Hoàng và Vy một thời của tình yêu. Ảnh gia đình.
Gs Triết Nguyễn Xuân Hoàng và một thời với học trò. Ảnh gia đình.
Nguyễn Xuân Hoàng, Giáo sư Triết hút thuốc như điên. Ảnh Gia đình.
Đôi lời gửi Nguyễn Xuân Hoàng
Giao Chỉ, San Jose
(Viết để chia xẻ với các bạn của Hoàng-Vy tại San Jose)
Giọt nắng cuối chiều chưa vội tắt, mà lời từ biệt đã lên môi.
Câu thơ chẳng biết của ai mà ghi lại cũng chẳng biết có đúng không. Nhưng thực sự rất gần với hoàn cảnh của ông thầy dạy Triết, Nguyễn Xuân Hoàng. Anh Nguyễn Xuân Hoàng cũng là nhà văn tên tuổi trên văn đàn và báo giới. Tổng thư ký báo Văn, báo Người Việt, Viet Mercury và Viet tribune hiện nay tại San Jose. Mấy tháng nay anh bị đau rất nặng, phải ra vào nhà thương nhiều lần. Thân hữu chúng ta ai cũng biết và hết sức ngậm ngùi. Mới đây bác sĩ Ngô Thế Vinh có viết về tiểu sử và bệnh tình của anh Hoàng.Tôi xin kể thêm về chút tình cảm riêng tư như sau. Anh được cô Vy, vợ Hoàng đưa về nhà như là giọt nắng cuối chiều. Nắng chiều chưa tắt, nhưng trước sau cũng đến lúc phải hoàng hôn.. Từ nhà thương cô Vy điện thoại qua nước mắt. Pa báo cho Măng biết là Stanford quyết định cho nhà con về nằm nhà để chờ. Bác sĩ và nhà thương ở đây chịu thua rồi. Con đang ký giấy nhận chàng về. Con về trước đến nhận giường điều trị nhà thưng cho đưa tới. Xe nhà thương sẽ chở Hoàng về chiều nay. Nói Măng không còn gì phải lo nữa. Không cần cấp cứu. Xe nhà thương chuyến về không phải mở đèn và thổi còi. Con sẽ không còn phải gọi 911 nữa. Sau cùng thì chàng cũng trở về với em trong những ngày sau cùng. Sau khi nhận được tin, vợ chồng tôi lên thăm anh chị Nguyễn Xuân Hoàng và Trương Gia Vy. Có người hỏi là hai gai đình họ hàng ra sao mà cô Vy cứ gọi bà Lộc là Măng. Có phải là mẹ nuôi không. Đâu có họ hàng bà con gì đâu. Cô Vy là dân Sài Gòn, con ông Trương gia Kỳ Sanh. Bà Lộc, khuê danh Quan Thị Châu, cháu ông Quan Công bên Tầu, sinh quán Rạch Giá. Chẳng có bà con xa gần gì cả. Vài chục năm xưa, hai người gặp nhau, tình cờ mặc áo giống nhau. Tưởng như hai chị em. Người nọ khen người kia mặc áo đẹp. Chưa biết thưa gửi ra sao. Bà cụ mang họ Quan Công hỏi cô Vy bao nhiêu tuổi mà đóng vai vợ Nguyễn Xuân Hoàng. Cô Vy khai là con thua chàng hơn một giáp. Nhà tôi nói, vậy cháu ngang tuổi con gái lớn của bác. Vy bèn gọi mẹ ơi, rồi tuyên xưng chính thức danh nghĩa mẹ con. Vy gọi chúng tôi là Pa và Măng. Cha mẹ Trương gia Vy không còn nữa, cô gọi chúng tôi như là một tình cảm thay thế cho tiếng gọi lòng sâu thẳm của đứa con gái cô đơn. Phận chúng tôi cũng cố gắng không làm điều gì cho con gái.. phải hổ thẹn. Nhưng chuyện này chỉ giới hạn với cô Vy mà thôi. Đối với anh Nguyễn Xuân Hoàng, cá nhân tôi chỉ hơn anh 7 tuổi, mãi mãi chỉ là thân hữu. Quê hương thân phụ Hoàng ở Nam Định, quê tôi cũng Nam Định. Nếu có họp hội đồng hương thì sẽ ngồi cùng bàn. Hoàng là giáo sư viết văn, dậy triết. Tôi suốt đời đi linh. Dù là cầm bút, nhưng văn tôi dưới đất, văn của Hoàng trên trời, Người đi trên Mây. Người lính đi bộ. Cõi trần gian đã không gặp nhau. Cõi văn chương cũng không gặp nhau. Không có dịp cùng nhau tâm sự. Không cùng ngồi uống cà phê để làm thơ. Không ở bên nhau uống rượu mà làm báo. Chúng tôi chỉ biết nhau tại San Jose. Tôi