“tình yêu không biên giới chủng tộc” một chuyện tình thật đẹp “hữu nghị Nhật – Trung”

Yoshiko Yamaguchi

Bài hát "Ikanaide" được sáng tác vào năm 1989, với lời bài hát được viết bởi một trong những người viết lời của ông, Goro Matsui. Cùng năm đó, bài hát được sử dụng làm ca khúc chủ đề cho bộ phim truyền hình Trung Quốc-Nhật Bản Farewell, Lixianglan, kể về một phụ nữ Nhật Bản Yoshiko Yamaguchi. (12 tháng 2 năm 1920-7 tháng 9 năm 2014) sinh ra ở Trung Quốc và bị buộc tội làm gián điệp và bị đưa ra xét xử nhưng cuối cùng được trả tự do và đến Nhật Bản, sống một cuộc sống lâu dài và bình yên.

 The History of Yamaguchi Yoshiko 山口淑子 also known as Li Xiang Lan 李香蘭  (Ri-Koran): Review of Chen Meijuin film "The Double Life of Li Xianglan"

* * * "Hamako Wanatabe là người đầu tiên thu đĩa bản Shina No Yoru, về sau ca khúc này lại gắn liền với tên tuổi của Li Xianglan, được cô hát trong cuốn phim có cùng tựa do cô thủ vai nữ chính – một cuốn phim được quốc tế ca tụng nhưng lại bị Trung Hoa tẩy chay, lên án! Cuốn phim Shina No Yoru (China Nights, có chữ “s”, còn được gọi là Shanghai Nights – Đêm Thượng Hải), do hãng phim Manchuria Films Productions thực hiện năm 1940, Osamu Fushimizu đạo diễn (thời gian này Manchuria, tức Mãn Châu, đã tách rời khỏi Trung Hoa để trở thành một quốc gia do Nhật bảo hộ). Cuốn phim Shina No Yoru, với chủ đề “tình yêu không biên giới chủng tộc”, nằm trong loạt phim tuyên truyền cho tình “hữu nghị Nhật – Trung”, cốt truyện kể về một cô gái mồ côi sống ngoài đường phố Thượng Hải được một sĩ quan hàng hải Nhật có lòng nhân đạo cứu vớt, dẫn đưa tới một chuyện tình thật đẹp. Nhưng dưới mắt người dân Trung Hoa thời bấy giờ, không thể có việc một người Nhật có lòng nhân đạo. Nỗi kinh hoàng của Cuộc thảm sát Nam Kinh năm 1937 vẫn còn in hằn trong đầu óc họ. Sau khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt, Li Xianglan bị nhà cầm quyền Trung Hoa (phe Dân quốc) bắt giữ và đưa ra tòa xét xử về tội phản quốc, với cái án tử hình cầm chắc trong tay. Chỉ tới khi người Nhật xác nhận Li Xianglan là một con cháu Thái Dương Thần Nữ với tên thật là Yoshiko Yamaguchi, nàng mới được thả, và bị trục xuất khỏi Trung Hoa." 

Hiện nay, mở trang Shina No Yoru – YouTube trên Internet, chúng ta sẽ đọc được nhiều câu chuyện cảm động, kỷ niệm êm đềm liên quan tới ca khúc này và nhân vật “Li Xianglan - Shirley Yamaguchi”.

Obituary: Actress Yamaguchi Had Life of Dramatic Transformations - WSJ

[Cuộc thảm sát Nam Kinh – The Nanking Massacre, còn được sử sách gọi là the Rape of Nanking, mở màn vào ngày 13 tháng 12 năm 1937, ngày thủ đô Nam Kinh của Cộng Hòa Trung Hoa bị rơi vào tay quân Nhật. Theo trang mạng Wikipedia và tài liệu hiện được lưu giữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (The Library of Congress), ngày ấy, trong khoảng thời gian gần một tháng, đã có từ 200.000 tới 340.000 người Trung Hoa bị quân Nhật tàn sát, và trên 20.000 phụ nữ bị cưỡng hiếp.

