Truyện

Truyện (262)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Chiếc Đòn Gánh - Nguyễn Minh Phúc

Chiếc Đòn Gánh 

Nguyễn Minh Phúc

Những người phụ nữ quê tôi không ai không biết đến chiếc đòn gánh vì ai cũng đã từng hơn một lần gánh nó trên vai. Quê tôi miền Trung nghèo lắm. Từ những bé gái mới lớn lam lũ giúp mẹ thổi cơm gánh nước, đôi vai nhỏ như oằn xuống với một cánh tay bấu vào thân đòn nặng trĩu còn tay kia dùng lấy cân đối gánh hai thùng nước sóng sánh – đến những bà mẹ già nhanh lẹ gánh những bó rau, bụi cải hay con gà con vịt thong dong ra chợ bán. Rồi những đứa em, người chị, phần nhiều cứ rãnh việc, buông tay ra là động đến chiếc đòn gánh. Gánh lúa, gánh phân, gánh mạ non, gánh nước… Toàn bộ việc làm nặng nhọc đặt trên vai người phụ nữ. Đàn ông quê tôi lại ít thấy gánh gồng gì. Dĩ nhiên là họ làm những việc khác có khi còn nhọc nhằn hơn nhưng ít khi động đến chiếc đòn gánh…
 
Tôi nhớ như in lúc tôi còn là thằng bé sáu, bảy tuổi, chiều chiều ra đứng trên đầu cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Rướn người trên thành cầu sắt thật cao, tôi đưa mắt hướng về phía chợ. Hễ cứ thấy từ xa ai đó đang quang gánh bước tiến là lòng tôi lại thấp thỏm mừng vì nghĩ đó là mẹ mình. Cái dáng quay quồng, lam lũ của những người đàn bà quê tôi phần nhiều ai cũng giống nhau. Cho nên, tôi thường nhìn lầm. Tôi đợi từ xa và dõi mắt nhìn chằm chằm vào dáng đi khó khăn vất vả cũng với hai cánh tay, một nắm trên thân đòn và một lấy cân đối, buông lỏng theo từng bước chân như chạy. Không lẫn vào đâu được, đúng là bước chân của mẹ tôi. Bước chân mẹ lạ lắm, có gì đó như lo toan, vội vã, nhẫn nhục, nhọc nhằn trong mỗi nhịp đi quay quồng. Nhưng khi bóng người đàn bà kẽo kịt gánh gồng đến gần, thì lại không phải. Niềm vui biến mất, khuôn mặt buồn xo, tôi lại ngồi xuống thành cầu đợi mẹ tôi.
 
Cuối cùng thì mẹ cũng xuất hiện! Từ xa, nhận ra mẹ, tôi đã ba chân bốn cẳng chạy ùa tới mừng rỡ. Tôi chẳng quan tâm gì đến mồ hôi mồ kê trên gương mặt mẹ chảy ròng ròng vì mệt, vì nắng rát mà điều quan trọng nhất là nhìn vào hai cái mẹt đong đưa hai bên đòn gánh dưới cái quang bằng dây thép uốn tròn. Quà của tôi nằm ở đó! Khi thì là chiếc bánh mì, vài viên kẹo dẻo, một lóng mía ghim, có khi là mấy thứ đồ chơi rẻ tiền bằng nhựa… Thích nhất là được mẹ mua cho bánh bò ông ba tàu ngoài cổng chợ. Tôi mê bánh bò ông thì ít mà thích con gái ông thì nhiều! Chẳng là con ông học cùng lớp với tôi. Nó học giỏi nhì lớp, còn tôi hạng nhất. Bọn trẻ con thường cắp đôi tôi với con Lẻm, tên nó. Không biết nó nghĩ gì không chứ riêng tôi thì thích! Mà cũng lạ, không ai như tôi, mới học đến lớp hai, lớp ba mà đã biết mắc cỡ khi gặp nó… Nhưng đó là chuyện hồi con nít…
 
