“THE FOURTH OF JULY” VÀ GIẤC MƠ MỸ

Nhà bình luận nổi tiếng của chương trình News Hour, Roger Rosenblatt, tóm lược về nguồn gốc nước Mỹ: “Quốc gia được thành lập từ những giấc mơ, và cũng qua đó, đã hun đúc nên giấc mơ của cả một quốc gia”.

Vâng đúng thế. Ngoài trừ số nhỏ người bản xứ, đất nước Hoa Kỳ được xây dựng nên do bàn tay và khối óc của những kẻ bên ngoài. Họ đến đây từ trăm ngả đường khác nhau và hàng trăm vùng đất khác nhau.

Irving Berlin, được xem là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền âm nhạc Mỹ và tác giả của nhạc phẩm bất hủ God Bless America được hát trong mọi ngày lễ, nhất là Lễ Độc Lập Hoa Kỳ (the Fourth of July) không phải là người sinh ra và lớn lên trên nước Mỹ.

Cậu bé có tên Mỹ là Irving Berlin sinh tại Nga vào năm 1888. Cậu theo cha mẹ đến định cư tại New York khi mới vừa lên 4 tuổi. Khi còn rất nhỏ, cậu Irving phải vừa làm nghề dọn chén bát trong một nhà hàng và vừa học sáng tác nhạc, một bộ môn mà cậu say mê. Sau khi nhạc phẩm đầu tay được xuất bản vào lúc 13 tuổi, tên tuổi của nhạc sĩ trẻ tài ba Irving Berlin đã trở thành đồng nghĩa với nền âm nhạc Hoa Kỳ thế kỷ 20 qua nhiều nhạc phẩm vượt thời gian.

 Bà Madeleine Albright, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao và là người phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ cao cấp nhất trong chính phủ Hoa Kỳ, vốn là người Tiệp Khắc. Cha mẹ bà đã phải vượt qua nhiều biên giới để trốn tránh chế độ Cộng Sản khi tiếng xích xe tăng Liên Xô nghiền nát đường phố thủ đô Prague vào năm 1948. Cuối cùng bà cùng gia đình đã vượt thoát được và định cư tại Hoa Kỳ khi Madeleine Albright vừa 11 tuổi. Bà theo học Luật, đỗ tiến sĩ và trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức Ngoại Trưởng Hoa Kỳ.

Edward Bannister, họa sĩ nổi tiếng về phong cảnh của Mỹ là một người da đen. Cha của ông sinh ra tại Barbados, West Indies. Tác phẩm Under The Oaks của ông là một trong những thành tựu nghệ thuật lớn của nền hội họa Hoa Kỳ thế kỷ 19. Tác phẩm này đoạt giải nhất trong cuộc thi đánh dấu 100 năm hội họa tại Philadelphia Centennial Exposition. Khi khám phá ra Edward Bannister là người da đen, ban giám khảo có ý định thu hồi giải thưởng. Tuy nhiên, trước sự đấu tranh của những họa sĩ đồng nghiệp, nhất là của những họa sĩ da trắng đã từng cùng tranh giải với ông, Ban Giám Khảo đã hủy bỏ dự tính.

Những người di dân điển hình thuộc nhiều lãnh vực, màu da và chủng tộc khác nhau. Họ không từng quen biết nhau, không cùng một thế hệ, không cùng huyết thống và chẳng hẹn hò đính ước gì nhau.

Những người di dân đầu tiên không phải ai cũng giàu có, học hành, trí thức, trái lại phần đông họ rất nghèo nàn, ít học, đến đây từ hai bàn tay trắng. Tuy nhiên, dù từ đâu đến và trong hoàn cảnh nào, họ đã cùng góp bàn tay đưa nước Mỹ từ một vùng đất hoang vu thuộc địa của Anh thành một cường quốc tự do, dân chủ và thịnh vượng nhất thế giới ngày nay.

Câu chuyện thành công của nước Mỹ, đúng như Roger Rosenblatt viết, đã bắt đầu từ một giấc mơ chung: Giấc Mơ Mỹ hay American Dream như chúng ta thường nghe gọi bằng tiếng Anh. American Dream được định nghĩa trong tự điển Wordsmyth như là “một lý tưởng của người Mỹ, nhờ đó, bất cứ người nào cũng có thể nhận được sự giàu có vật chất, bình đẳng, tự do, và các giá trị tương tự (the American ideal that any man or woman may obtain material wealth, equality, freedom, and the like)”.

American Dream đã giúp nhân dân Mỹ chiến thắng đạo quân tinh nhuệ của Anh Hoàng George III trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), đã giúp nhân dân Mỹ vượt qua những bất đồng kinh tế chính trị sâu sắc trong thời kỳ chiến tranh nội chiến (1860-1865), đã giúp đưa nước Mỹ trở nên quốc gia có lợi nhất sau cả hai cuộc chiến tranh thế giới.

American Dream là giấc mơ mà những người cha sáng lập của quốc gia Hoa Kỳ từng ôm ấp và theo đuổi: Tự Do, Dân Chủ và Cường Thịnh. Tổng Thống đầu tiên George Washington đã từng dặn dò: “Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”. Tượng đài kỷ niệm Tổng Thống George Washington được kiến trúc dựa theo tinh thần độc lập, tự chủ và vươn lên đó.