Sau này, các nhân chứng sống kể lại trƣớc Tòa án Quân sự Quốc tế Viễn Đông rằng việc hành quyết tập thể, hôi của và lùng bắt phụ nữ được tiến hành một cách quy mô theo kế hoạch, để không một khu vực nào bị bỏ sót, không một người nào kịp thoát thân. Các phụ nữ xấu số - từ bé gái cho tới bà cụ già – sau khi bị cưỡng hiếp tập thể, đa số đã bị giết một cách cực kỳ man rợ.

The history of yamaguchi yoshiko 山口淑子 also known as li xiang lan 李香蘭 ri  koran 1946 1952 – Artofit

Sau này, phía Nhật Bản nhìn nhận có 142.000 binh lính và thường dân Trung Hoa chết, nhưng không bao giờ nhắc nhở tới các vụ cưỡng hiếp, tương tự việc họ không bao giờ nhìn nhận đã cưỡng ép hàng trăm nghìn phụ nữ Hàn Quốc phục vụ nhu cầu tình dục của Quân đội Thiên hoàng, mà họ gọi là “comfort women”.

Độc giả nào “cứng bóng vía” muốn tìm hiểu về Cuộc thảm sát Nam Kinh kèm theo những hình ảnh ghê rợn, có thể mở trang Google với từ khóa “The Nanking Massacre”, hay “The Rape of Nanking”] Khổ nỗi, cuốn phim Shina No Yoru, với tình tiết ly kỳ hấp dẫn và ngoại cảnh tuyệt đẹp của Thượng Hải, lại được các nhà bình phim ca tụng và khán giả ưa thích.

RocaHistory | Japanese actress Yoshiko Yamaguchi lived a life that deserves  multiple movies She was born in 1920 in Manchuria, China, a region that… |  Instagram

Trong phim này, Li Xianglan thủ vai cô gái mồ côi và hát bản Shina No Yoru. Li Xianglan có một giọng hát cao vút đầy nghệ thuật diễn tả, mà từ chuyên môn gọi là “coloratura soprano”. Với đại đa số khán thính giả, độc giả ngƣời Việt, cái tên “Li Xianglan” có thể xa lạ, nhưng nếu viết tên phiên âm Hán Việt Lý Hương Lan, chắn hẳn nhiều bậc cao niên vẫn còn nhớ.

Cũng thế, giới mộ điệu ở Âu Mỹ có thể không biết Li Xianglan là ai, nhưng nếu nhắc tới nghệ danh bằng tiếng Anh + tiếng Nhật Shirley Yamaguchi thì hầu như ai cũng biết. Còn tại Nhật, vị nữ lưu này lại được biết tới, và kính trọng, qua phương danh Yoshiko Otaka, một trong những bóng hồng đầu tiên trong Thượng viện Nhật Bản. Shirley Yamaguchi (Li Xianglan).

Tính cho tới nay, cuộc đời ly kỳ của Shirley Yamaguchi, một phụ nữ có tới gần 10 cái tên khác nhau, đã được đưa lên màn bạc, màn ảnh truyền hình, sân khấu ca kịch nhiều lần, và gần đây đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho cuốn tiểu thuyết Người tình Trung Hoa (The China Lover, 2008) của nhà văn Ian Buruma. 

Shirley Yamaguchi (AKA Yoshiko Yamaguchi or Li Xianglan, 1955) :  r/OldSchoolCelebs 

Shirley Yamaguchi tên thật là Yoshiko Yamaguchi, sinh năm 1920 tại Mãn Châu, nơi cha cô, ông Fumio Yamaguchi, làm việc trong Công ty Hỏa xa Nam Mãn Châu. Khuôn mặt của Yoshiko phảng phất những nét tây phương là thừa hưởng từ ông nội, vốn mang trong người 1/4 máu Âu châu. Lớn lên trong một môi trường mà mọi người đều nói tiếng Quan thoại, Yoshiko trở thành một cô gái “Hoa” nhiều hơn là “Nhật”, một phần cũng vì cha cô kết nghĩa huynh đệ với hai người Trung Hoa có tiếng tăm, một người họ Lý (Li), một người họ Phan (Pan).

