Tháng Tư đen (30-4-1975)

 

Từ Tháng Tư 75, Khúc Quanh Đổi Đời

Tác giả: Nguyễn Thị Yến



   Tác giả là một nhà giáo, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế  năm 1972, đã dạy học ở Đà Nẵng- Huế 18 năm. Đến Mỹ năm 1990, đi học và trở lại nghề dạy học. Từng là hội trưởng, điều hành Trung Tâm  Việt Ngữ Lạc Hồng, Sacramento, từ 1995-1997. Hiện dạy tại 2 trường California State University, Sacramento - Cosumnes River College, và Sacramento,  California.

Bài sau đây là những ký ức của tác giả, từ những ngày tháng Tư 1975.

    Ngày 17 tháng 3 năm 1975, khi nhiều người đang xôn xao, lục đục rời bỏ Huế, tôi đến trường Quốc Học gặp anh hiệu trưởng Phan Khắc Tuân xin nghỉ phép, để lo việc di tản gia đình vào Đà Nẵng. Không ngờ chính lúc này, cùng với lịch sử dân tộc, đời tôi bắt đầu rẽ vào một khúc quanh!

    Đêm 5 tháng 4 năm 1975, tôi bắt đầu ghi ...
    Con đường Bạch Đằng trống hoác. Con đường dài thênh thang của những buổi sáng lồng lộng, những buổi chiều nắng vàng phủ ngập và đầy sức sống, bây giờ vắng tanh đến rợn người. Anh ở đâu"  Ai đem gia đình về lại Huế"

    Không một bóng người. Tôi đứng đó. Gió sông Hàn phần phật. Tiếng vỗ của những con sóng chồng lên nhau, chen lấn, di động như không hề dứt. Dấu tích của con tàu với hàng ngàn người bươn bả tìm sống trong cái chết mới hôm kia, giờ chìm sâu. Cái dấu lặng mơ hồ trên bề mặt của nước đang rần rật cuồn cuộn xoáy trong tôi. Nước màu đen, trời màu đen. Chỉ có ngọn đèn trên kia đang tỏa chút ánh sáng, dửng dưng, thách thức. Chờ ai" Thằng bé cựa quậy trên tay, miệng mấp máy như muốn hỏi. Mình chờ ba con ạ! Tôi trả lời con bằng cái nhìn da diết rót thẳng vào đôi mắt đen láy của thằng bé mười tháng tuổi. Rồi cái nhìn ấy xa xăm, mất hút tận cuối con đường dài. Từ đầu đến cuối đường không một bóng người. Tôi quấn chặt con trong vòng tay. Ngồi đó đợi. Cho đến khi bóng tối phủ khắp, hơi sương ập xuống thấm lạnh đến không chịu nỗi.
 
    Mười hai ngày vô vọng. Tôi quyết định đem các con trở lại Huế!

 
 
30-4-1975 - Tháng Tư đen | manhhai | Flickr

    Chiếc tàu thủy lắc lư rời bến Bạch Đằng khi mặt trời đã đứng bóng. Ba đứa con và tôi say mèm, nhiều người nôn tháo thốc vì không chịu nổi sức xô đẩy liên tục của con tàu với những đợt sóng khủng khiếp. Giữa trùng khơi, con tàu cứ bồng bềnh. Khi trong bụng mỗi người không còn chi nữa, môi khô, ngủ. Thế rồi cũng đến. Nơi con tàu đổ là một bãi đá đen. Từng đợt người chen lấn ồ ạt lên bờ, tranh nhau vượt qua bãi đá.

    Thằng Trung nằm trong tay tôi không khóc, nó áp khuôn mặt xanh xao vào ngực mẹ, đưa mắt nhìn đám người nhốn nháo, lắng nghe những âm thanh hãi hùng vây quanh. Thằng Bằng bốn tuổi, một tay dắt con An, một tay giữ vali. Đôi mắt nó đăm đắm nhìn vào đám người hỗn loạn. Tiếng xe nổ, đến rồi đi, tiếng người cãi cọ, trả giá, dành nhau. Thế rồi, mỗi người cũng tìm ra được một chuyến xe.