American Dream là giấc mơ bình đẳng mà Mục Sư Martin Luther King đã đọc trên thềm đài kỷ niệm Lincoln ngày 28 tháng 8 năm 1963: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ cũ, và con cháu của những chủ nô cũ, ngồi lại với chung một bàn trong tình huynh đệ...Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng tư cách riêng của chúng”.

American Dream, qua nhiều thời đại, từ những người trên chiếc tàu Mayflower cho đến hôm nay, đã được làm phong phú thêm để trở thành một bản sắc văn hóa, một truyền thống đặc biệt của quốc gia này.

Tran Trung Dao 3

Trần Trung Đạo

________________________

 

 
 
tudo
 
Vào ngày 4 tháng 7, người Mỹ sẽ cùng nhau hội tụ để chúc mừng Ngày Độc Lập (Quốc Khánh Mỹ) – ngày lễ lớn nhất năm, đánh dấu sự ra đời của Hoa Kỳ phồn vinh sau bước ngoặt quan trọng khi quốc gia này giành được độc lập từ Đế Quốc Anh sau cuộc Chiến tranh Cách mạng, kỷ niệm 242 năm kể từ ngày thông qua Tuyên Ngôn Độc Lập vào 04/07/1776.
 
Đây vừa là ngày lịch sử quan trọng đối với người Mỹ vừa như một thông lệ, nó đã trở thành kỳ nghỉ lớn nhất với nhiều sự kiện và tiệc tùng diễn ra trên khắp đất nước, ở mọi tiểu bang.
 
Ngày này thường diễn ra với những màn pháo hoa rực rỡ, diễn hành, tiệc nướng và dã ngoại, đoàn tụ gia đình và tổ chức các trận đấu bóng chày. Đây là một lý do hợp tình để tất cả mọi người ra ngoài và ăn mừng những cống hiến, những điều tạo nên Hoa Kỳ hôm nay, và những gì làm cho Hoa Kỳ trở nên tuyệt vời như thế!
 
Independence Day – Ngày Quốc Khánh Mỹ Diễn Ra Khi Nào?
 
“July 4” hay chúng ta thường gọi “the 4th of July” (ngày 04 tháng 7)
 
Ý Ngĩa Ngày Độc Lập Và Câu Chuyện Đằng Sau
 
Đó là một trong những ngày lễ lớn nhất trong lịch Hoa Kỳ. Ngày 4 tháng 7 đánh dấu kỷ niệm ngày ký kết Tuyên Ngôn Độc Lập vào năm 1776. Mười Ba thuộc địa của Mỹ tuyên bố rằng họ là một quốc gia và không còn là một phần của Đế Quốc Anh và cuộc chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục một thời gian sau đó.
 
Lịch Sử Ngày Quốc Khánh Mỹ
 
Các bang của Hoa Kỳ từng là mười ba thuộc địa – bao gồm các bang Bờ Đông, đó là Delaware, Pennsylvania, New Jersey, Georgia, Connecticut, Vịnh Massachusetts, Maryland, Nam Carolina, New Hampshire, Virginia, New York, Bắc Carolina, đảo Rhode Island và Providence.
 
Các thuộc địa được quản lý bởi người Anh, những người này đã đến ở trên lục địa kể từ năm 1587. Lúc đầu mối quan hệ giữa người Anh và người định cư hoàn toàn thân thiện, nhưng chẳng bao lâu họ phàn nàn về thuế và ảnh hưởng của người Anh. Những người định cư bắt đầu nhận thức được niềm tự hào và chủ nghĩa dân tộc của mình.
 
bostontea
 
Vào năm 1765, những người định cư đã yêu cầu “không đánh thuế mà không có đại diện”. Về cơ bản, có nghĩa là họ muốn có tiếng nói trong Quốc hội. Người Anh và những người định cư đã không giải quyết chính xác vấn đề này. Sự bất đồng thường bùng nổ vào các cuộc chiến như Tiệc Trà Boston năm 1773. Một cuộc biểu tình chống lại Đạo Luật Trà, cho phép công ty Anh độc quyền về bán trà tại mười ba thuộc địa Mỹ.
 
Các hành động khác như việc lấy đi quyền lực từ các tiểu bang như Massachusetts, nơi vốn đã từng được bán tự trị (50% quyền lực), đã gây thêm mâu thuẫn.
 
Khi mọi thứ đạt đến đỉnh điểm, một cuộc họp được gọi là Đại Hội Lục Địa diễn ra với sự có mặt của các đại biểu từ mười ba thuộc địa. Tại cuộc họp thứ hai, nhóm đã quyết định tuyên chiến với người Anh – đó là năm 1775.
 
Tuyên Ngôn Độc Lập
 
Năm sau đó, khi vẫn còn trong cuộc Cách mạng Mỹ, Đại Hội Lục Địa lần thứ hai đã bỏ phiếu phê chuẩn một nghị quyết độc lập được đề xuất vào tháng Sáu bởi Richard Henry Lee – đại biểu bang Virginia, tuyên bố Hoa Kỳ độc lập thoát khỏi sự cai trị của Vương quốc Anh.
 
Sự tách biệt hợp pháp của mười ba thuộc địa từ Vương quốc Anh thực sự diễn ra vào ngày 2 tháng 7. Nhưng Tuyên Ngôn Độc Lập (một tuyên bố giải thích quyết định này), đã được chuẩn bị bởi Ủy ban Năm, với sự lãnh đạo của Thomas Jefferson đã không được ký kết.
 
tuyenngon
 
Quốc hội tranh luận và sửa đổi từ ngữ của Tuyên ngôn. Cuối cùng phê chuẩn hai ngày sau đó vào ngày 4 tháng 7. Tuyên ngôn được ký bởi 56 đại diện từ mười ba tiểu bang –trước đây là mười ba thuộc địa.
 