viết báo, Hoàng duyệt qua rồi cho đăng. Duyên nợ thấm thoát cả chục năm dài. Nhưng sao vẫn còn đủ cho tình cảm tràn đầy. Để tôi kể các bạn nghe câu chuyện bên nhau khi anh chị mới ở nhà thương về. Vợ chồng tôi và anh chị Hoàng cùng ngồi trên giường bệnh. Trừ lúc trong cơn đau, còn lúc thường Hoàng khỏe mạnh, tỉnh táo. Cô Vy nói sẽ kể cho Pa và Măng nghe đầu đuôi buổi họp cuối cùng tại nhà thương. Mặc dù không cần thông dịch nhưng nhà thương vẫn đưa thông dịch viên Việt Ngữ hiện diện. Chẳng có gì phải dấu diếm người bệnh và thân quyển. Bác sĩ nói rằng bệnh ung thư của Hoàng không điều trị được nữa. Chỉ còn nằm chờ và uống thuốc cho khỏi đau. Nhà thương sợ cô Vy vì quá thương yêu nên không nói thực với anh Hoàng. Vy và Hoàng cùng muốn biết là sẽ chờ đợi bao lâu. Bác sĩ trả lời là hàng tuần hàng tháng và hàng năm. Khi bác sĩ nói, cô Vy nghe chữ years có s rõ ràng mà bà thông dịch chỉ nói là hàng tuần và hàng tháng. Chữ years có s rất quan trọng. Nhà tôi góp tin tức với kinh nghiệm đã làm nhà thương Việt Nam 20 năm rồi làm cho Hồng thập tự Hoa kỳ 21 năm. Bác sĩ cũng không tin được 100%. Bà chị dâu của má, nhà thương cho về nằm nhà gần 5 năm mới ra đi. Nói chuyện bệnh tật nhà thương mãi cũng chán, tôi thay đổi không khí nói rằng vừa mới thấy tấm hình giáo sư Nguyễn Xuân Hoàng chụp với các em nữ sinh trung học Ngô Quyềnở Biên Hòa. "Anh" giáo sư triết lại là nhà văn đứng chung với các cô học trò lớp 12. Quả thực là một bức hình đẹp và tình không thể chịu được. Ông thấy trẻ tuổi, đẹp trai muốn nằm trong vòng tay học trò là được ngay thôi. Bây giờ anh Lộc nhìn mà còn thấy ghen tức. Ngày xưa lúc anh đang lội rừng mà thấy cậu Hoàng sung sướng như thế này thì sẽ giận đời bất công biết chừng nào.
Giữa văn chương và dạy học Hoàng thấy thế nào. Nguyễn Xuân Hoàng cho biết Văn là ý nghĩa chính của cuộc đời. Đi dậy chỉ là phụ. Cô Vy nói thêm. Nhưng cái phụ nuôi cái chính. Dạy học mới có tiền nuôi vợ con và nuôi văn chương. Mà lại là thầy dậy có giá. Nhiều trường trả tiền gấp đôi. Tôi nói, nếu như vậy cậu Hoàng sống trọn vẹn quá rồi. Hoàng nói, em có phàn nàn gì đâu. Ra đi không sợ, chỉ sợ đau và sợ cô Vy khóc.. Vy lấy tay gạt nước mắt nói rằng. Con có khóc đâu.. Nhà tôi nói rằng. Vy ơi, thôi mày lo cho thân mày đi. Sửa ngay cái chuông trước cửa. Làm cho anh Hoàng cái chuông đầu giường. Có gì thì còn gọi. Vy nói. Nhà thương nói là sẽ gọi chỗ khác, không gọi 911 nữa. Măng nói ngay. Gọi 911 là lo cho cô chứ không phải 911 cho cậu Hoàng. Bố Giao Chỉ nói là dù sao cũng phải chờ một thời gian. Đến 20 tháng 7-2014, kỷ niệm 60 năm giã từ Hà Nội. Rồi đến 30 tháng tư năm 2015. Kỷ niệm 10 năm tạm biệt Sài Gòn. Nhớ Hà Nội thì sẽ có ngày gặp Mai Thảo. Nhớ Sài Gòn thì tìm gặp Nguyên Sa. Khi ta ra đi, có anh sợ ít có anh sợ nhiều. Nhưng tất cả kẻ đi người ở, ai cũng có nỗi buồn như nhau. Nguyễn Xuân Hoàng may mắn lấy vợ trẻ. Trong tiếng khóc có cả tiếng cười.
Hoàng và Vy, ngày xưa
Đêm Thơ Nhạc Cung Trầm Tưởng **** "Núi và Suối Một Huyền Sử", "Lời Thề Nguyền Yêu Thương".
Xin mời nghe nhạc phẩm "Lời Thề Nguyền Yêu Thương", của nhạc sĩ Võ Tá Hân phần nhạc, Thơ chính Cung Trầm Tưởng cùng đệm ý thơ Emily Dickenson và Edmond Haracourt. datafile youtube link đính kèm.
