì những bất đồng chính kiến với chính phủ, ông không dự Hội nghị Fontainebleau đàm phán với Pháp dù được cử đứng đầu phái đoàn Việt Nam. Thay vào đó, ông lưu vong sang Trung Quốc tháng 5/1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951.
Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, ông bị coi như “đào nhiệm” cộng thêm tội “biển thủ công quỹ” (tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp). Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc này “rất khó xảy ra” vì ông không thể nào được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn.
Năm 1951, Nguyễn Tường Tam về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt cho đến năm 1958.
Về Sài Gòn, ông chủ trương giai phẩm “Văn hóa Ngày Nay” nhưng chỉ phát hành được 11 số thì bị đình bản. Nhất Linh ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông nhưng cuộc đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.
Thái độ “chùm chăn” của Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam được thể hiện qua bức tranh “Vịnh tấm chăn len Chí Hòa” nhưng cuối cùng cũng dẫn đến bi kịch tự sát trong ngày “song thất” (7/7/1963). Lời thơ được ghi trong bức tranh như sau:
“Một tấn chăn len khám Chí Hòa
Ấy ai vượt ngục mới đem ra,
Tù nhân tặng kẻ “chùm chăn” kín
Tuy mỏng nhưng mà cũng ấm da”
Bức tranh “Vịnh tấm chăn len Chí Hòa” của Nhất Linh
Thi thể của Nhất Linh được khâm liệm tại Nhà thương Grall, ngày 12/7/1963. Đoàn xe tang đi qua các đường Mạc Đĩnh Chi, Phan Đình Phùng, Bà Huyện Thanh Quan, để rồi ghé lại chùa Xá Lợi vào hồi 10g45. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, một người bạn thân của Nguyễn Tường Tam, kể lại:
“Đám tang thật là đơn giản, nhưng vô cùng ảm đạm, trang nghiêm. Khi khởi hành từ bệnh viện Grall, số người tham dự còn thưa thớt, nhưng dần dần mỗi lúc một đông. Phần nhiều là thanh niên, học sinh, sinh viên, giới trí thức.
Có rất đông phóng viên, ký giả ngoại quốc, nam có, nữ có, có mặt trong đám táng để chụp ảnh hoặc để quay phim. Họ chịu khó biên chép tất cả những câu viết trên các đối trướng rồi nhờ người dịch sang tiếng Anh. Họ lại còn ghi âm tất cả những lời khóc than kể lể của chị Nhất Linh.”
…
“Đoàn xe tiến về đường Phan Thanh Giản, rẽ sang đường Hai Bà Trưng rồi chạy về Gò Vấp. Có hàng trăm chiếc xe, xe đạp lẫn xe gắn máy, trên mỗi xe có hai người, phần đông là thanh niên, học sinh, sinh viên, có cả ký giả ngoại quốc nữa, băng băng đi theo sau, hoặc đi trước, hoặc ở hai bên xe tang. Ngay cả trên nóc xe hơi cũng có người nữa. Hàng phố, từ đường Hai Bà Trưng trở đi, đổ xô ra xem.
“Một điều đáng ghi nhận là từ chùa Xá Lợi trở đi, không có một ngã tư nào là không có nhân viên công lực đứng, không phải để giữ an ninh trật tự, mà trái lại, để cố tình cắt quãng đoàn xe tang, làm sao cho số người tham dự đừng đông đảo.
“Và khi tới nghĩa trang Gò Vấp, liếc nhìn chung quanh, ai nấy đều có một cảm giác nặng nề, ghê rợn, dường như bao phủ bởi một bầu sát khí đằng đằng: chỗ này một tốp người vận quân phục, chỗ kia một tốp, với súng trường, súng lục, tiểu liên, lựu đạn… Tôi tự hỏi, chẳng hay họ chuẩn bị như vậy để bảo vệ ai, hoặc để giết ai ở một nơi hoang vu, tĩnh mịch và tôn nghiêm này?”
-------
Nguyễn Ngọc Chính
Lễ cầu siêu cho Nhất Linh tại chùa Xá Lợi
***
= Kim Quy sưu tầm =