 
… Không cần đợi mẹ chấp thuận đồng ý, tôi đã lục mẹt lấy quà của mình vì biết mẹ chỉ mua cho tôi. Nhà có mấy chị em, ba mất sớm mà tôi là con trai duy nhất nên mẹ thương tôi hơn cả. Trăm lần như một, chiều nào mẹ đi chợ về, sau khi bán hết mớ rau cải, bầu bí trồng ở vườn nhà, thế nào mẹ cũng dành tiền ki cóp mua cho tôi ít quà. Tôi cầm gói bánh bò tung tăng chạy trước, mẹ gánh cặp mẹt đi sau. Không nhìn vào mắt mẹ nhưng biết chắc mẹ đang cười nhìn tôi niềm hạnh phúc. Đôi gánh nhẹ hẫng trên vai mẹ và nhiều lúc mẹ còn nói vói theo nhắc yêu tôi: Ranh con, chạy vừa vừa chứ, té ngã giờ đây!
 
Tôi thật không biết chiếc đòn gánh do ai nghĩ ra và xuất hiện tiên phong vào khi nào nhưng quả thật, đó là một dụng cụ tuyệt vời để vận động và di chuyển vật nặng từ nơi nầy đến nơi khác bằng sức người ở quê tôi. Nó được làm bằng cây tre già ngâm nước càng lâu càng tốt, để tre dẻo, chắc và khỏi mục. Tôi đã thơ thẩn hàng giờ nhìn người ta đục đẽo chiếc đòn gánh. Thật cũng lắm công phu! Sau khi chỉ lấy đoạn gốc tre già ngâm nước chừng vài tháng, người ta làm hai chiếc máng ở hai thân đòn. Hai cái máng nầy phải giống nhau như một, giữa khắc một cái rãnh sâu dùng để móc quang vào cho khỏi lệch. Cái máng nầy cũng lắm chuyện. Gặp tay thợ đẽo giỏi, nó là hình tròn trụ, hình ô van có khi còn được tạc vào dấu thập hoặc chữ vạn mà tôi không biết để làm gì. Có lẽ lấy hên mua may bán đắt khi gánh trên vai chiếc đòn gánh ấy chăng, hay chỉ là khắc lên cho đẹp… Chưa hết, còn phải gọt đẽo thân đòn cho thật thẳng, đoạn ở giữa mỏng dính hơn hai bên đầu làm đòn đong đưa cho nhẹ sức hơn khi gánh nặng… Khoảng hơn tiếng đồng hồ đeo tay đẽo gọt thì chiếc đòn gánh sinh ra. Nó hoàn toàn có thể dùng hết đời nầy đến đời khác trong một mái ấm gia đình quê tôi vì hiếm khi bị gãy. Đến khi nước bóng ở thân đòn nổi lên màu đen mun thì không biết chiếc đòn đã thấm biết bao nhiêu mồ hôi từ trên đôi vai những người đàn bà tần tảo…
 
 
Nhưng chiếc đòn gánh của mẹ tôi không chỉ có thế. Nó còn là một trời kỳ diệu. Nó mang đến tuổi thơ tôi những niềm vui háo hức tràn ngập, cả những giấc mơ xinh xắn nhất trên đời. Còn gì sung sướng hơn khi được đặt ngồi vào một đầu quang, đầu bên kia là trái bầu trái bí mẹ gánh suốt dọc đường ra chợ. Tôi cứ ngồi im như thế trên suốt con đường làng, hấp háy đôi mắt hãnh diện nhìn quanh xem có đứa bạn học nào để mà vểnh mặt lên, tự hào được ngồi gánh mẹ. Tôi cũng không buồn khi thấy chỉ mấy con trâu, con bò dọc đường làng chào tôi kêu nghé ọ và những đứa trẻ chăn trâu nhìn theo cười chế giễu. Tôi biết chúng nó ganh tỵ vì không được ngồi gánh như tôi… Và vì tôi nặng hơn mấy trái bầu bí ở gánh bên kia nên mẹ phải đưa vai chệch về phía tôi để giữ cân đối. Mệt lắm nhưng mẹ vui. Tôi biết được điều ấy trên đôi mắt lộng lẫy, hài lòng bừng lên trên mặt mẹ…
 