Cung Trầm Tưởng, Tiếng Việt, Lời Thơ:
Bơi trong cõi văn chương Cung Trầm Tưởng
Trong một bài viết bàn bạc về ngôn ngữ, chữ nghĩa, nhà thơ Cung Trầm Tưởng dùng câu nói của nhà phê bình văn học Pháp Roland Bartheskhi đề cập: "C’est le frisson du sens que j’interroge en écoutant le bruissement du langage". Phải chăng khi ta nghe tiếng xào xạc của chữ nghĩa, ta tự hỏi lòng nỗi cảm giác rung cảm ấy? Đối với nhà văn, nhà thơ, hình như mỗi người có những kiểu nói, những chữ viết riêng, có thể là đặc thù, dù duyên dáng hay ngộ nghĩnh, đó là biểu tượng của họ và từ họ mà ra.
Hôm nọ nhạc sĩ Trường Sa bên Canada email đến chúng tôi bài nhạc Kiếp Sau, phổ từ thơ Cung Trầm Tưởng cùng tựa, do ca sĩ Minh Châu (Los Angeles), tâm tư tôi dâng lên những thích thú, thơ nhạc hay hay như sự đột phá, lạ lẫm. Thơ Kiếp Sau có những câu như:
"Bù em một tháng trời gần
Đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi
Bù em góp núi chung đồi
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ.
Bù em xuôi có ngàn thơ
Vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương..."
Tôi nói với hai vị thi sĩ và nhạc sĩ là tôi thích 2 chữ "bù em". Phải chăng thơ là thể văn rút ngắn, thay vì nói dài cho rõ hơn trong văn xuôi là "anh đền cho em...", nhà thơ dùng kéo tỉa gọn ra thơ. Trong thi ca, sự lạ lẫm về chữ nghĩa lao xao, xào xạc (rustling, bruissement) như thật có đấy, nhiều lắm. Ví dụ nhé, trong bài thơ Ngậm Ngùi của thi sĩ Huy Cận:
"Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau ?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi..."
Chữ nghĩa lao xao ở các chữ "Hồn em đã chín mấy mùa" hay "trái sầu" trong thơ, nếu diễn dịch rõ nghĩa trong văn xuôi văn chương bút tạp ghi bình phẩm sẽ dài. Trong thơ
Nguyên Sa, bài Tuổi 13 tôi thích thú khi chữ nghĩa lao xao:
"Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngạt ngào tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng"
Ậy, lại chữ nghĩa lao xao ở chỗ "mưa... bong bóng vỡ đầy tay", rồi "Trời nắng ngạt ngào", những chữ nghĩa của người thơ là thế, nắng sao lại ngạt ngào ? Tĩnh từ ngạt ngào hay ngào ngạt ám chỉ có mùi thơm lan toả rộng và kích thích mạnh vào khứu giác như khi ta nói hương thơm ngào ngạt, mùi hoa ngào ngạt, hoặc giả mùi phở, mùi trầm ngạt ngào khứu giác,... chữ nghĩa của những lao xao rồi, mà sao không là nắng gay gắt, hay nắng như thiêu đốt cremation của lò thiêu Peek family, thế còn gì lãng mạn tính, còn gì thơ mộng mị tính khi mà nắng ngọt ngào vì có em, còn không có em thì như bài ca Tây Ninh nắng cháy da người, cháy luôn da em chứ nhỉ?
Nguyên Sa bồi tiếp những lao xao chữ nghĩa như những ví von, những ẩn dụ (metaphor), những so sánh áo vàng lại yêu hoa cúc, chứ không là Áo Vàng như Mai Thảo, tên tựa tác phẩm của Mai Thảo, rồi tại sao áo nàng xanh lại mến lá sân trường, mà không mến màu áo của Con Ma Áo Xanh (Litte Green), tiểu thuyết nổi danh của nhà văn Mỹ Walter Mosley ? Chữ nghĩa của những lao xao… Oui, le voilà qui se remet à rire!
"Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường.
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím."
Thế giới văn học vốn thắc mắc hai vị phù thủy của chữ nghĩa lao xao trong thi ca văn học, Thanh Tâm Tuyền của sự thể "Ôm em trong tay mà nhớ em ngày sắp tới" và Du Tử Lê của sự thể "Con dế buồn tự tử giữa đêm sương". Chữ nghĩa của những lao xao chạy sang thơ Du Tử Lê nhé. Bài Ơn Em của thi sĩ Du Tử Lê lao xao ở chỗ: "Ơn em ngực ngải môi trầm", rồi lao xao tiếp "Cho ta cỏ mặn, trăm lần lá ngoan"...
"Ơn em thơ dại từ trời,
Theo ta xuống biển, vớt đời ta trôi.
Ơn em dáng mộng mưa vời,
Theo ta lên núi, về đồi yêu thương.
Ơn em ngực ngải môi trầm,
Cho ta cỏ mặn, trăm lần lá ngoan.
...
Tạ ơn em… tạ ơn em.."