Theo phong tục, Yoshiko trở thành nghĩa nữ của hai nhà nói trên, và được đặt tên bằng tiếng Hoa là Li Xianglan (Lý Hương Lan)Pan Shuhua (Phan Thục Hoa). Yoshiko học hát nhạc cổ điển với Madame Podresov, một ca sĩ giọng soprano người Ý kết hôn với một nhà quý tộc Nga. Sau đó, Yoshiko tới Bắc Kinh sống dưới sự bao bọc của gia đình họ Phan, sử dụng tên Pan Shuhua, trau dồi thêm tiếng Quan thoại và theo đuổi nghệ thuật ca kịch cổ điển (opera).

Yoshiko Yamaguchi

Tới khi đóng cuốn phim đầu tiên vào tuổi 18 (năm 1938), Yoshiko bắt đầu lấy Li Xianglan làm nghệ danh. Từ đó cho tới khi cuộc chiến tranh Trung – Nhật chấm dứt, Li Xianglan, với khả năng song ngữ Hoa - Nhật, đã được người Nhật tận dụng tài nghệ trong việc tuyên truyền cho “tình hữu nghị Nhật – Trung”; về phần người dân Trung Hoa, hầu như không ai biết Li Xianglan là người Nhật, và cô đã được xếp hạng 5 trong danh sách 7 đại minh tinh ca nhạc (seven great singing stars) của Trung Hoa trong thập niên 1940. Chính vì thế, sau khi Li Xianglan đóng vai chính trong cuốn phim Shina No Yoru (và hát ca khúc này trong phim), nàng đã bị phía Trung Hoa lên án là kẻ phản quốc.

The history of yamaguchi yoshiko 山口淑子 also known as li xiang lan 李香蘭 ri  koran 1946 1952 – Artofit

Tất cả mọi bài hát nổi tiếng của Li Xianglan, trong đó có hai bản Shina No Yoru (China Night – Đêm Trung Hoa)Suzhou Serenade (Tô Châu Dạ Khúc) đều bị cấm ở cả vùng Dân quốc (phe Tưởng Giới Thạch) lẫn vùng Cộng sản (phe Mao Trạch Đông).

Sau khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt, Li Xianglan bị nhà cầm quyền Trung Hoa (phe Dân quốc) bắt giữ và đưa ra tòa xét xử về tội phản quốc, với cái án tử hình cầm chắc trong tay. Chỉ tới khi người Nhật xác nhận Li Xianglan là một con cháu Thái Dương Thần Nữ với tên thật là Yoshiko Yamaguchi, nàng mới được thả, và bị trục xuất khỏi Trung Hoa.

Lúc này, trước mắt người dân Trung Hoa, người nữ nghệ sĩ tài hoa trước kia bị họ lên án là “kẻ phản quốc” đã lộ nguyên hình là một “nữ điệp viên Nhật” đội lốt nghệ sĩ Trung Hoa để thi hành công tác địch vận – một cáo buộc mà Yoshiko Yamaguchi luôn luôn bác bỏ.

1946 - 1952

Sau này, vào đầu thập niên 1950, Yoshiko đã chính thức lên tiếng xin lỗi người dân Trung Hoa về việc đã vô tình để phát-xít Nhật lợi dụng trong việc tuyên truyền trong thời gian Đệ nhị Thế chiến; nhưng tự bản thân Yochiko cũng biết: khi nào người dân Trung Hoa chưa quên được tội ác của quân Nhật, họ vẫn còn thù ghét mình!

Trở về Nhật năm 1946, Yoshiko Yamaguchi đã mau chóng tạo được tên tuổi trong làng điện ảnh xứ Phù Tang, trong đó có những cuốn phim đóng dưới quyền đạo diễn thiên tài Akira Kurosawa (có lẽ khán giả ở Sài Gòn ngày ấy chưa quên những tác phẩm để đời của ông, như Bảy chàng võ sĩ đạo, Lã-sanh-môn...).