Đến gần chợ là tôi dứt khoát bảo mẹ cho xuống, có năn nỉ mấy cũng không chịu ngồi thêm. Tôi sợ con Lẻm, con ông ba tàu bán bánh bò đầu cổng chợ nhìn thấy. Vì sao sợ nó cười, tôi không biết nhưng rõ là tôi thích được nhìn nó xuất hiện với hai chiếc nơ xinh xắn, chạy lò cò trước cổng, mắt tròn xoe nhìn tôi và gật đầu chào. Tôi làm như ngó lơ, chạy lúp xúp theo mẹ, mắt liếc thật nhanh vào con Lẻm còn tay thì cứ cầm dây quang phía sau chiếc đòn gánh mà nhắc để khỏi mắc cỡ: Đi nhanh lên mẹ, con đói bụng lắm rồi…
 
Tuổi thơ tôi và chiếc đòn gánh mẹ như không hề rời nhau. Cũng có những hôm không bán được hàng, mẹ quảy gánh về mà không có quà cho tôi. Tôi cứ cầm lấy đòn gánh mẹ mà khóc tấm tức, dỗ mấy cũng không nín. Tôi nghĩ mẹ không thương tôi hoặc là quà của tôi mẹ đã cho ai mất rồi. Tôi chẳng nhìn lên mắt mẹ để thấy mẹ buồn như thế nào vì không tiền mua quà cho đứa con cưng. Có hôm mẹ tủi thân cứ nhìn tôi, ôm tôi mà khóc…
 
 
Nhưng cũng có lúc, chiếc đòn gánh với tôi là cả một cơn ác mộng! Tôi nhớ có lần đi hái trộm xoài non của bác Hai Trầu cạnh nhà. Bác Hai qua mét mẹ và chuyện đã xảy ra… Tôi mới bước chân về đến cửa, mẹ tìm hoài không thấy roi nên sẵn cây đòn gánh, mẹ phát vào mông tôi mấy cái. Dĩ nhiên là mẹ phát nhẹ thôi vì chiếc đòn gánh thì to bảng mà mông tôi thì nhỏ. Nhưng mà đau thấu trời xanh. Ghê thật là cái vị đòn làm bằng cây tre già ngâm nước! Nó thấm vào thấu bên trong, đau và nhức buốt hơn mọi loại roi nào khác. Tôi chỉ còn cách quỳ xuống đất nức nở mà xin lỗi mẹ vì đau và sợ ăn đòn tiếp...
 
Tối đó, mẹ vừa khóc vừa bôi dầu nhị thiên đường vào mông tôi đã nổi lên mấy vết hằn đỏ. Mẹ dằn vặt mình vì đã giận đánh con. Tôi làm bộ quay mặt vào tường không nhìn mẹ. Tôi giận, mẹ hỏi gì cũng không nói và thiếp đi khi nào không hay. Khi thức dậy vẫn còn thấy mẹ ngồi chằm chằm nhìn tôi, nghẹn ngào: Mẹ đánh con bậy quá… Nhưng ai bảo con hư… Lúc ấy, với đôi mắt nhạt nhoè, tôi chỉ muốn ôm mẹ mà khóc. Vì hờn, tủi thân hay còn giận mẹ, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc một điều là mẹ yêu thương tôi vô bờ bến!
 