Thật vậy, bần bút tôi trố mắt như cá thòi lòi, mắc chứng bứt rứt tóc tai (trichotillomania), khi âm thầm lẩm bẩm vì những lao xao, bruissement, "Con dế buồn tự tử giữa đêm sương". Mà tại sao "Con dế buồn tự tử giữa đêm sương"? Trong khi ngày xưa tôi là vua đá dế, nuôi cả bầy dế than, dế lửa mà chả thấy con dế nào buồn lại tự tử giữa đêm sương cả, dế thua dế ôm xác bỏ chạy te te như đồng minh tháo chạy vì chứng diarrhea bị Tào Tháo đuổi, hay hiện tượng "hit-and-run" của sự thể Clinton- Lewinsky bị bọn Cộng Hòa truy kích, truy đuổi. Rồi sự thể lạ lẫm "Ơn em ngực ngải môi trầm", những biểu tượng thiêng liêng của người nữ trong sứ mạng truyền giống, nghĩa vụ sinh sản để dòng sông đời còn những đẹp đẽ nối tiếp nhau. Nếu đời này chỉ có những nam giới, những mày râu thôi, eo ơi chán bỏ sừ, chỉ có nam với nam lặng lẽ nhìn nhau nơi khuê phòng, chán chết, văn học romantisme sẽ cụt hứng. Thế giới này chả chóng thì chầy sẽ triệt sản. Sự thể ca tụng "Ơn em ngực ngải môi trầm", cũng nên vinh danh những tubib phù thủy sửa sang sắc đẹp, nào những đôi môi trầm khêu gợi, những núi đồi diệm sơn, sự cần thiết cho vẻ đẹp cần có cho âm phái. Thế giới sẽ tận thế, sẽ vô nghĩa khi không có những xôn xao của "ngực ngải môi trầm", đẹp biết bao với những vệ nữ kiều diễm Bo Derek, Dolly Parton, Rachel Welch hay Brigitte Bardot. Còn ngược lại chỉ có nam, tức chỉ có những hệ quả yếm thế, những u buồn của những Al Qaeda, những Hamas, những Taliban mà thôi. Buồn lắm, chán lắm.
Thế Cung Trầm Tưởng luận bàn về chữ nghĩa lao xao, chữ nghĩa lao xao của ông ra sao? Ít hay nhiều? Tôi xem những chữ nghĩa lao xao mà ông dùng lãng đãng nhiều, nhiều lắm trên các trang sách, “Cung Trầm Tưởng Một Hành Trình Thơ (1948-2008)”, các trang 75 có bài Kiếp Sau, rồi trang 76 bài Kiếp Sau Nữa, như một extension của bài trước thi sĩ hứa đền bù cho em nhiều kiếp quá, tôi ước gì bà đầm Michèle của "Lên xe tiễn em đi có ga Lyon đèn vàng" hiểu chữ Việt và đọc thơ thạo chữ Việt nhỉ ?
Trang 82 là bài thơ Râu Xanh điển hình với chữ nghĩa lao xao lênh láng hãy xem suốt 17 câu, ví dụ ý tưởng tác giả khôi hài khi tự nhận mình như “anh yêu râu xanh”:
"Đến anh thì đến hôm nay
Lỡ mai gió lật chở đầy mưa qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt, ngắn tà váy yêu
Đến anh lưng thắt chiết yêu
Sểnh tâm phá giới con diều ái ân
Gót ngờ rớt chín phân vân
Để sau một hóa mười lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em
Hồn anh em thắp lên xem
Ác như một chiếc lồng đèn kéo quân
Tình anh sương giá đầy sân
Cần em mái phủ cho thân ấm nhờ
Chuyện mình mói nửa trang thơ
Phải hai cùng viết trang thơ vẹn tình
Chờ em anh để râu xanh.”
(thơ Cung Trầm Tưởng, 1965)
Đọc Râu Xanh có lẽ nhiều ông đang để râu, ví dụ Ngô Thụy Miên, Phan Anh Dũng, Lưu Anh Tuấn, Lê Tuấn, Nam Lộc, Trọng Nghĩa, Đặng Hùng Sơn, Cát Biển, Yên Sơn, Hoàng Thy, Phan Đình Minh,... Quý chư liệt vị để râu màu gì nhỉ? Nên lưu ý mode Râu Xanh nhé... Ông Bill Clinton muốn để Râu Xanh như Cung Trầm Tưởng có lẽ sẽ sớm phai màu, không silver thì cũng platinum mà thôi:
Ông Bill mà để râu xanh
Phai màu chóng bạc râu thành silver.