Cuộc chiến đã không chấm dứt. Nó tiếp tục cho đến năm 1783 và Hiệp ước Paris.
 
Ngày Tuyên ngôn được ký kết được xem là sự ra đời của quốc gia – Ngày Quốc Khánh.
 
Quốc Khánh Mỹ Được Tổ Chức Như Thế Nào?
 
Pháo hoa, dã ngoại, lễ hội, bóng chày, họp mặt gia đình, tiệc tùng… có cả danh sách dài các hoạt động có thể làm trong hôm ấy.
 
Rhode Island chào mừng với 13 phát súng vào ngày kỷ niệm đầu tiên 04/07/1777. Khu vực này đã tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Độc Lập dài nhất tại Hoa Kỳ.
 
GeorgeWashingtonStatue1
 
George Washington năm 1778, một Tướng quân trong quân đội cách mạng – đã cho quân đội của mình một khẩu phần kép rượu rum để đánh dấu sự kiện.
 
Bạn nghĩ rằng bài hát đầu tiên để đánh dấu ngày này chỉ có thể là Star Spangled Banner? Nhưng “Psalm of Joy” của Johann Friedrich Peter từ Salem, North Carolina mới là bài hát đầu tiên gắn liền với lễ kỷ niệm.
 
Chính Phủ Mỹ Đã Ghi Dấu Ngày Nầy Như Thế Nào?
 
Đây từng là một kỳ nghỉ quốc gia không hưởng lương cho công nhân liên bang vào năm 1870. Sau đó vào năm 1938 nó đã trở thành một kỳ nghỉ hưởng lương trên khắp Hoa Kỳ.
 
Tiếng súng chào mừng từ khẩu súng ở mỗi tiểu bang được gọi là “lời chào của công đoàn”. Được bắn vào buổi trưa bởi các căn cứ quân sự.
 
Bài Hát Nào Gắn Liền Với Ngày Nầy?
 
Quốc ca “The Star-Spangled Banner”, “God Bless America”, “America the Beautiful”, “My Country”, “Tis ofe”, “Stars and Stripes Forever”. Các bang phía Đông Bắc có bài hát “Yankee Doodle”. “Dixie” là ca khúc ở các bang phía Nam. Một số lời bài hát gợi nhớ hình ảnh về cuộc chiến tranh cách mạng hay cuộc chiến năm 1812.

Theo Mirror
Iris Trần

 
4th of July
 
Trong khoảng 10 năm kể từ 1775, mười ba tiểu bang đầu tiên ở Bắc Mỹ Châu đã kết hợp với nhau tiến hành một cuộc chiến chống Mẫu Quốc Anh để thành lập một quốc gia mới, trẻ trung, và lấy tên là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (The United States Of America).
 
Hàng năm, cứ đến Ngày 4 Tháng 7, Hoa Kỳ cử hành Lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ tức Independence Day để nhớ lại rằng sau nhiều năm thương thảo chỉ gặp những áp chế càng ngày càng khắc nghiệt hơn, Quốc Hội Lục Ðịa cuối cùng đã vùng lên đồng thanh chấp thuận đưa ra Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập (Declaration of Independence) vào ngày 4 Tháng 7, 1776, hai ngày sau khi đại biểu các tiểu bang biểu quyết dứt khoát đoạn tuyệt với Mẫu Quốc.
 
Vào ngày tuyên ngôn này, Hoa Kỳ chưa chuẩn bị để có lá quốc kỳ và bài quốc ca mới. Bài ca hồi đó là “Hail, Columbia”, lá cờ là Grand Union Flag có 13 sọc cùng hình lá cờ Anh ở góc trái, và chưa có ngôi sao nào. Cho tới ngày 14 tháng 7 năm 1777 Quốc Hội II Lục Ðịa Mỹ Châu mới ra nghị quyết nhìn nhận lá cờ hình chữ nhật có 13 sọc trắng và đỏ với 13 ngôi sao kết thành một vòng tròn trên nền xanh dương.
*
Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu (CCCMMC) và Tuyên Ngôn Ðộc Lập
 
Nguyên nhân và những yếu tố đưa cuộc cách mạng đến thành công
 
Cuộc Chiến Cách mạng Mỹ Châu năm 1775 không kéo dài và ít đổ máu nhưng sự thành công của Cuộc Chiến Cách Mạng đó cùng với Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập đã có một ý nghĩa hết sức quan trọng không riêng chỉ đối với Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà còn đối với cả thế giới năm châu: sự thành công đó tạo một niềm hứng khởi say mê cho những con người vốn khao khát Tự Do của thời đại Bừng Sáng (Enlightenment) và là nguồn hy vọng tuyệt vời của những con người bị áp chế muốn vùng dậy đòi lại quyền làm người.
 