Chiếc đòn gánh của mẹ, với tôi còn là những kỷ niệm không thể nào quên! Khi tôi đã lớn, nhà nghèo, mẹ hàng ngày trĩu nặng nó trên vai – khi thì gánh phân, gánh gạo đi bán – khi thì gánh nước, gánh hàng tảo tần nuôi tôi ăn học. Những năm tháng còn là sinh viên, mỗi dịp nghỉ hè về quê, tôi lại ra cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Nhưng mẹ giờ đã yếu lắm! Mẹ không còn gánh nặng được nhưng phải cố, vì tôi. Hình hài mẹ nhỏ quắt lại, đôi vai như muốn run lên theo bước chân, môi mắm chặt mỗi lần mẹ cố sức. Duy đôi mắt mẹ thì không hề đổi khác! Đôi mắt vẫn ánh lên niềm hạnh phúc và tự hào nhìn đứa con trai phổng phao, chững chạc sắp trưởng thành. Tôi đứng lặng trên cầu, rơm rớm nhìn vào thân thể và đôi vai gầy guộc của mẹ oằn xuống dưới mỗi bước đi… Tôi muốn lao vào ôm mẹ mình nhưng đã không làm như vậy. Cho mãi đến tận giờ đây, tôi vẫn ân hận trách mình vì điều ấy…
 
Ngày ấy, mẹ vẫn thường nói vui: Chính nhờ chiếc đòn gánh của mẹ nuôi con ăn học đấy! Mẹ mong khi mẹ không còn đụng đến nó nữa thì con đã trưởng thành… Còn giờ thì vì con – mẹ đâu, nó đó…
 
… Bây giờ tôi đã thành đạt. Sự nghiệp, công danh sự nghiệp đến muộn nhưng sau cuối cũng đến. Mẹ mừng hơn ai hết. Con Lẻm con ông ba tàu bán bánh bò ngoài cổng chợ giờ là vợ sắp cưới của tôi. Ngày tôi lấy vợ, từ dưới quê mẹ lên thăm. Xuống bến xe đón mẹ, tôi thật ngỡ ngàng khi mẹ cứ hi hoáy tìm một vật gì để dưới gầm xe. Tìm mãi, sau cùng mẹ mới lôi được ra cây đòn gánh! Thì ra thói quen, mẹ mua cau trầu mừng đám cưới tôi và cứ nghĩ sẽ đến nhà tôi với đòn gánh trên vai và cặp quang sắt rỉ! Tôi buồn cười và hơi tức bực về sự lẩm cẩm của mẹ. Ai đời lên đến thành phố rồi mà còn đem theo nào quang nào gánh, dáng đi cứ quay quồng, lo âu như ngày nào. Ngoài việc mướn xe chở cau trầu, tôi còn phải kêu thêm một chiếc xích lô chở riêng cặp quang và chiếc đòn gánh theo về vì không biết để đâu. Bảy mươi tuổi, có khi mẹ lẩn thẩn rồi cũng nên. Tôi nhủ thầm như vậy…
 
Mừng đám cưới tôi có mấy ngày, mẹ đòi về nằng nặc. Nhà không ai trông nom, vườn tược, gà heo không ai chăm nom, mẹ bảo thế! Hầu như đêm nào ở nhà tôi mẹ cũng thức trắng, trằn trọc không ngủ. Mẹ lo những việc không đâu, nào ai biết được. Thỉnh thoảng mẹ lại ngồi dậy, húng hắng ho. Tôi làm thế nào dỗ giấc ngủ, lo ngại đòi mẹ uống thuốc nhưng mẹ bảo không sao. Me lo chuyện rau mọc nhiều không ai cắt bán, lo gà vịt không ai cho ăn, lo nước trong lu không ai gồng gánh… Đúng mẹ lẩm cẩm thật rồi!
 