Tháng Tư đen' và thủy triều đỏ - BBC News Tiếng Việt

   Tôi còn nhớ như in ngày trở lại Huế, 17 tháng 4 năm 1975, sau một tháng di tản vào Đà Nẵng. Tôi đã trào nước mắt khi đến Huế. Buổi sáng hôm ấy trời trong và có nắng, con đường vào thành nội hai hàng cây xanh ngát, đường Đinh Bộ Lĩnh nhỏ nhắn, thẳng tắp. Huế mát mẻ trong lành. Mọi vật đều thân quen, nhưng lòng tôi chua xót ngỡ ngàng. Huế ơi!

    Sáng hôm sau, tôi trở lại trường Quốc học trình diện. Một Quốc Học đã đổi sắc, từ ấy! Những thảm cỏ xanh, những bồn lá đỏ giữa sân trường bắt đầu và dần dần nhường chỗ cho những đám rau lang, những vồng sắn. Nề nếp hoàn toàn thay đổi. Hôm nay chia thịt. Phòng giáo vụ biến thành quày hàng thịt. Cần một vài nhân viên tình nguyện cắt, chia và bỏ thăm cho thầy cô. Tôi lẩn vào giữa hàng, đứng phía sau, tránh nhìn thấy khi các giáo sư đưa tay ra nhận gói thịt. Thế rồi quen dần, những lần chia nước mắm, những lúc chia đường. Ôi thầy cô, ban đầu có người tặng bạn phần tiêu chuẩn để khỏi cầm về, theo thời gian, đã quen với chế độ tem phiếu. Đầu quý, thầy cô đua nhau đạp xe đi từ khi trời chưa sáng, để sắp hàng. Khi mặt trời lên, khung cửa sổ vừa mở, và khi mùi thịt sống bốc lên là khi đám người bắt đầu xô đẩy nhau. Những đôi mắt đau đáu nhìn vào mấy khối thịt. Chen lấn, dành giựt, rủa nhau và hạnh phúc cũng ở đấy, đơn giản. Mỡ. Chị cho em ba lạng mỡ. Chị cho em miếng ba-rọi. Anh Nam cố chèn thân mình lọt ra khỏi đám đông, nhìn tôi cười, đưa cao miếng thịt nói dõng dạc: một ngày hạnh phúc! Tôi và những cô giáo được phân công đi lao động ngày chủ nhật, làm vệ sinh chợ Đông Ba, đi làm sạch đường phố. Hôm nào đỏ mặt vì chở bó hoa - cái chủi rành được gói trong giấy, theo tháng ngày, đã trở nên thành thạo khi cột cái xẻng, cái cuốc vào xe đạp lên đường từ sáng sớm đi lao động công ích.

    Cuộc sống thay đổi quá nhanh ngoài sức tưởng tượng của mỗi người. Chiếc xe dạp mini, đầu năm 1975, tôi mua vì vẻ đẹp thanh lịch của nó, vì thích có những buổi chiều lang thang một mình đạp xe trên những đoạn đường Hàng Đoát, Lê Lợi, bây giờ, chiếc mini là phương tiện vận chuyển duy nhất của gia đình. Hàng ngày tôi đưa con đi mẫu giáo. Sáng đến trường, chiều về, tôi đi chợ Đông Ba mua bán. Tất cả việc trường, việc nhà cũng chỉ nhờ vào hai bánh xe nhỏ dẻo dai, bền bỉ ấy.