Là một người yêu thi ca âm nhạc và nhất thơ nhạc giao duyên dưới hình thức nhạc phổ từ thơ, tôi hân hạnh được nhà thơ Cung Trầm Tưởng gửi biếu tập thơ của ông, tác phẩm này có tên “Cung Trầm Tưởng Một Hành Trình Thơ (1948-2008)”. Ông cho phép tôi xem ông như là một người bạn thơ vong niên trong phạm vi thi ca văn học. Cung Trầm Tưởng như Nguyên Sa, hay như Hoàng Anh Tuấn cùng nhiều người khác nữa, xuất dương sang Pháp du học, chuyện từ thế kỷ trước, năm 1948. Thế hệ ít nhiều ảnh hưởng nền văn hóa Pháp thuộc, bởi thời thế thuở trước ấy, đi học đồng nghĩa với việc theo tây học. Khi đến thế hệ tôi lớn lên, khi mà nước Hoa Kỳ mang quân sang Nam Việt Nam tham chiến bảo vệ VNCH, nhưng rồi tình thế bi đát cho nhân dân miền Nam, bằng thủ đoạn phía Bắc đã thắng cuộc, thi sĩ Cung Trầm Tưởng phải đi tù chính trị, sau cuộc chiến tôi may mắn sang Mỹ trước ông, dù là ông đã sang Pháp và Mỹ học khi những năm cuối mùa của sự đô hộ Pháp hay những năm Hoa Kỳ bành trướng thanh thế tại vùng Đông Nam Á, vì nước Mỹ bị ám ảnh cái hội chứng Domino thuở ấy, tôi còn nhớ, và nhớ rõ lắm.
Mấy ngày hôm nay ông và tôi có những hôm ôm đường dây viễn liên khá lâu, vì khi soạn thơ hay viết bài tôi phải thấu triệt ý của bài thơ. Nhiều bài thi sĩ sáng tác mà ông ươm mầm những ẩn ý triết học, những ví von so sánh tỷ đối (simile, comparison metaphor), những điển tích (allusion, anecdote), hay ẩn dụ (metaphor), dù chỉ là ý niệm mà thôi (conceptional metaphor). Vì thế nên tôi cần ông diễn giải, hoặc là bạch hóa những ý tưởng sâu sắc kia. Hôm qua trong 2 giờ đàm đạo qua phôn, riêng bài thơ "Núi và Suối Một Huyền Sử" đã chiếm mất tiêu 45 phút để ông lướt qua 5 trang thơ, từ trang 444 đến 448. Bài trường thi này dài 96 câu, về bố cục theo tôi phân đoạn đầu (mở đề) gồm 4 câu:
"Hãy chu đáo yêu nhau giờ cuối
Hứng môi mê uống cả chiều tà
Rồi mai anh chấp cánh bay xa
Gửi núi giữ gìn em đơn chiếc"
Đoạn intro mở đề là giới thiệu nhà thơ hay câu chuyện của mội vị sĩ quan miền Nam bị tù giam trong trại Hàm Tân có tên là trại Z30D, thuộc tỉnh Bình Thuận. Đây là căn cứ 5 của quân đội Đồng minh cũ, nằm dọc theo Quốc lộ 1, tọa lạc gần khu vực Mây Tào, về hướng bắc núi Mây Tào có suối Nước Trong rất đẹp, và núi Mây Tào có đỉnh cao từ 500 đến 650 thước. Trại Hàm Tân là một trại giam giữ khá đông đảo tù nhân, có khi hơn 6.000 người, chia làm hai khu, khu cũ và khu mới, ngăn cách nhau bởi hàng rào kẽm gai. Khu mới xây lợp tôn, có bệ nằm bằng xi-măng, khu giam tù này được ngăn đôi, trại nam và trại nữ. Vì địa thế sát bên trại tù nam là nhà tù nữ, thơ cho biết nàng con gái Ngọc Tiên mỗi khi chiều vàng rơi xuống nàng là biểu tượng cho một hình ảnh thủy chung Juliette với Roméo của truyện xưa kia tại nước Ý, một đại danh tác của Shakespeare, hay một Penelope truyện kỳ tích thần thoại Hy Lạp chờ đợi Odysseus trở về tái hợp duyên tình yêu thương. Câu 43 đến 47:
"Đáy mắt có chiều sâu tráng lệ
Tháp Chàm ảnh ảo ngậm hoàng hôn
Tóc lăn tăn gió cỏ đuôi chồn
Lời vuốt ve ru hồn ngủ võng"
Chính tựa đề "một huyền sử" nói lên mối tình khi hai tâm hồn thương nhau nơi trại giam, trước cái khắt khe của trại giam, tình yêu platonic, sự trong sáng, thánh thiện, yêu nhau bằng ánh mắt, bằng lời tình nồng chia sẻ qua hàng rào kẽm gai ngăn đôi hai tâm hồn:
"Núi giãi tâm tư, bày ước vọng
Chở chiều vàng lộng nắng rừng buông
Ôm nguyên thanh thoát một vùng hồng
Thụ phấn lòng em tình lẫm liệt"
Núi rừng chứng giám cho tâm tư và ước vọng yêu thương, mối tình cách ly, rồi tình xa nhau, kẻ ở lại bị giam tiếp, người nam được ra đi, người nữ nguyện lòng yêu thương mãi khi tiễn nhau như loài cây buông trong rừng Mây Tào, cứ mỗi chu kỳ 60 năm buông chết di và tái sinh. Tình của Ngọc Tiên trao, người có ánh mắt đẹp, sâu lánh, nhuốm nét u buồn, mái tóc cỏ đuôi chồn, nàng như sự thủy chung của Juliette hay Penelope.:
"Hãy nhớ và yêu nhau tha thiết
Giũ tim cho hết cái tầm thường
Lời thề cháy chỉ trong vành hương
Cũng đã thơm mùi vĩnh viễn"
Đôi tình nhân xa nhau nhưng họ dâng lời thề nguyền yêu thương, do đó tôi trích 4 câu trên của thân bài làm nên cho bài thơ rút ngắn cho đề nghị cho lyrics, vì ý nghĩa đầy đủ cho tựa bài.