Tôi và con Lẻm mời mẹ ở lại luôn trên thành phố với vợ chồng tôi nhưng mẹ nhất định không chịu. Mẹ ở không quen chốn đông đúc, ồn ào hơn nữa còn phải chăm mộ bà nội, ba con dưới quê, ở lâu làm thế nào được, mẹ nói cái lý của mẹ. Cái lý của các bà mẹ thì khi nào cũng thuyết phục được bất kể ai trên đời chứ chẳng phải riêng tôi…
 
Ngày mẹ ra bến xe về quê ngoài quà mừng của vợ chồng tôi gửi bà con lối xóm vẫn là chiếc đòn gánh đã lên nước theo cùng. Nhìn dáng mẹ quay quồng, quay quồng, lòng tôi trào dâng niềm thương vô bờ bến nhưng biết làm thế nào giữ mẹ. Đến lúc nầy, mẹ mới móm mém cười, chắc là muốn chúng tôi đừng buồn khi chia tay:
 
– Đó, con thấy không? Nhờ đem theo đòn gánh mà khi về, mẹ mới mang hết mấy thứ quà con gửi cho lối xóm… Không có nó, mình mẹ bê sao nổi!
 
Tôi nhận ra mẹ mình có lý. Một đời mẹ tảo tần đắm đuối vì con với chiếc đòn gánh cùng theo mẹ đi suốt bao năm trời gian nan mãi cho đến khi con đã trưởng thành vẫn còn mãi lo âu…
 
 
Rồi mẹ tôi qua đời! Tuổi già và những căn bệnh triền miên không cho mẹ ở lại cùng tôi mãi. Cuộc chia tay đớn đau sau cuối rồi cũng đến! Trong nỗi đau mất mẹ, tôi chỉ còn biết lặng người, xót tím tâm can.
 
Lúc nhập quan, khi người ta đưa hình hài nhỏ bé, khô quắt của mẹ vào quan tài, ngoài những bộ đồ cũ nát mẹ vẫn thường mặc khi còn sống cùng những đồ vật thường dùng, tôi chợt nhớ đến chiếc đòn gánh đã đi theo suốt đời cùng mẹ. Nó vẫn nằm đó, trong góc nhà kia, vẫn ánh lên thứ nước màu đen tuyền với cái thân đòn hình như cong lên vì khó khăn vất vả. Chợt nghĩ về những ngày ấu thơ gian nan, chợt nghĩ về tình yêu bát ngát, thắm thiết của mẹ, tôi trào dâng nước mắt…
 
Tôi nhớ đến lời mẹ tôi khi còn sống – mẹ đâu thì nó đó – chiếc đòn gánh ấy! Và cố thuyết phục mọi người xin đưa cây đòn theo cùng mẹ sang thế giới bên kia… Ai cũng cản tôi nhưng cuối cùng thì họ xiêu lòng. Vậy là trong quan tài mẹ tôi lại có thêm chiếc đòn gánh đã từng một thời bôn ba cùng mẹ.
 
Khi mọi người ra về sau lễ tang, còn một mình ngồi bên mộ mẹ, tôi đã khóc như chưa khi nào được khóc như thế. Rồi cũng sẽ qua hết mọi khổ đau, niềm hạnh phúc, mọi cao sang, quyền quý và cao sang kể cả những vụn vặt thấp hèn trên đời nầy nhưng tôi biết, hình ảnh mẹ tôi và chiếc đòn gánh nhọc nhằn thời xưa sẽ theo mãi tôi đến suốt quãng đời còn lại…
 
Nguyễn Minh Phúc
 
Hồng Anh sưu tầm
Xem thêm...

Quà Sinh Nhật - Yên Sơn

Quà Sinh Nhật

Yên Sơn

***

Hai con cá vàng đã bao lần vẫy đuôi cố vượt thác để mong hóa rồng. Thấm thoát đã dư một chu kỳ đời sống mà theo người xưa là quá đủ, dẫu "em ơi có bao nhiêu...". Hai con cá đã nhiều lần lao mình lên vách đá nên trên đầu, trên mình đã có nhiều vết tích của sự kiên trì theo thời gian đi qua. Năm nay cá lại cố vượt vũ môn!