Tình hình Châu Mỹ La Tinh trước CCCMMC bùng nổ
 
Nhờ Christopher Columbus tình cờ khám phá ra Châu Mỹ trong những năm 1490, dân Âu Châu đổ xô đến đây để tìm vàng và lập nghiệp. Có hai sự kiện lịch sử:
 
(1) Jamestown ở Ðông Nam Virginia là ngôi làng đầu tiên của một số dân thuộc địa (colonist) người Anh ở Bắc Mỹ định cư vĩnh viễn vào năm 1607,
 
(2) Plymouth ở Ðông Nam Massachusetts là nơi những vị Tiền Bối Tị Nạn Tôn Giáo - the Pilgrim Fathers - đổ bộ từ con Tầu Mayflower vào năm 1620.
 
Từ đó, các nước cường thịnh ở Âu Châu như Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Bồ Ðào Nha, v.v. đã dần dần thiết lập các thuộc địa trên khắp dải đất rộng lớn và nhiều tài nguyên của Mỹ Châu với diên tích khoảng 17 triệu dặm vuông, đứng hàng thứ nhì thế giới sau Châu Á. Hoa Kỳ có diện tích khoảng 3 triệu 6 trăm ngàn dặm vuông đứng hàng thứ nhì sau Canada với 3 triệu 8 trăm ngàn dặm vuông. Miền Bắc Mỹ Châu lúc đó có 13 tiểu bang, mỗi bang đứng đầu là vị Thống Ðốc.
 
Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu bắt đầu bùng nổ với Trận Lexington và Concord (Tháng Tư, 1775) và với tiếng hô hào rất lớn của Patrick Henry “Cho Tôi Tự Do hay là Cho Tôi Chết” (Give Me Liberty or Give Me Death). Thi sĩ Emerson đặt hai câu thơ:
 
Hence once the embattled farmers stood
And fired the shot heard round the world
 
Nhập cuộc chiến các nông gia đứng dậy
Phát súng đầu nghe thấy khắp năm Châu
 
Tại sao xảy ra Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu?
 
Nguyên nhân dẫn đến Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu là sự bất mãn cao độ về chính sách thuế khóa quá cưỡng ép và không khoan nhượng, cùng với vấn đề quyền hạn của thuộc địa bị hạn chế qua sự kiện “đánh thuế mà không có sự đại diện” (taxation without representation). Nguyên nhân sâu xa là người dân thuộc địa từ lâu vẫn hoài bão một cuộc sống tự do, bình đẳng, và độc lập đối với Mẫu Quốc Anh.
 
Cuộc cách mạng thành công nhờ những yếu tố nào?
 
Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu thành công nhờ 5 yếu tố chính:
 
1. Lòng bất mãn cao độ của dân thuộc địa Mỹ Châu trước sự ngoan cố của Anh Hoàng và Nghị Viện Anh.
 
2. Cuộc chiến được lãnh đạo bởi những nhân vật có tài và có đức, tiêu biểu là George Washington.
 
3. Ảnh hưởng của tham luận “Common Sense” cổ võ cho một nền cộng hòa độc lập.
 
4. Ảnh hưởng của Bản Tuyên Ngôn Ðộc lập của nhóm Thomas Jefferson.
 
5. Lòng ái quốc của các bà trong Cuộc Cách Mạng Mỹ Châu.
 
Tính Ngoan Cố của Anh Hoàng và Nghị Viện Anh quốc
 
Anh Hoàng, George III có tiếng là đần độn từ nhỏ (học dốt) và chuyên chế; các triều thần tỏ ra bảo thủ không chịu lắng nghe nguyện vọng của các thuộc địa và quyết tâm dẹp trừ phản loạn. Hai sử gia Hoa Kỳ ghi về George III, đại ý là “Năm 1760, George III lên ngôi. Ông vua 22 tuổi này không muốn chấp nhận ý kiến quyền hành của vua nên bị hạn chế. Mẹ ông ta nói với ông ta: ‘George, con phải là Vua’ và ông ta đã thực hiện câu nói đó của mẹ.”
 
Anh Hoàng ban hành các điều luật mới như Sugar Act, Stamp Act, Tea Act, Declaratory Act (thuộc địa là thuộc cấp, Nghị Viện có thể ban hành luật buộc dân thuộc địa phải tuân theo.), và Thuế Quan Townsenhd (đánh vào hàng hóa xuất nhập cảng) nhằm tăng giá biểu các loại thuế đánh vào thuộc địa để bù đắp cho cuộc chiến với Pháp (1754-1763).
 
Sự bất mãn bùng nổ qua sự kiện có tên là “Boston Tea”: Ngày 27.11.1773, Tàu Dartmouth chở 1700 thùng trà tới Boston. Ðám dân chống không cho đem trà xuống trong khi Thống Ðốc Hutchinson buộc phải thu thuế trà. Tới ngày 16.12, dân biểu tình giả làm những thổ dân lên tàu và đổ hết trà xuống biển. Tin này bay tới London, nhiều người ở Anh nghĩ là phải dạy thuộc địa một bài học. Anh Hoàng George III nói: “Ta phải buộc chúng phục tùng hay bỏ mặc chúng” (We must master them or leave them to themselves).
 
Mùa xuân năm sau (1784), Nghị Viện Anh ra “Những Ðạo Luật Cưỡng Chế” (Coercive Acts) và chuẩn bị đưa binh sĩ vượt 3000 dặm sang Mỹ Châu để dẹp loạn. Tại Mỹ Châu, Massachusetts, thủ phủ của dân thuộc địa tị nạn, kêu gọi một cuộc họp các đại biểu của tất cả các thuộc địa để nghiên cứu đưa ra hành động chung.
 