    Từ Quốc Học, năm 1976, tôi được chuyển qua dạy trường Nguyễn Tri Phương một năm, rồi xuyên qua nội thành đến tận cùng cửa Chánh Tây, tôi về dạy tại trường Tây Lộc B bốn năm. Nhà tôi ở trước hồ Tịnh Tâm, mỗi ngày, từ sáng sớm tôi đạp về hướng đông đưa con đi học, rồi quay lại trực chỉ hướng tây đạp mau đến trường. Có những buổi chiều đi học tập nghị quyết, đến giờ con bãi, xin phép đi đón con. Cắm đầu đạp từ tây sang đông, đưa con ghé nhà, tôi lại lên trường học tập tiếp. Những lúc làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, buổi tối đi họp công đoàn, rồi còn làm thêm giờ nghỉ, cô chủ nhiệm đi thăm góc học tập của các em vào những ngày cuối tuần...

    Cũng nhờ chiếc xe đạp mini ấy, theo kế hoạch rau xanh ngắn ngày, từ thành nội tôi đạp lên Chín Hầm đưa học sinh đi vỡ đất trồng sắn, cùng tập thể giáo viên đạp ra Phong Sơn trồng khoai. Khi về trường Thống Nhất, mười năm, cho đến năm 1990, cũng chiếc xe mini ấy, ngày hai buổi sáng trường chiều chợ nuôi con...

    Tháng 2 năm 1990, tôi cất viên phấn, trả lại bục giảng, và giã từ các học sinh thân yêu, rời bỏ khúc quanh, làm cuộc đổi đời.

    Ôi quê hương, ai ra đi mà không mang nặng nỗi niềm! Tôi còn nhớ như in ngày bước chân ra phi trường Tân Sơn Nhất, 11 tháng 5, 1990. Buổi sáng nhạt nắng, sân bay thênh thang, gió lùa tóc mơn man như lụa gấm mượt mà. Từ trên cao những bàn tay vẫy, những dòng nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt người thân. Bước lên nấc thang cuối cùng, thả va li, tôi quay lại, một lần nữa, vẫy hai tay.  Vâng, tôi sẽ về!

************************

    Ngày 18 tháng 5 năm 1990, gia đình tôi đến Mỹ. Redding, một thành phố không thấy người Việt, nằm ở phía bắc tiểu bang California, đã đón nhận chúng tôi vào một buổi chiều khá lạnh. Bên cạnh sự choáng ngợp trước xã hội văn minh, giàu có của xứ người, là nỗi nhớ quê hương và sự lo lắng cho tương lai, chúng tôi bắt tay xây dựng lại cuộc đời ngay trên thành phố hiền hòa, yên tĩnh này. May mắn thay, những tấm lòng từ thiện của người bản xứ đã nhanh chóng sưởi ấm, khuyến khích và giúp đỡ chúng tôi hòa nhập vào cuộc sống mới một cách tự nhiên. Cả gia đình tôi đi học. Các con tôi vào trường High School. Còn vợ chồng tôi đem theo đứa con gái út, bé Cali vừa tròn năm tháng tuổi, đến học tại Adult Education Center, một trung tâm giáo dục dành cho người lớn, cho đến một năm sau, mới đủ tiêu chuẩn vào học trường đại học cộng đồng.
    Năm 1993, gia đình tôi chuyển về thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California, tiếp tục những ngày đầy ắp lo toan và gánh nặng công việc. Chuyện học hành, sách vở, chăm sóc gia đình, đi làm kiếm sống đã trĩu oằn cả hai vai, mà lạ quá, khi ghé thăm trường Việt Ngữ Lạc Hồng, một trung tâm thiện nguyện dạy tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam, tôi cứ bâng khuâng một nỗi, nỗi nhớ mênh mông. Lắm khi là nỗi dày vò.