Ở phần kết bài, thi sĩ thấy mối tình quá đẹp giữa hai người khi Ngọc Tiên không có chồng (chồng quá vãng), chàng sĩ quan không có vợ tình yêu của họ là tình cảnh tù đày, trại tù giam hãm, tình yêu là niềm hy vọng sưởi ấm cho nhau, đem nhau qua những túng quẩn, cay nghiệt của cuộc sống, để yêu thương, để hy vọng. Tác giả nhớ lại phong cảnh suối và núi, cùng chuyện tình thánh thiện, platonic love, ông xây dựng cốt chuyện thật thành nội dung của một câu truyện thơ huyền sử mà bài thơ là đứa con tinh thần, được nuôi dưỡng vào thiên thu. Câu 87 đến 90:
"Núi đặt tên con Thần Thọai
Rửa tội cho con bằng nửa đời cha
Pha lưu ly ánh mắt mẹ chan hòa
Nuôi lớn con ngang tầm huyền sử"
Tình yêu phân ly khi người nam được ra từ cõi tù, người nữ tình nhân bị tội nặng nên bị giam giữ tiếp, mối tình phải chan hòa nước mắt khi tiễn đưa nhau, khi em ở anh về, núi non, rừng suối chứng giám cảnh biệt ly chia bôi.
(*): Insertion for coda: xem bên dưới.
Đoạn kết tôi 6 câu cuối thơ Cung Trầm Tưởng để kềt bài tôi soạn cộng thêm hai nhà thơ xứ ngoài:
"Xin tặng em son vàng vinh dự
Ngọc huyền tinh khiết, tình đau thương
Cành hoa thiên lý, hương nghìn dặm
Về ủ tom vơi nỗi đoạn trường
Một ngày xa em dài như thê kỷ
Núi dứng lặng thầm, đăm chiêu, kỳ vĩ."
(*): Insertion for coda: Phần extension tôi mượn ý thơ của hai nhà thơ Edmond Haracourt với bài "Rondel de L'Adieu" tức "Ca Khúc Biệt Ly" và ý thơ của thi sĩ Emily Dickenson, bài "The Mystery of Pain" tức "Bí Mật Khổ Đau", bởi vì khi chia tay nhau, người nam ra xứ ngoài, số phần người nữ không rõ còn hay mất. Trong cái khổ đau của vòng tù tội, cái khổ đau nhớ nhung khi mà biệt ly là chết trong lòng một tí như thơ Haracourt, người ra đi để lại mối tình yêu thương thân thiết, theo thơ Dickenson thì khổ đau bao quanh ta hãy chôn vùi vào quên lãng, và không lời thầm trách. Những ý tưởng trên khổ đau khi chia ly, nỗi buồn vô hạn là đoạn insertion vào bài như phần điệp khúc.
Phần nhạc do nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc. Diễn tả phần này ca sĩ Bình Trương, một cựu chiến binh sĩ quan Cọp Biển sẽ ca và diễn hoạt cảnh cùng ca sĩ Thúy Quỳnh.
Ca sĩ Bình Trương và Thúy Quỳnh.
Với nhạc sĩ Cao Minh Hưng, một nhân tài trẻ anh thuộc lớp bạn ra đời 1969, nhưng đầy triển vọng cho cộng đồng, với sự suy tư củua tôi tôi, nếu Bùi Thế Phát(Phát Bùi), một thành viên trong đại gia đình Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, sáng tác nhạc, sở trường là kéo violon, kéo nhuyễn lắm, về ý thích ngoài cộng đồng Phát Bùi thích tham chính, ra tham gia ngoài dòng chính, mainstream. Cao Minh Hưng cũng sáng tác nhạc, ghiền môn piano, gõ phím khá mùi, Hưng thiên về phạm trù văn hóa, đây là hai trong số nhiều người trẻ của cộng đồng tích cực xây đắp và đóng góp, vun xới và phát huy cái chân thiện mỹ của đời sống vươn lên.