Quốc Hội Lục Ðịa Ðầu Tiên (First Continental Congresss) nhóm tại Philadelphia vào tháng Chín, 1774. Có nhiều tranh cãi về “Hòa” hay “Chiến”. Cuối cùng đa số chấp nhận lý luận của John Adams (sau này là Tổng Thống kế TT Washington): dân chúng thuộc địa phải cầm súng để bảo vệ các quyền của họ. Lúc đó, John Adams phát biểu: “Cuộc cách mạng đã hoàn tất trong tâm trí của dân chúng và Khối thuộc địa, trước khi cuộc chiến khởi sự. (The revolution was complete in the minds of the people and the Union of the colonies before the war commenced.)”
*
Thân Thế và Sự Nghiệp của George Washington (1732 – 1799) (TC: The American Nation, tr. 106)
 
Dường như Washington sinh ra để trở thành một vị lãnh đạo có công lao lớn nhất dẫn dắt Cuộc Chiến Cách Mạng Châu Mỹ tới thành công. Ông thực sự xứng đáng được mọi người Hoa Kỳ gọi là “Cha của Ðất Nước” – “Father of His Country”.
 
Ông sinh ngày 22.2.1732 trong một gia đình trồng trọt thuốc lá giàu có ở Westmoreland, Virginia. Cha mẹ ông sở hữu chừng 10 ngàn mẫu và khoảng 50 nô lệ. Ông đối xử với các nô lệ rất tử tế và lịch sự, và không bao giờ đặt vấn đề ông có quyền sở hữu nô lệ. Ông không theo học chính thức trường lớp nhiều, nhưng có thầy dạy kèm (tutors), đặc biệt dạy ông về công dân giáo dục. Ông siêng năng và rất kỷ luật.
 
Ông có một thân thể rất tráng kiện như cha ông: cao 6 feet và cân nặng 200 pounds. Giống như các bạn đồng lứa, ông rất ngưỡng mộ các vị anh hùng của thời Cộng Hòa La Mã tỉ như Cato the Young, nổi tiếng về tính thật thà và tận tụy với công vụ.
 
Ông không thích môn Văn nhưng giỏi Toán. Từ nhỏ đã có khiếu về khảo sát địa hình (survey). Năm 1749, ông làm trắc địa viên (surveyor) cho Công Ty Culpeper.
 
Năm 1752, ông gia nhập dân quân Virginia. Ông được phái tới Ohio River Valley ở đông Pennsylvanyia để tấn công một lực lượng nhỏ của Pháp để khởi sự Cuộc Chiến Pháp và Thổ Dân (French & Indian War) và trở thành Tư Lệnh của Dân Quân Virginia (1755- 58). Cuối 1758, ông từ nhiệm nghĩa vụ này vì: là một dân Mỹ Châu, ông sẽ không thể thăng tiến trong quân đội Anh Quốc mặc dầu ông dũng cảm và có tài quân sự.
 
Ông chuyển sang sự nghiệp chính trị bằng cách nhận một ghế trong Hạ Viện của Nhóm Burgesses (Ðại Biểu Thị Xã, 1759- 74), làm thẩm phán tòa hòa giải (1760- 74), quản lý sở đất Virginia của ông ở Mount Venon, và cưới bà Martha Dandrid ngày 6.1.1759.
 
Khi Cuộc Cách Mạng Châu Mỹ sắp bùng nổ trong giữa những năm 1770, ông đắc cử vào Quốc Hội Lục Ðịa Kỳ I (1774 – 75). Ngày 15.6.1775, Quốc Hội Lục Ðịa Kỳ II bổ nhiệm ông là Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Lục Ðịa. Ông nắm quyền chỉ huy vào ngày 3.7.1775. Ông đã xây dựng từ những binh đoàn kém huấn luyện và thiếu trang bị thành những đơn vị có kỷ luật và tác chiến tốt, và bảo vệ được Boston (1776). Tuy nhiên ông suýt bị tiêu tan sự nghiệp vì thất trận ở Long Island.
 
Sau những thành công trong các trận ở Trenton và Princeton, ông gỡ được một chút tín nhiệm. Ông tránh khỏi được một toan tính bãi nhiệm ông. Trong các năm 1777- 78, ông rút các đơn vị về thủ ở Valley Forge. Nhờ kết đồng minh với Pháp (1778) và Tây Ban Nha (1779), lực lượng của ông chiếm được Yorktown (1781). Khi hòa bình ký kết (1783), ông từ chức trở về trang trại ở Mount Vernon.
 
Bất bình với những Ðiều Khoản về Liên Hiệp Chế (Confederacy) 1781, ông đóng vai trò chính trong nỗ lực bảo vệ chấp nhận Hiến Pháp Hiệp Chủng Quốc.
 
George Washington 1.3.16 1 840x510 1514225137George Washington (1789-1797)
 
Năm 1789 được Quốc Hội nhất loạt bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên.
 
Ông làm lễ nhậm chức Tổng Thống vào ngày 30 Tháng 4, 1789. Tin tưởng mãnh liệt vào một chính quyền trung ương mạnh, ông thành lập ngành tư pháp liên bang (1789) và một ngân hàng quốc gia (1791).
 
Năm 1792, ông lại được Quốc Hội nhất loạt bầu làm Tổng Thống nhiệm kỳ hai.
 