    Tôi chưa làm được gì cho em cả, em đang ở xa vời vợi, Hường ơi! Làm sao cô không ray rứt khi thư em viết: "... Em phải đi bộ 4 cây số đường núi đến bưu điện để nhận thư cô. Đường về, em chạy cô ơi, em la to, bác ơi con nhận được thư Mỹ, cô giáo con gởi cho con. Em la to lắm cô ơi. Em la to, anh ơi, anh đâu rồi, em nhận được thư Mỹ, ... cô giáo em ..." Rồi thôi, từ dạo ấy, hình ảnh em và con đường đất đỏ xa xôi nào đó bên quê nhà mất hút theo bóng thời gian. Chỉ còn ... tiếng la to của em lâu lâu lại vọng về, nhói trong lòng tôi! Hường ơi, có phải con đường đất đỏ heo hút từ núi rừng Trường Sơn, và tiếng la to lắm của em, đã giữ cô lại với trường Việt Ngữ Lạc Hồng"
    Năm 1995, tôi trở thành hội trưởng Hội Phụ Huynh & Giáo Chức, đảm trách điều hành trường Việt Ngữ Lạc Hồng, nhiệm kỳ 1995-1997. Cũng từ công việc này, tôi trở thành một người hoạt động xã hội, gắn bó không thể nào dứt với các hoạt động văn hóa và tuổi trẻ của cộng đồng Sacramento...

    Lần theo ngõ vào đại học như một học sinh vừa tốt nghiệp trung học ở Mỹ, sau gần mười năm dùi mài "kinh sử", tôi đã may mắn hoàn tất việc học. Đây là một khúc quanh mới, đẹp đẽ, nhưng đầy cam go, mà tôi đã hy sinh đánh đổi rất nhiều. Vừa đến lớp, vừa đi làm, tôi còn phải làm tròn bổn phận gia đình. Đi học, tôi như người vượt biên, khi con thuyền đã ra khơi chỉ còn một ước mơ duy nhất là đến được bến bờ mơ ước. Có gì đằng trước cứ réo gọi, đằng sau là sức đẩy, và cứ thế, con thuyền tôi đi tới.


    Cũng như nhiều người Việt tị nạn ở đây, những tháng năm đầu, vừa đi học, tôi vừa kiếm sống bằng những công việc bán thời gian. Năm 1993, khi gia đình đã chuyển về sống tại Sacramento, tôi được nhận vào làm phụ giáo tại một trường trung học thuộc học khu San Juan, và liền sau đó, được nhận vào làm một nhân viên song ngữ toàn thời gian (full time bilingual associate) cho hoc khu Elk Grove.

    Sau ba năm gián đoạn kể từ ngày rời Việt Nam, trở lại làm việc với môi trường giáo dục ở xứ người, tôi đã vui mừng không ít. Có một kỷ niệm thật xúc động, cho đến bây giờ khi viết những dòng này, tôi vẫn rưng rưng. Đó là buổi sáng đầu tiên khi tôi đến nhận công việc tại trường Highlands High School, thuộc học khu San Juan. Khi tôi vừa vào trường, từ bãi đậu xe đi bộ về hướng văn phòng, một nhóm học sinh nam và nữ đang ngồi ở hàng hiên, đứng dậy chào tôi bằng tiếng Việt "Thưa cô, thưa cô". Tôi dừng lại, bàng hoàng tưởng như mình đang ở Huế, trong sân trường Thống Nhất.

Mà không, mấy cậu tóc vàng, tóc quăn, Mỹ, Mễ, trắng, đen đang chạy chơi đuổi nhau la ó rần rật đằng kia. Đây không phải là quê nhà! Tôi ứa nước mắt chào các em và hỏi "Tại sao các em biết cô"" Một em, sau này tôi mới biết em là người Việt gốc Chàm, trả lời vừa bằng tiếng Anh vừa tiếng Việt, "Em nghe bà counselor nói, sáng nay, sẽ có một cô người Việt đến làm ở trường này. Bọn em chờ cô ở đây để 'say hello' và bọn em biết ngay cô là người Việt." Tôi mỉm cười, lòng vui khi bắt gặp trong ánh mắt các em niềm thương mến rất Việt Nam. Ấn tượng thân thương này, vừa làm tôi càng nhớ các học sinh ngày xưa của tôi ở Huế, vừa là chất keo gắn chặt tình thầy trò chúng tôi, thúc đẩy tôi chịu khó từng ngày, làm tốt từng công việc của mình, trong suốt gần bốn năm tôi làm việc tại học khu.

