NHỮNG MẢNH ĐỜI XE KÉO

NHỮNG MẢNH ĐỜI XE KÉO

Một lần vào kho đạo cụ của Hãng phim truyện VN, tôi kéo thử chiếc xe kéo tay (thường gọi là xe tay) được phục chế nguyên bản để làm phim. Chỉ một đoạn tôi đã toát mồ hôi vì nó quá nặng, và chợt ngẫm đến thân phận những người phu xe.


Người phu bên chiếc xe tay. ẢNH: T.L

Uống nước sái thuốc phiện để có sức kéo

Phương tiện giao thông của thị dân Hà Nội cuối thế kỷ 19 là xe ngựa, cáng (như cáng cứu thương ngày nay do 2 người khiêng, khách đi xa có thêm 2 người nữa để thay phiên nhau khiêng), xe bò đẩy (xe bằng gỗ có 1 bánh, hai càng do một người kéo một người đẩy). Quan phủ oai hơn, đi công cán họ ngồi võng hay kiệu, có lính khiêng.

Khi Pháp chiếm Hà Nội, năm 1883, xe ngựa không thể chở người Pháp đi lại trong phố vì đường chật chội do hàng quán lấn chiếm. Họ cũng không thể ngồi cáng vì sức hai người Việt chỉ khiêng ông Tây một đoạn là phải nghỉ. Lại càng không thể ngồi xe đẩy vì chỗ ngồi không đủ rộng cho mông ông Tây bè bè.

Người Pháp loay hoay tìm kiếm một phương tiện khác giúp họ dễ dàng di chuyển nhưng chưa được. Năm 1884, Công sứ Hà Nội là Bonnal sang Nhật và ông này đã mang về 2 chiếc xe tay. Xe Bonnal mang về là xe hòm, bánh bằng sắt. Nhiều công chức Pháp cũng muốn có xe riêng đi làm, vợ con họ cũng muốn có một cái đi chợ. Nắm được nhu cầu ấy, viên quan thuế nghỉ hưu Leneven đã nhập xe từ Nhật và Hồng Kông về cho thuê. Từ đó sinh ra phu xe, phần lớn ở quê ra.
 
Xe keo tay,  nguoi phu xe anh 1
 
Phu xe người Việt kéo một người lính Pháp, khoảng những năm đầu thế kỷ 20. Ảnh tư liệu

Leneven cho phu ăn mặc như lính triều đình: quần túm ống, quấn xà cạp, đội nón chóp. Vì bánh sắt nên trọng lượng của xe rất nặng, nhất là với phu trung tuổi; có ông Tây to béo khiến phu phải lấy hết sức ghìm càng xe xuống đất. Kéo cuốc xe được mấy xu mà bã người. Và trong cuốn hồi ký Đông Dương ngày ấy 1898 -1908, viên quan thuế Claude Bourrin từng sống ở Hà Nội kể lại chuyện ông ta phát hiện ra phu kéo xe tay trung tuổi phải uống nước có sái thuốc phiện mới đủ sức kéo.

Thấy xe nhập quá đắt, năm 1890, Công ty Verneuil et Gravereand ở phố Rialan (nay là Phan Chu Trinh) đã tự sản xuất xe. Họ làm xe bánh sắt và xe bánh bọc cao su. Xe bánh sắt giá rẻ bán cho các tỉnh quanh Hà Nội. Để xe nhẹ bớt, công ty này tiếp tục cải tiến, chỗ ngồi thấp hơn, có dù che nắng mưa, bánh sắt được thay bằng cao su đặc nên đi êm hơn, nhẹ hơn. Tuy nhiên khung xe làm bằng gỗ tốt, càng xe vẫn dài nên xe vẫn nặng, để có sức kéo, phu lớn tuổi vẫn phải uống nước sái thuốc phiện.

 
Ngồi xe tay ban đầu là người Pháp, công chức, nhà giàu và me Tây. Sợ thiên hạ nghĩ mình là me Tây, con gái nhà lành không dám ngồi xe này. Sau này, các cô mới sử dụng mà cũng chỉ đi xe bánh sắt để phân biệt với đám me Tây chuyên đi xe bánh cao su.