Trong nhiệm kỳ hai, nhìn thấy đã có nhiều dấu hiệu chia rẽ đảng phái, TT Washington đã đưa ra lời tiên đoán rằng “đất nước sau này chắc chắn sẽ rơi vào nạn chia rẽ đảng phái rất trầm trọng” và trong bài diễn văn từ giã cuối nhiệm kỳ hai vào Tháng Chín, 1796, ông phát biểu sẽ không nhận đề cử làm TT cho nhiệm kỳ ba và ông biện bác cho một quốc gia đoàn kết hơn là chia rẽ bởi các đảng phái, bởi các chính sách kinh tế, hay đối ngoại. Hết nhiệm kỳ hai, ông trở lại Mount Vernon vui thú điền viên.
 
Với đức tính liêm khiết, lòng kiên nhẫn, trái tim yêu công lý, và tinh thần trách nhiệm cao, ông là một vị lãnh đạo vĩ đại và rất xứng đáng với danh hiệu “Cha của Ðất Nước”. Ông qua đời ngày 14.12.1799.
 
Nhưng Cuộc Chiến Cách Mạng giành độc lập thành công hẳn nhiên còn nhờ tới những bài luận thuyết nẩy lửa của những nhân vật tài ba viết làm bùng lên khí thế đấu tranh rất mãnh liệt và kiên cường của đông đảo quần chúng.
 
Ảnh Hưởng của Bản Tham Luận “Common Sense” của Thomas Paine (1737- 1809)
 
Thomas Paine sinh trưởng ở Anh và là một nhà văn cấp tiến, một khuôn mặt lãnh đạo của Cuộc cách Mạng Mỹ Châu. Ông di cư sang Mỹ Châu năm 1774. Hơn 150 ngàn ấn bản tham luận (pamplet) Common Sense (Ý Thức Thông Thường) rất có ảnh hưởng của ông được bán ra năm 1776 thúc đẩy các thuộc địa tuyên bố hoàn toàn độc lập. Ông gọi Anh Hoàng George III là “Bạo Chúa” (Royal Brute) và nói với những người còn e ngại, sợ xệt: “Một chính quyền của chính chúng ta là quyền tự nhiên của chúng ta” (A government of our own is our natural right”).
 
Ông nhấn mạnh: “Hỡi nhân loại yêu quý! Chúng ta dám chống không phải chỉ với sự bạo ngược mà chống ngay cả tên bạo ngược nữa” (O! ye that love mankind! Ye that dare oppose not only tyrany but the tyrant itself!).
 
Bản Common Sense ảnh hưởng mạnh trong Quốc Hội. Tháng 3, 1776, Quốc Hội phái các tàu võ trang chống thương thuyền Anh; cho mở các cửa cảng châu Mỹ cho tàu ngoại quốc vào; thúc đẩy các đại hội tỉnh hình thành hiến pháp và chính quyền tiểu bang. Ngày 7.6.1776, Richard Lee đưa ra bản quyết nghị của đại hội Virginia như sau:
 
Quyết Nghị: Rằng các thuộc địa thống nhất là và có quyền là những tiểu bang tự do và độc lập; rằng các thuộc địa xóa bỏ hết mọi liên thuộc với Vương Quốc Anh; và rằng mối liên lạc chính trị giữa các thuộc địa và Anh Quốc thì và phải là hoàn toàn giải tán.
 
Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
 
Ðể chính thức tuyên bố cắt đứt mọi dính líu và lệ thuộc vào mẫu quốc, Quốc Hội Lục Ðịa thành lập một nhóm gồm năm nhân vật: Thomas Jefferson, Benjamin Flanklin, John Adam, Roger Sherman, và Robert Livingston với nhiệm vụ soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập.
 
Thomas Jefferson được coi như là soạn thảo viên chính vì ông là một luật gia có văn tài và thông minh. Sau đó ông được cử làm Thống Ðốc bang VA (1779- 81) và bầu làm Tổng Thống hai nhiệm kỳ (1801 – 1809).
 
Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập (Declaration of Independence) được ký ngày 4 tháng 7 năm 1776 là một văn kiện đánh dấu kỷ nguyên mới của nhân loại trong thế kỷ 18 nói lên tiếng nói đoạn tuyệt với chế độ quân chủ để xây dựng một chính thể mới gọi là chính thể cộng hòa (the republic) với nội dung quyền hành của đất nước là của toàn dân. Ý niệm này xuất phát từ những tư tưởng trong các luận thuyết của các triết gia điển hình là Jean Jacque Rousseau (Pháp) viết cuốn “Nguồn Gốc của Sự Bất Bình Ðẳng của Con Người (Origin of Inequality of Man, 1755).
 
Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ vang dội khắp thế giới. Ðặc biệt là ở Pháp, Cuộc Cách Mạng 1789 đã đưa ra bản tuyên ngôn tương tự gọi là Tuyên Ngôn của Pháp Quốc về Quyền của Con Người (French Declaration of the Rights of Man).
 
Nội dung Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ như sau:
 
Chúng tôi coi những sự thật sau đây là hiển nhiên rằng mọi người sinh ra là bình đẳng, rằng Tạo Hóa ban cho họ một số quyền bất khả chuyển nhượng, rằng trong những quyền đó có quyền Sống, quyền Tự Do, và quyền theo đuổi Hạnh Phúc. Rằng để bảo đảm những quyền này, Chính Quyền phải được xây dựng bởi luật pháp và quyền hạn chính đáng của chính quyền phải xuất phát từ sự đồng ý của những Người Dân. Rằng bất cứ khi nào bất cứ một Hình Thức Chính Quyền trở nên phá hoại đối với những cứu cánh này thì Người Dân có Quyền thay đổi hay hủy bỏ chính quyền đó, và thiết lập Chánh Quyền mới. ...
 