Bước qua thập niên 1950, Yoshiko Yamaguchi sang Hoa Kỳ lập nghiệp dưới nghệ danh mới Shirley Yamaguchi, và tạo được tên tuổi ở cả kinh đô điện ảnh Hồ-ly-vọng lẫn thủ đô kịch nghệ Broadway. Năm 1951, tại Hoa Kỳ, Yoshiko kết hôn với điêu khắc gia Mỹ gốc Nhật Isamu Noguchi, nhưng chỉ chung sống được 5 năm.

Từ giữa thập niên 1950, Yoshiko đã hồi sinh nghệ danh tiếng Hoa “Li Xianglan” qua nhiều cuốn phim của điện ảnh Hương Cảng. Năm 1958, Yoshiko Yamaguchi từ giã màn bạc vào tuổi mới 38, và bước thêm bước nữa với ông Hiroshi Otaka, một nhà ngoại giao Nhật làm việc ở Miến Điện; từ đó bà lấy tên theo họ chồng Yoshiko Otaka (hai ngƣời chung sống cho tới khi ông qua đời vào năm 2001).

Cũng trong năm 1958, Yoshiko Otaka trở về Nhật, thường xuyên xuất hiện trong các talk-show, và tới năm 1969, chủ xướng chương trình thời sự quốc tế Sanji no anata (The Three O'Clock You), chú trọng tới hai cuộc chiến ở Trung Đông và Việt Nam. Năm 1974, Yoshiko Otaka được bầu vào Thượng viện của Quốc hội Nhật, và phục vụ liên tục 18 năm (3 nhiệm kỳ)

Năm 1993, bà được Nhật Hoàng trao tặng huân chương Order of the Sacred Treasure, là huân chương cao quý thứ nhì của Hoàng gia Nhật, chỉ đứng sau huân chương Order of the Rising Sun. Bước sang thế kỷ thứ 21, Yoshiko Otaka vẫn tiếp tục hoạt động thiện nguyện.

Khi qua đời tại Đông Kinh năm 2014 vào tuổi 94, Yoshiko Otaka đang đảm trách chức vụ Phó Chủ tịch Quỹ Phụ Nữ Á Châu (Asian Women‟s Fund).

The History of Yamaguchi Yoshiko 山口淑子 also known as Li Xiang Lan 李香蘭  (Ri-Koran): Autographs: Li Xianglan or Yamaguchi Yoshiko?

* * * Trở lại với thập niên 1940 và bản Shina No Yoru, sau khi được Yoshiko Otaka – tức Li Xianglan ngày ấy - hát trong cuốn phim có cùng tựa do cô thủ vai nữ chính, đã trở thành một hiện tượng, không chỉ là ca khúc phổ biến nhất ở Nhật, ở Trung Hoa (mặc dù nhà cầm quyền đã ra lệnh cấm) mà còn ở Đại Hàn, nơi mà nghệ danh Li Xianglan được “Hàn hóa” thành Ri Koran.

Cũng chính tại bán đảo Triều Tiên, nơi quân đội Liên Hiệp Quốc tới chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của quân cộng sản Bắc Hàn và Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) vào đầu thập niên 1950, Shina No Yoru do “Ri Koran” hát đã trở thành ca khúc được các binh sĩ Mỹ (chủ lực của đạo quân LHQ) ưa chuộng tới mức hầu như ai cũng thuộc lòng, cho dù không hiểu lời hát bằng tiếng Nhật nói gì! Theo hồi ký của một số cựu quân nhân Mỹ tham chiến tại bán đảo Triều Tiên, ngày ấy mấy chữ “Shina No Yoru” đã được họ hát thành “She Has No Yoyo”

 
Yoshiko 'Shirley' Yamaguchi, actress, dies at 94 - The Washington Post

[Mẫu tự “r” trong chữ “yoru” khi phát âm một cách nhẹ nhàng, chẳng hạn khi hát, nghe gần giống nhƣ mẫu tự “y”] Hiện nay, mở trang Shina No Yoru – YouTube trên Internet, chúng ta sẽ đọc được nhiều câu chuyện cảm động, kỷ niệm êm đềm liên quan tới ca khúc này và nhân vật “Li Xianglan - Shirley Yamaguchi”.