Việc mở mang các tuyến đường giao thông được chính quyền thành phố làm khá nhanh, tính đến ngày 1.1.1902, Hà Nội có 52 km đường, trong đó hơn 10 km đã rải đá và đây là yếu tố làm tăng nhanh số xe kéo tay. Theo báo cáo thông qua quyết toán thuế do Đốc lý Baille ký ngày 10.1.1902, số tiền thuế xe tay thành phố thu được năm 1897 là 26.530 đồng, năm 1898 là 32.165 đồng, năm 1899 là 40.450 đồng và năm 1901 là 43.370 đồng. Trước đó, ngày 15.3.1892, Đốc lý Beauchamp ký mức thuế 1 năm cho một chiếc xe tay là 60 đồng. Năm 1897 Hà Nội có 442 xe và đến năm 1901 là 728 chiếc. Thu thuế xe tay còn cao hơn 2 lần rưỡi thuế đánh vào lò mổ và kém tí chút thuế chợ. Cho thuê xe tay phất nhanh nên nhiều chủ người Việt lao vào mở hiệu và sản xuất như: Hữu Tam Đồng ở Hàng Buồm, Nguyễn Huy Hợi ở phố Hàng Chiếu. Khi Bưu điện Hà Nội có bưu chính, bưu tá nhận thư từ trung tâm là có xe tay đưa đi các phố giao.

Phóng sự tôi kéo xe rúng động Hà Thành

Đầu những năm 1930, giao thông công cộng Hà Nội thay đổi đáng kể, đường xe điện kéo dài hơn, số xe hơi và xe đạp tăng lên. Thế nhưng, số xe tay vẫn lên tới gần 3.000 chiếc. Công việc của phu xe nặng nhọc nhưng thu nhập lại không đáng là bao, bị chủ xe ăn hết. Từ phu chuyên nghiệp thuê cả ngày đến kẻ làm thêm chỉ thuê vài tiếng đều phải trả tiền trước. Trả chậm vài phút bị phạt, xe va quệt phải đền rất cao nên nhiều phu chạy quanh năm không trả hết nợ. Cực khổ mà chẳng biết kêu ai.

 
Năm 1931, một phu xe đang chở khách đuối sức đã gục chết giữa đường. Chuyện đó khiến trái tim nhà báo Tam Lang rung động. Ông quyết định thuê xe đóng vai phu để viết lên sự thật. Nhiều lúc ông chạy cả đêm để hiểu kiếp phu xe nhọc nhằn, khốn nạn thế nào. Ông kéo xe đến phố “Vợ Tây” (phố có nhiều phụ nữ Việt lấy lính và sĩ quan Pháp đóng trong thành, nay là Phó Đức Chính) chầu chực chở khách đi chợ. Ông cũng lăn lộn ở xóm Bãi Cát (khu vực An Dương và Phúc Xá hiện nay) nơi có nhiều phu thuê trọ để tìm hiểu. Và ông đã phát hiện họ thường xuyên phải vay nặng lãi trả tiền thuê xe.

Ông cũng tận mắt chứng kiến phu chết mà những kẻ trọ cùng không biết chôn ở đâu vì không có tiền mua đất, đành vùi xuống dải cát ven sông Hồng chờ nước dâng lên cuốn xác đi. Và rồi vợ họ đẻ con không làm được khai sinh, người lớn không giấy tờ. Phóng sự điều tra Tôi kéo xe được đăng tải trên Hà Thành ngọ báo năm 1932 đã thức tỉnh những người có lương tâm trong xã hội lúc bấy giờ. Phu xe kéo tay cũng trở thành đề tài cho nhiều nhà văn và tiêu biểu là truyện ngắn Người ngựa, ngựa người của Nguyễn Công Hoan đăng báo lần đầu tiên cũng trong năm này gây chấn động như phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang.

Dưới bút danh Nguyễn Bách Khoa, Trương Tửu nhận định trên báo Loa: “Tôi kéo xe được Tam Lang thu góp chất liệu sống cực khổ, nhọc nhằn của phu xe kéo”. Còn Hoài Thanh viết trên Tiểu thuyết thứ bảy: “Tôi kéo xe vẫn là tập phóng sự giá trị. Tác giả đã làm cho ta nghe thấy những điều ở ngay trước mắt ta, bên tai ta, mà ta không nghe thấy…”.

Hơn 10 năm sau khi phóng sự Tôi kéo xe ra đời, Hà Nội không còn bóng dáng xe tay. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2.9.1945, một sắc lệnh xóa bỏ xe tay được chính phủ lâm thời ban hành, chấm dứt hoàn toàn phương tiện mà Công sứ Bonnal gọi là “Văn minh phương Đông” sau nửa thế kỷ tồn tại.