Xin thưởng thức bài thơ:
 
Mừng Hoa Kỳ Ðộc Lập
Hải Bằng.HDB
 
Quyết rời mẫu quốc tái xây đời
Dân chủ đa nguyên đạt mới thôi
Ðộc Lập châm ngôn soi vạn thế
Tự Do lý tưởng sáng muôn thời
Phát huy Bình Ðẳng trên toàn cõi
Bảo vệ Nhân Quyền tại khắp nơi
Mở rộng vòng tay ôm tị nạn
Tạ ơn Nước Mỹ bút thay lời
 
Ngoài những lực lượng kiên cường và các bài viết hùng hồn, cuộc chiến giành độc lập cho Mỹ Châu còn dựa vào sự góp sức hết lòng của phụ nữ Hoa Kỳ. Họ đã toàn bộ đứng lên làm những công tác nâng cao tinh thần binh sĩ lúc đó đang xuống thấp và phải lui về tái bố trí ở Valley Forge.
 
Lòng Ái Quốc của Các Bà trong Cuộc Cách Mạng Mỹ Châu
 
Thật ra không phải tất cả mọi người đều hưởng ứng ngay phong trào cách mạng. Trái lại còn khá nhiều phân tử trung thành với mẫu quốc gọi là “bảo hoàng” (loyalists) vì tâm lý sợ hãi thế lực còn mạnh của Anh Quốc và vả lại họ chưa ý thức được thế nào là hạnh phúc, là tự do, và bình đẳng bởi vì họ đã quá quen với những nếp sống cũ: phục tùng và chịu đựng. Ngay cả đối với mười ba tiểu bang bỏ phiếu biểu quyết cho bản Tuyên ngôn Ðộc Lập, cũng chỉ có 9 đại biểu bỏ phiếu thuận; còn hai đại biểu bỏ phiếu chống là Pennsylvania và South Carolina và hai đại biểu lưng chừng là Delaware và New York.
 
Cuộc chiến ban đầu gây nhiều tổn thất cho thuộc địa vì quân số ít và trang bị thiếu thốn. Tin về quân Anh đã chiếm Chaleston, South Carolina, truyền tới Philadelphia trong tháng Năm, 1780, chính quyền và các thương gia lập tức tìm mọi cách gây quỹ yểm trợ cuộc chiến và nâng tinh thần của binh đội. Bỗng có một cuộc vận động không ai ngờ được là các bà ở Phila lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ đứng ra lập hội nhằm kêu gọi tất cả các thuộc địa yểm trợ cuộc chiến. Cuộc vận động bắt đầu từ ngày 10.6.1780 và người có sáng kiến lập hội này là bà Esther de Berdt Reed 33 tuổi và là một người yêu nước kiên cường viết một bài vận động tâm lý có nhan đề là “Tâm Tình của một Phụ Nữ Mỹ” (The Sentiments of An American Woman) và trở thành chủ tịch của Hội Của Quý Bà (Ladies Association).
 
Trong bản “Tâm Tình”, bà Berdt xác định rằng phụ nữ Mỹ phải cương quyết làm nhiều hơn là hứa suông (barren wishes). Bà nêu lên sự nghiệp vĩ đại của vị Nữ Anh Hùng Joan of Arc của Pháp (1412 – 1431), người nữ nông dân nghèo đã đứng lên hô hào giải phóng nước Pháp khỏi Anh Quốc. Bà hô hào phụ nữ Mỹ nên từ bỏ “các món trang sức tầm thường” (vain ornaments) và dành món tiền mua sắm quần áo lòe loẹt hay làm tóc kiểu để mua quà tặng cho binh sĩ gọi là “quà của Quý Bà” (the offering of the Ladies).
 
Lời kêu gọi này được đáp ứng ngay lập tức. Ba ngày sau khi bài “Tâm Tình của Một Phụ Nữ” xuất hiện, ba mươi sáu bà ở Philadelphia hội lại để quyết định làm thế nào tiến hành những đề xuất của bà Berdt. Những quyết nghị của họ in trong một phụ chương của bài Những Tâm Tình đăng tải trên báo Pennsylvania Zazette ngày 21.6.1780. Bản kế hoạch có nhan đề “Những Ý Kiến, liên quan tới cách gửi tới Các Binh Sĩ Mỹ, các Món Quà của các Phụ Nữ Mỹ” và bản kế hoạch không đề nghị gì hơn là động viên toàn bộ nữ giới. Những đóng góp sẽ được nhận từ bất cứ một phụ nữ nào với bất kỳ số lượng nào. Một “Nữ thủ quỹ” sẽ được chỉ định trong mỗi quận kiểm tra thu góp tiền bạc, ghi cẩn thận tất cả những khoản tiền thu. Kiểm tra những công việc của những nữ thủ quỹ quận sẽ là phu nhân của Thống Ðốc trong chức vụ “Nữ Tổng Thủ Quỹ”. Nhất loạt, tất cả các món quyên góp sẽ được gửi cho Martha Washington (phu nhân của George Washington) để tặng binh sĩ.
 