Hoạt cảnh kịch vui CLBTNS
Trở lại, Cao Minh Hưng được nhìn bởi giới đàn anh chú đi trước, ví dụ như nhạc sĩ Anh Bằng cho ý kiến của ông về Hưng như sau:
"Tôi nghĩ, trái tim Cao Minh Hưng có 3 ngăn. Ngăn thứ nhất cho người vợ hiền, rất hiền và con cái. Ngăn thứ hai dành cho lương tâm của một bác sĩ chuyên môn, là nha sĩ. Và ngăn thứ ba dành cho văn học nghệ thuật, cho thơ và nhạc. Tôi biết 3 ngăn này đủ làm cho Cao Minh Hưng rất bận rộn.
Nói cho cùng thì tinh thần nghệ sĩ tính của Cao Minh Hưng dành cho sự đam mê văn học nghệ thuật một chỗ đứng trang trọng trong trái tim của anh. Chính tâm hồn đam mê âm nhạc đã tạo nên một Cao Minh Hưng nhạc sĩ với những giòng nhạc tình mang thật nhiều nét dấu yêu và say đắm. Ngày hôm nay, nhạc sĩ Cao Minh Hưng còn trẻ, nhạc khúc của Cao Minh Hưng còn mới chưa được khán thính giả biết đến nhiều, nhưng tôi nhận thấy Cao Minh Hưng sẽ là một đóng góp rất quan trọng cho văn học và nghệ thuật hải ngoại cũng như quê hương Việt Nam sau này."
Cách đây vài năm một vị khác như Giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Quang Hải bên Paris nhận định về Cao Minh Hưng như sau:
"Nếu Cao Minh Hưng là một nhạc sĩ sáng tác chuyên nghiệp thì tôi không lấy làm lạ khi nghe. Nhưng Cao Minh Hưng là một nha sĩ nhà nghề từ nhiều năm. Rồi bỗng dưng anh bị âm nhạc ru hồn biến anh thành một người viết nhạc và luôn lời để đưa 12 ca khúc tuyển chọn vào một CD...
Tôi rất vui mừng thấy trong làng nhạc hải ngoại có thêm một bông hoa mới đầy hứa hẹn. Bông hoa đó là nhạc sĩ – nha sĩ Cao Minh Hưng sẽ làm thơm ngát vườn hoa âm nhạc Việt Nam trong tương lai."
Trong dịp Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ cùng nhiều thân hữu bắt tay nhau cùng vinh danh một nhà thơ, một vị sĩ quan của QLVNCH bị tù đày bởi CSVN sau 1975, ông là một nghệ sĩ hay một thi sĩ mang linh hồn và máu đỏ nghệ sĩ tính trời ban, show hát "Chiều Thơ Nhạc Cung Trầm Tưởng". Hưởng ứng chương trình gồm một số nhạc sĩ đã gửi nhạc được phổ từ thơ Cung Trầm Tưởng như các nhạc sĩ: Trường Sa, Nguyên Phan, Võ Vĩnh Thuận, Nguyễn Tuấn (Pennsylvania), Võ Tá Hân, Phan Ni Tấn, Ngọc Loan, Hạnh Cư, và Cao Minh Hưng. Hai nhạc sĩ Ngọc Loan và Hạnh Cư với niềm cảm tác dâng cao, mỗi vị gửi 2 bài, nên tổng cộng là 11 bài được thu xếp vào chương trình.
Trong bài nhạc Tiếng Gọi Yêu Thương của nhạc sĩ Hạnh Cư, do ca sĩ Huỳnh Anh trình bày, lời nhạc dựa vào bài thơ Tiếng Gọi của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, ông sáng tác bài thơ này khi được tin Bùi Giáng qua đời. Cung Trầm Tưởng vốn mến mộ các nhà thơ Bùi Giáng, Rabindranath Tagore, và Khalil Gibran. Nhiều tác phẩm của họ nhuốm tính chất triết lý hay nhân bản, hoặc cho ý tưởng về tình thương, cuộc sống,... Bài thơ nền Cung Trầm Tưởng:
Ta đi trong chữ tình ta
Thắp nhang trầm niệm đọc ra linh hồn
Còn nồng ấm nụ đời hôn
Thuở tròn trĩnh mẹ đỏ hòn máu thơ
Dẫu âm môi ấy ẵm ờ
Mà nghe tiếng gọi nứt bờ thời gian
Con yêu tiếng mẹ vô vàn
Một lời mẹ rót ra ngàn cổ thư
Nhớ này giòn giã tâm tư
Chữ thi nhân đốt hư vô lửa bùng
Si ca ra cũng một dòng
Vần thơ điên ném làm cùng không gian.
Cung Trầm Tưởng
Saint Paul 1998
(Đêm nghe tin Bùi Giáng qua đời).
Trong bài thơ Tiếng Gọi Yêu Thương, ngoài bài thơ chính là Tiếng Gọi, còn được lồng vào những câu thơ nguyên thủy của ba nhà thơ này như Mưa Nguồn của Bùi Giáng do cảm đề tác phẩm La Porte Étroite của nhà văn André Gide:
Bình minh thơ dại hai môi
Lời chưa nói cũng là lời đã trao.