Chẳng hạn: My dad, God bless him, was among those who heard her sing and so loved this song that he sang it as a lullaby to his "kids" for over forty years. Here it is fully restored and in digital stereo for you and yours to enjoy, and make sure Grand-dad gets to hear it! Hoặc: This song (the Shirley Yamaguchi version) is being played at my grandfather's funeral tomorrow. He served in the USAF and was in Japan during the Korean War. He was singing this song up until a week before he died. Unfortunately, he had no idea what this song was called, and believed the lyrics were, "she aint got no yo yo." I was ecstatic when I found the song he had sung all those years since the service. I'm just really sorry I couldn't have found it for him earlier. RIP Papaw.

Như chúng tôi đã trình bày ở phần đầu, Hamako Wanatabe là người đầu tiên thu đĩa bản Shina No Yoru, và tới năm 1940, ca khúc này đã gắn liền với tên tuổi của Li Xianglan (tức Shirley Yamaguchi, Yoshiko Otaka, Ri Koran...), thế nhưng tính cho tới nay, người hát đạt nhất, và được ưa chuộng nhất lại là Misora Hibari (1937-1989), nữ diễn viên, nữ danh ca nhạc dân tộc cổ điển (“enka” trong tiếng Nhật) nổi tiếng nhất của xứ hoa anh đào.

Khi còn sống, Misora Hibari đã thu đĩa trên 1.200 ca khúc và bán được 68 triệu đĩa. Sau khi bà bất ngờ qua đời vì viêm phổi vào tuổi 52, tới năm 2001, con số ấy đã lên tới trên 80 triệu. Riêng với thế hệ trẻ, Shina No Yoru do nam thần tượng điện ảnh & ca nhạc Kyu Sakamoto (1941-1985) thu đĩa có lẽ là bản được ưa chuộng nhất.

The History of Yamaguchi Yoshiko 山口淑子 also known as Li Xiang Lan 李香蘭  (Ri-Koran): Photos 3 | Japan outfit, Actresses, Vintage beauty

Kyu Sakamoto, tên thật là Hisashi Oshima, là ca sĩ ngoại quốc đầu tiên có ca khúc đƣợc đứng No.1 trong danh sách nhạc trẻ của bảng xếp hạng Billboard năm 1963 tại Hoa Kỳ. Kyu Sakamoto tử nạn vào tuổi 43 trên chuyến bay Japan Airlines Flight 123 năm 1985 - cho tới nay vẫn được ghi nhận là tai nạn phi cơ khủng khiếp nhất (một phi cơ). trong lịch sử hàng không quốc tế, với số người chết chỉ đứng sau tai nạn do hai chiếc Boeing 747 đụng nhau ở phi cảng Tenerife trên đảo Canary Islands vào năm 1977.

The History of Yamaguchi Yoshiko 山口淑子 also known as Li Xiang Lan 李香蘭  (Ri-Koran): 1939 - 1942
 

Trở lại với bản Shina No Yoru do Sonny James dịch sang tiếng Anh với tựa China Night. Sonny James tên thật là James Hugh Loden, sinh năm 1929, hiện đã về hưu, là một ca sĩ kiêm nhà viết ca khúc đồng quê (country music) hàng đầu của Mỹ, đƣợc tặng biệt hiệu “The Southern Gentleman”. Cho tới nay, chúng tôi vẫn chưa tìm được phần audio (MP3) của bản Shina No Yoru - China Night lời tiếng Anh do Sonny James hát, nên chỉ có thể giới thiệu với độc giả video clip “Japanese Farewell – 3 Songs” gồm (1) Shina No Yoru - China Night do Sonny James trình bày, (2) Japanese Farewell (Sayonara) do ban nhạc Martin Denny hòa tấu, và (3) Japanese Farewell (Sayonara) do Mark Dinning trình bày.

  Sưu tầm by Nguyễn Ngọc Quang  

Hình ảnh minh hoạ

Chỉnh sửa lần cuối vào %AM, %11 %620 %2024 %09:%07
back to top