Nguyễn Ngọc Tiến / Theo: dangnho
 
----------------

Cơ cực những người kéo xe bò

Nghèo, nhiều người nghèo. Khổ, lắm người khổ. Nhưng không hiểu có phải tại cái khí chất cổ kính nơi đây đã ngấm vào máu thịt từng người, khiến cho mỗi mảnh đời người dân làm cái nghề kéo xe này như là một trang trong cuốn sách nhuốm màu thời gian nơi cố đô.

Trong nhịp sống tất bật của phố phường hiện đại, vẫn có những người lao động nghèo dựa vào một nghề mà không phải ai cũng đủ sức làm. Đó là nghề kéo xe bò.

Ở Huế, hình ảnh người lao động dùng sức kéo chiếc xe bò vận chuyển: sắt thép, gạch, cát, phế liệu… không hiếm. Họ như lọt thỏm giữa sự qua lại đến chóng mặt của những phương tiện hiện đại.

“Nhiều người nói cái loại này ở nông thôn để cho bò kéo. Nhưng ở thành phố, lấy đâu ra bò? Nếu có bò thì ai mà kéo giữa phố? Nghèo quá, hai vợ chồng tui giờ sống dựa cả vào hai cái xe này đây”, anh Trần Văn Cường, nhà ở phường Phú Hiệp nói.

Cũng như anh Cường, anh Lê Thanh cũng có một chiếc xe bò để “làm ăn”. Công việc của anh là đi thu mua phế liệu. Anh cho biết hàng ngày phải kéo xe đi cả 10 - 20 cây số, len lỏi vào các hang cùng ngõ hẻm, “gõ cửa” từng nhà để hỏi mua những thứ người ta bỏ đi như lon bia, chai nhựa, sách báo cũ, bìa các tông…

Anh Thanh đang gồng mình kéo xe phế liệu trên đường Hà Nội, đã thấm mệt nên khi chúng tôi hỏi chuyện anh cũng dừng lại. Gạt mồ hôi chảy thành dòng trên trán, Anh nói: “Muốn mua được nhiều mình phải vòng vèo, luồn lách vào các kiệt, các ngõ. Cái xe bò này nhỏ nên cũng thuận tiện lắm, lại vận chuyển được nhiều”.

Những người như anh Thanh đi thì nhiều thế, vất vả là thế, nhưng mỗi ngày trung bình anh cũng chỉ thu nhập khoảng 30.000 đồng, hôm nào nhiều thì được 50.000 đồng.

Còn với những người như chị Thu, anh Vinh thường xuyên kéo cát, gạch thì “phải có mối quan hệ với mấy người làm công trình, xây dựng nhà cửa, cầu đường… Khi nào có việc, họ cần thì họ gọi mình. Công việc này vừa thất thường, thu nhập lại vừa bấp bênh”.

Nghèo, nhiều người nghèo. Khổ, lắm người khổ. Nhưng không hiểu có phải tại cái khí chất cổ kính nơi đây đã ngấm vào máu thị từng người, khiến cho mỗi mảnh đời người dân làm cái nghề kéo xe này như là một trang trong cuốn sách nhuốm màu thời gian nơi cố đô.

 Cơ cực những người kéo xe bò - 1
Ngược xuôi kiếm sống

Cơ cực những người kéo xe bò - 2

Càng xe bò cao ngang đầu người mua bán phế liệu

Cơ cực những người kéo xe bò - 3

Công việc kéo xe bò không phải ai cũng làm được, nhất là khi họ là phái yếu. Thế nhưng hàng ngày những người như chị Tiến, chị Thu lại mong mình được “đi cho mòn dép”.

Cơ cực những người kéo xe bò - 4

Sau buổi chiều làm việc xong, với công việc là kéo vật liệu xây dựng cho một công trình đang xây dựng, hai vợ chồng này lại… kéo nhau về nhà

Cơ cực những người kéo xe bò - 5

Bố mẹ đi làm về, những đứa trẻ ở phường Phú Hiệp lại chơi đùa bên chiếc xe bò.

 

Nguyễn Thành Chung

============

Nghề kéo xe tay

ANTĐ - Cách đây hơn nửa thế kỷ, hình ảnh người đàn ông rách rưới, còng lưng kéo xe hai bánh trên phố bụi lầm trong trang viết của Nguyễn Công Hoan đã gợi bao nỗi xót xa của kiếp “ngựa người”. Hôm nay tôi lại gặp những người đàn ông lam lũ gồng mình kéo càng xe tất tả trong các ngõ phố Hà Nội. Nhưng giữa thời kinh tế kỹ thuật số, tự động hóa máy móc đại công nghiệp thì hình ảnh đó lại là góc ấm của những mảnh đời cần lao chân chính.
 