(Mưa Nguồn, Bùi Giáng).
Ta về ngóng lại mưa sa,
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào,
(André Gide;Thơ cảm đề La Porte Étroite,
Bùi Giáng).
Bài thứ hai, mượn ý thơ Rabindranath Tagore, bài Em Là Một Áng Mây Vàng (You Are the Evening Cloud).
Gót em thấp thoáng đỏ lên,
Trong lung linh lửa tình em mặn nồng.
Em đi giữa tiếng tơ lòng,
Lượm lời anh hát nhuộm hồng chiều hôm
Môi em ngọt đắng rượu buồn,
Bởi men đau khổ không lường của anh.
Của anh, em của riêng anh,
Em trong những giấc mơ lành cô đơn.
Tương tự, bài thứ 3, mượn ý thơ Khalil Gibran qua bài Giọt Lệ và Nụ Cười (A Tear and A Smile).
"Lệ lòng thanh tịnh tim tôi
Thương tâm huyền diệu ẩn sâu đáy lòng
Cười vang hoa nở nhân tình
Từ tâm màu nhiệm bình sinh cuộc đời"
Hôm cô em Jennifer Đinh Hạnh trao tôi quyển “Cung Trầm Tưởng Một Hành Trình Thơ (1948-2008)”, như duyên van nghệ tôi lật quyển sách dậy cộm 640 trang, cái lật đầu tiên dừng ngay trang 91 có bài thơ ngắn ngủn, vỏn vẹn chỉ 4 dòng mà tác giả làm tại Đà Lạt vào năm 1959, voilà khi ấy tôi mới tập tểnh vào lớp 5 (tức lớp 1 sau này), còn cô bé Jennifer Hạnh chắc chưa tròn thôi nôi đầy năm, còn nằm trong nôi, lên xe phút lít bảo ngồi carseat, ba cô ca sĩ trong ban tam ca ba con lăng quăng Thanh Vân, Thùy Châu và Mỹ Dung giã từ tu sữa Babilac hay sữa Guigoz chưa nữa, và ca sĩ Thúy Quỳnh ca lancer bài hát phổ thơ Thinh Quang Đêm Trăng Trên Dòng Sông Xuân rất tới, nhưng rồi con số kỳ diệu 1959 khi mà thi sĩ tác giả viễn du xứ anh đào có ngàn hoa tươi thắm, nào những đóa hoa: glaieul, oeillet, marguerite, gerbera, coquelicot,lys, arum, hortensia, mimosa,... để ông ngẩu hứng ươm thơ Một Gam Ru Hời, thời gian quay về thế kỷ trước xa xôi, khi mà cô nhiếp ảnh gia kiêm phó nhòm bé Nguyệt Lê hay ca sĩ bé Thúy Quỳnh đã ở tinh cầu nào.
“Sương rơi thầm âm nhạc
Chiều buồn lạc thanh âm
Hoang sơ vào khuya tối
Linh hồn tôi dương cầm”
(Đà Lạt 1959)
Vì sự ngắn ngủn và ý tưởng của bài thơ, cũng như hồn thơ chợt đến, tôi làm một extension nối dài thêm, và nhờ nhạc sĩ Cao Minh Hưng phổ nhạc. Khi Hưng gửi đến nhà thơ CD nghe thử, ông nghe nhiều làn và tâm đắc, thích thú, tôi cho ông biết trong Đêm Thơ Nhạc Cung Trầm Tưởng bạn bè, thân hữu và ông sẽ nghe hết các nhạc sĩ trên đã trân quý ông, từ quý anh chị Trường Sa, Nguyên Phan, Võ Vĩnh Thuận, Nguyễn Tuấn, Võ Tá Hân, Phan Ni Tấn, Ngọc Loan, Hạnh Cư và Cao Minh Hưng đã gửi tặng ông những tác phẩm từ tim óc, hư nhữnmg món quà tinh thần nhân sinh nhật 83 tuổi, một chiến sĩ Không quân của QLVNCH với 13 năm tù, 10 năm tù giam ở các trại từ Bắc vào Nam và 3 năm "quản chế" tại gia.
Nhân tiện đây chúng tôi xin cám ơn quý anh chị nhạc sĩ, quý anh chị ca sĩ, ngâm sĩ, quý anh chị thân hữu bạn bè và các thành viên của Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ đã chung tay nhau thực hiện đêm ca nhạc ngâm thơ để cùng vinh danh một nhà thơ, một vị sĩ quan của QLVNCH bị tù đày bởi ác chế CSVN sau năm 1975, ông là một nghệ sĩ hay một thi sĩ mang linh hồn và máu đỏ nghệ sĩ tính trời ban: Cung Trầm Tưởng.
Việt Hải Los Angeles
Nguyễn Ngọc Quang sưu tầm và tổng hợp tưởng nhớ đến người Thầy Nguyễn Xuân Hoàng thương yêu