    Cuối năm 1999, khi vừa tốt nghiệp, tôi bắt đầu làm một cán bộ xã hội (social worker) cho cơ quan Chăm Sóc Trẻ Con Nuôi (Foster Care), và từ giữa năm 2000, tôi trở thành giảng viên trường Cosumnes River College cho đến nay. Hôm ấy, sau buổi phỏng vấn và biết mình được nhận vào dạy tại trường này, tôi nghe lòng mới mẻ, hân hoan. Và lạ chưa, từ trên bực cấp của sân trường bước xuống, giữa mùa hè trời nắng chang chang, hướng về bãi đậu xe, tôi chợt thấy lại qua ký ức và nghe rõ ràng như thật, một mảnh trời thân thương mà dịu dàng của Huế, trong đó có tiếng cười trong trẻo của bạn bè tôi giữa sân trường đại học, và tiếng nhạc vui, cả tiếng chuông nhà thờ đổ... mà cho đến nay, tôi không thể nào giải thích được.

    Từ năm 2002 đến năm 2004, trong lúc đang dạy tại trường Cosumnes River College, tôi cũng tham gia dạy bán thời gian tại trưòng Sacramento State University.
    Bảy năm qua, còn được tiếp tục đứng trên bục giảng xứ người là một phần thưởng lớn đối với tôi. Ngoài ra, tôi là người may mắn có được cơ hội giúp đỡ, gần gủi với tuổi trẻ Việt Nam rất dễ thương ngay dưới mái trường này. Phải nói rằng, chúng ta thật sự hãnh diện với những thành công của tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại. Các em có khả năng sánh vai với tuổi trẻ trên khắp năm châu, đã và đang góp phần vào sự phát triển văn minh và giàu có của thế giới.

    Tại Cosumnes River College, hằng năm, chúng tôi tổ chức các hoạt động tham gia cùng với nhà trường trong các dịp lễ, nhất là các Tuần Lễ Văn Hóa Á Châu. Chúng tôi luôn luôn sẵn sàng nắm lấy cơ hội để nói với mọi người "Chúng tôi là người Việt Nam!" Ngoài những đóng góp nhỏ nhặt nhằm giới thiệu những nét đặc thù của người Việt qua những trò chơi trẻ em như đánh thẻ, chơi căn cù, bịt mắt bắt dê, nhảy lò cò..., qua các món ăn như chè trôi nước, chả giò, nem nướng, bánh nậm, xôi vò..., hay các vở kịch "Lưu Bình Dương Lễ", "Ba Anh Em Nhà Họ Nguyễn" ... chúng tôi đã không ngại khó khăn thực hiện các công trình (project) lớn như "Cuộc Hành Trình Từ Việt Nam Đến Mỹ", "Hội Chợ Tết", "Tết Trung Thu" ..., hay kết hợp với các tổ chức cộng đồng thực hiện ngày "Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương"... ngay trong sân trường Cosumnes River College. Những công trình này, tôi biết, đã gây ấn tượng khá rõ nét trong suy nghĩ của người bản xứ và các sắc dân khác về đất nước và con người Việt Nam.

************************

    Mới đó mà đã mười bảy năm làm cuộc đổi đời. Mới đó mà tóc tôi đã pha màu sương trắng. Một đời nhà giáo với những khúc quanh. Một đời phấn trắng bảng đen, một đời bục giảng và những ánh mắt tuổi trẻ thân thương. Càng yêu nghề, càng gắn bó với tuổi trẻ, tôi càng biết ơn các thầy cô, và thương nhớ không nguôi mái trường xưa. Làm sao tôi quên được đã một thời là nữ sinh Đồng Khánh.   Làm sao tôi không xúc động khi nhìn lại quá khứ đã tốt nghiệp từ mái trường Đại Học Sư Phạm Huế thân yêu!

    01/05/2008

   Hình ảnh minh hoạ

Đặc San Lâm Viên: Ký Ức Tháng Tư Đen
 
Chỉnh sửa lần cuối vào %AM, %25 %644 %2024 %10:%04
back to top