Nghề kéo xe tay ảnh 1
 

Những "chú kiến" nhỏ trên đường phố

Lần đầu tiên tôi phải làm “quản đốc” xây dựng vì bố vợ làm nhà. Suốt đời sống dựa, nay tự mua được xe gạch Hương Canh sát giá, thấy mình thật oai hùng. Nhưng về đến ngõ “ruột gà” mới ngã ngửa: ôtô không vào được, tiền thuê cửu vạn bốc xe gạch đi cả cây số thì “phá sản”. Tôi phân bua, cô chủ hàng Vật liệu xây dựng (VLXD) khoảng 30 tuổi béo như Bao Công, bật cửa Cabin nhảy ụych xuống đất cười, nói: “hàng của em chất lượng, giá rẻ vận chuyển đến tận công trình, lần sau mua hàng, đến nhá!”. Lập tức “con” Camaz lùi đuôi, dựng mốc đổ gạch xuống mép đường. Và như trong phim, từ đâu 7- 8 chiếc xe cải tiến hai càng cùng những người đàn ông thoăn thoắt quay đầu, chống xe, bốc xếp, đóng bẩng và túm hai càng, chạng chân, cắm đầu vun vút lao đi. Họ rẽ ngoặt, tăng giảm tốc độ, tránh ổ gà, mồm tự hú còi cực kỳ điệu nghệ. Họ di chuyển 4-5 tạ gạch đồ sộ trong ngõ cứ những các “nghệ sỹ”. Cô chủ “Bao Chửng” tựa ghế, chéo chân làm bàn, ghi sổ, đánh dấu từng chuyến, từng người, mồm phì phèo thuốc lá. Chừng một tiếng xe gạch đầy đã chuyển đến tận nơi. Mồ hôi quyện bụi gạch bám vai áo, tóc tai những bác phu xe quê mùa. Họ nhận tiền, dựng cao càng xe bám nhau chạy bon bon trên phố chiều lẫn tiếng cười mãn nguyện của cuộc mưu sinh lương thiện.

Những người đàn ông kéo xe cải tiến hai càng ấy dễ đến nghìn người đang có mặt khắp thành phố ở bất cứ nơi nào có xây, sửa nhà, đổ rác cứng, phế thải... Họ được tổ chức do các chủ bán VLXD quản lý, điều hành. 

Trong muôn vạn nghề  của thời Kinh tế thị trường, với đại công nghiệp máy tính, kỹ thuật số thì vẫn còn một  nghề thô sơ cách hàng thế kỷ nay đã hồi sinh giữa lòng thành phố.

Mồ hôi đổi lấy nụ cười

Ngà, cách đây 4 năm là con một gia đình thợ xây ở Phường Dịch Vọng - Cầu Giấy nhưng giờ cô đã là một chủ buôn bán VLXD với hàng tỷ đồng vốn. Cũng bởi nhu cầu, kiến thiết của nhiều giới trong xã hội đang tăng vùn vụt, từ một phụ xây, chỉ trỏ cô đã thành một chủ buôn. Và bán hàng chiều khách thì phải phục vụ tân nơi. 

Ngõ ngách Hà Nội thì bé, phố phường cấm xe to thế là các chủ buôn VLXD phải “tái sinh” những chiếc xe kéo tay. Mỗi chủ có 1- 2 tổ xe, mỗi tổ 10-15 người. Dân kéo xe phải “thiện chiến” cơ động và trung thực. Hội, một tay xe chuyên nghiệp người Đan Phượng - Hà Nội nói: Vào nghề đơn giản - có sức khỏe, nhờ người “bảo lãnh” với chủ hàng và  có một chiếc xe 2 càng... Đó là xe cải tiến thùng gỗ, dung tích chừng nửa m3, 1 trục sắt ngang nối 2 bánh dã chiến và 2 càng dài 1,6m, lắp 2 ổ bi ngoại, nan hoa tốt, vành bánh căng tròn, thế là đủ chất lượng cho một đoạn đường khó nhọc. Mua nó thì lên Trạm Trôi, Hà Tây cũ, giá 1.700.000đ đến 2.000.000đ/ chiếc tùy loại. Hoặc mua ngay tại số 86 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội.