Công tác quyên góp được tiến hành ngay. Thành phố Phila chia thành mười khu, mỗi khu có hai tới năm bà phụ trách. Từng cặp vận động viên như vậy đi đến từng nhà quyên góp không trừ một ai. Nhóm vận động viên bao gồm đủ thành phần xã hội. Vào đầu tháng Bảy, số tiền lạc quyên lên tới ba trăm ngàn đô la thuộc địa ($300, 000. dollars thuộc địa). Trong tháng Bảy, báo chí khắp nơi tái đăng bài “Những Tâm Tình” kèm theo kế hoạch chi tiết về lạc quyên.
 
Các bà ở Trenton, New Jersey, là nhóm đầu tiên theo gương Philadelphia. Họ cũng cho đăng tải bài kêu gọi lấy tên là “Tâm Tình của Các Bà ở New Jersey”. Trung tuần tháng Bảy, New Jersey chuyển số tiền khởi thủy $15,500. cho George Washington. Ở Maryland, hội các bà gửi $16,000. mới chỉ quyên góp ở thành phố Annapolis thôi. Chủ bút báo Pennsylvania Packet viết một bài đặc biệt gửi cho cư dân Matyland: “Phụ nữ ở mọi nơi trên hoàn cầu đang mắc nợ các phụ nữ ở Mỹ Châu vì họ đã tỏ ra rằng nữ giới có khả năng làm công đức chính trị cao nhất.” (the women of every part of the globe are under obligations to those of America for having shown that females are capable of the highest political virtue).
 
Số tiền quyên góp đã được dùng để làm gì? Kế hoạch sử dụng tiền quyên góp của các bà rất khác với kế hoạch của vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, George Washington. Ông muốn làm các áo sơ mi cho binh sĩ hơn bất cứ các món quà nào khác. Nhưng bà Esther Reed báo cáo rằng không những vải rất khó kiếm mà hơn nữa Pennsylvania đang có kế hoạch gửi hai ngàn áo sơ mi cho binh sĩ và hàng đã được chở từ Pháp qua nhiều rồi. Bà thêm rằng một số người đưa ý kiến là đổi hết số tiền ra dollar nặng và tặng cho binh sĩ mỗi người hai đồng để tùy nghi sử dụng. Tuy nhiên, bà viết thêm cho vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, George Washington, rằng nếu binh sĩ còn cần sơ mi thì Hội Các bà sẽ dành một khoản tiền để thực hiện.
 
Washington trả lời đại ý rằng: tặng tiền có thể sẽ tạo cho binh sĩ phạm ký luật nếu họ uống rượu. Nếu quý bà muốn sử dụng tiền tặng giữ làm phước đó tốt đẹp, thì nên mua sơ mi tặng cho binh sĩ.
 
Rút cục các bà thực hiện đúng ý Washington. Bất hạnh thay, công việc chưa thực hiện xong thì bà Esther de Berdt qua đời vì bịnh kiết lỵ (1780) và công việc điều hành hội trao cho bà Sarah Flanklin Bache (con gái của Benjamin Flanklin) đảm nhiệm. Cho tới đầu tháng 12 thì đã hoàn tất hơn 2000 sơ mi có in tên của một bà đã lập gia đình hay chưa lập gia đình may tấm áo đó. Cuối tháng 12, số sơ mi được trao cho viên Tổng Quân Nhu ở Philadelphia.
 
Một người dân Philadelphia giấu tên viết: “Tôi thú nhận rằng chúng tôi đã tiến hành công việc một cách nghiêm trang và với lý do cao quý. Chúng tôi hy sinh từng giờ phút mà chúng tôi có thể dành ra từ những công việc nhà cho công ích. Chúng tôi quên tất cả những mệt nhọc vì sung sướng và hãnh diện là trong khi các binh sĩ chịu gian khổ và hiểm nguy trên chiến địa để bảo vệ chúng tôi thì chúng tôi ở nhà chỉ làm những lao động nhỏ thôi nhằm tạo những phút thoải mái và làm nhẹ đi những nỗi nhọc nhằn của họ.”
*
Tóm lại, Cuộc Chiến Cách Mạng Châu Mỹ mở đầu một kỷ nguyên mới của nhân loại, kỷ nguyên của Tự Do, Bình Ðẳng, và Tiến Bộ với một quốc gia mới, rất trẻ trung được khai sinh, đó là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (The United States of America). Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập minh định “Mọi người sinh ra bình đẳng” và “Quyền hạn của chính quyền phải xuất phát từ sợ đồng ý của người dân”. Ðó là những tư tưởng hoàn toàn mới mẻ và đầy hấp dẫn khi mà những hình thức và tập tục của chế độ quân chủ vẫn còn ngự trị trong tâm trí nhiều người.
 
Pháp là nước đầu tiên noi gương Hoa Kỳ tiến hành Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 nhằm triệt hạ chế độ quân chủ của Louis XVI và nhân ngày lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ thứ 100, nước Pháp tặng Mỹ Quốc bức Tượng Nữ Thần Tự Do hiện đặt trong cảng New York.
 
Hoa Kỳ vẫn phải tự cho mình trách nhiệm bảo vệ và phát huy những lý tưởng nêu trong bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập trên mô hình toàn cầu trong ý niệm về Một Nền Trật Tự Mới Thế Giới.
 
Hải Bằng.HDB
 

Ngọc Lan ST.

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %04 %803 %2020 %14:%07
back to top