Buồn vui của nghề cũng dản dị như chính cái xe vậy, kiếm tiền chủ yếu bằng mồ hôi, cơ bắp. Ông Bẩy - tay kéo già đời qua nhiều nghề nhận xét: So với bốc vác, xe thồ, xây dựng và xích lô thì nghề xe tay nặng nhọc nhất. Với 3- 4 tạ hàng, chỉ có 2 ổ bi hỗ trợ, còn lại là sức người. Địa bàn là ngõ, ngách. Mà, ngách Hà Nội thì xe đạp cũng khó tránh nhau. Cầu cống, dốc, ổ voi, tất cả đều dùng sức mà vượt. Vì vậy người kéo luôn phải cúi mặt lấy đà, mắt khẽ ngước, miệng hú thay chuông, đường xa, lắm dốc, nhiều hố, các xe phải “đá nhau” (là đi từng nhóm, dùng sức tập thể vừa kéo vừa đẩy). Chuyến hàng dài nhất cũng chỉ 2km, nhưng chỉ 2, 3 chuyến thì dù trời lạnh đến đại hàn mồ hôi cũng vã như tắm. Tổ kéo nhà ông Tiến (Hoàng Quốc Việt), có thanh niên 19 tuổi, sau 3 năm kéo xe, nay lưng gù, vai nhọn như mũi tên, tay dài như tay vượn. 

 Nghề kéo xe tay | Báo điện tử An ninh Thủ đô

Hàng năm, cao điểm của nghề là tháng 10 đến cuối năm, ai cũng lo xây, sửa nhà đón Tết, các phu xe căng mình “chạy sô”, có ngày một người chạy 25 chuyến. Nhiều lúc mệt, cố làm không phải vì tiền mà vì đáp ứng thời gian cho chủ. 

Và những rủi ro

Có bác kéo xe nặng, ngoài hai tay còn phải buộc dây quàng qua vai lấy thêm lực kéo. Lên dốc, sức kiệt, xe lùi quật ngã cả người, gẫy chân, vỡ đầu. Chuyện chở nặng, quá tải va vào phương tiện khác hỏng xe, đền người, đền hàng cũng không hiếm. Mà cái nghề này, nhiều khi phải đi làm ban đêm, để tránh phương tiện. Ban ngày thì chỉ có đi vào buổi trưa, chứ nếu đường đông lớ ngớ, gây tắc đường có mà bị phạt, thu giữ xe như chơi, kéo xe cả tháng chả đủ tiền bù lại. Nói như ông Bẩy: để kiếm sống thì nghề nào cũng có rủi ro, tai ương, làm người tránh sao được. Điều quan trọng là gắn bó với nghề lương thiện, không trái đạo đức, phù hợp khả năng, điều kiện, cho mức thu nhập ổn định, đủ sống và giữ được tình người là tốt!

Kéo xe là nghề sẵn việc cho người lao động tỉnh lẻ tại Hà Nội mà dân lao động chân tay ai cũng thèm, vì ngoài nhu cầu xây dựng của xã hội, họ được chủ hàng kiếm việc, phân công nên không bị cạnh tranh, may rủi. Nghề kéo xe tay có nhiều điểm an tâm hơn xích lô, “xe ôm”, phụ nề, bốc vác, không bị cấm đường và tranh cướp, nên nghề này lúc nào cũng thư thái. Thu nhập theo chuyến với giá thấp nhất từ 30-50 nghìn đồng/chuyến tùy theo nặng nhẹ, xa gần mà tính. Bình quân mỗi người được 3 đến 5 triệu đồng/tháng, trừ ăn uống thuê trọ (trọ phòng tập thể) khoảng  gần 2 triệu, còn lại đem về quê.

360 độ mưu sinh (3)

Cuộc sống hiền hòa đó đã thắp lên những ngọn lửa tình người cảm động. Đó là ở phường  Dịch Vọng (Cầu Giấy). Ngày nào người ta cũng thấy người đàn bà hỏng một mắt kéo xe cùng người đàn ông mù hai mắt đẩy phía sau. Họ sống kín đáo, lặng lẽ, tình cảm, chiụ khó và cẩn thận, có sức khoẻ nên thu nhập không kém đồng nghiệp. Cuộc sống chắt chiu giúp họ nuôi dược 2 con ăn học và mẹ già chốn quê đủ sống. 

Tình yêu lao động chân chính và nghị lực đã không biến họ thành những kẻ trông vào sự bố thí xã hội hay phải làm những việc trái đạo đức. Có lẽ chỉ nghề kéo xe tay mới có thể bao dung được những mảnh đời như thế.

 

Nguyên Thy sưu tầm

 

 

 

 

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %07 %844 %2023 %15:%06
back to top