Cũng thật lạ! Những dấu tích thời gian không làm cho người ta ngần ngại mà vẫn cứ sống mạnh sống hùng. Cũng có thể "số phận con người như đồng tiền sấp ngữa, thì em ơi em có hiểu gì không..." Thế nên những đắm say vẫn còn, những bon chen vẫn hấp dẫn; và năm nay cá lại cố vượt vũ môn trong một niềm vui bất ngờ với một món quà từ trên trời rớt xuống. Món quà xem có vẻ rất đơn giản, rất bình thường nhưng không ai nghĩ ra vì nó nhẹ như tơ trời, nó bồng bềnh như cánh gió của một thuở xa xưa trong một dĩ vãng sống động, hào hùng; nó vui như món quà bất ngờ của mẹ về chợ ở những tháng ngày thật xa xôi trong tiềm thức mà vẫn rất gần như mới xảy ra hôm qua. Một gia đình với chục anh chị em, quanh năm lao đao với ruộng rẫy ngoài thời giờ mài miệt ở ghế nhà trường, có ai mong đợi gì có được một món quà chỉ có ở trong mơ?!

 

*

Tôi đang đứng mơ màng trong mưa bụi, mưa bay lất phất đậu trên tóc, trên áo với một chút gai lạnh đầu thu. Tôi đang mải mê ngắm cái đẹp rất lãng mạn của buổi chiều với những hạt mưa nghiêng nghiêng rất nhẹ trong công viên xanh ngát ở một nơi xa lạ. Bất chợt, không biết từ một thôi thúc nào, tôi nhảy đại lên một toa xe vừa ghé qua vội vã. Tôi đã va vào một người con gái làm cho người ta chới với. Đã vậy, tôi còn dịch tặng một bài thơ tiếng Anh rất trữ tình mà nàng đang cầm trên tay:

Why I love you (Gary R. Hess)

I've never seen you

Or touched your skin

I've never felt your lips

Or held you tight

But I know I love you

Not because of the way you look

Or because of that sexy voice

Not because of the things you say

But because of whom you are

When we meet I will kiss you

And hold you all night

I love everything about you

Because it's you

 

Tại Sao Anh Yêu Em (YS)

Dẫu chưa bao giờ anh gặp em

Chưa một lần hôn đôi môi mềm

Chưa từng đụng chạm làn da trắng

Má tựa vai kề tim sát tim

Nhưng anh biết rằng anh yêu em

Anh yêu em không phải vì em đẹp

Không phải vì lời thỏ thẻ dễ yêu

Cũng không vì những gì em nói

Nhưng chính vì em, chỉ bấy nhiêu

Anh sẽ hôn em nồng nàn khi mình gặp

Anh sẽ ôm ghì suốt cả canh thâu

Anh yêu quá những gì em đang có

Chính vì em, không phải vì đâu

Đưa bài thơ dịch xong mới thấy áy náy trong lòng vì những lời thơ quá nồng nàn, quá thân thiết. Toa xe không quá chật hẹp nhưng sao tôi vẫn chưa vội tìm chỗ ngồi mà cứ phải xớ rớ trộm nhìn, lòng tự hỏi lòng "không biết người ta có cho mình quá sổ sàng ở cái moment of truth không". Rồi lại tự mình bào chữa là chỉ dịch sát nghĩa bài thơ thôi chứ có "thêm thắt" gì đâu... nhưng sao vẫn lóng ngóng bất an trong khi nàng cứ làm thinh, ngó vào cõi mênh mông như không thấy tôi trước mặt. Trông dáng dấp nhỏ nhắn xinh xinh với đôi mắt xa vắng cùng suối tóc đen mượt mà chảy tràn trên bờ vai gầy làm lòng tôi chùng lại. Dường như tôi muốn nói một điều gì đó nhưng rồi lặng thinh, một lúc sau mới lủi thủi đi tìm một góc vắng để ngồi, thả hồn theo những áng mây trôi lãng đãng trong trời chiều hiu quạnh.

Con tàu vẫn lầm lũi chạy, vẫn bao người xuống lên nhưng nàng vẫn còn đó dường như đi về một nơi vô định. Trước khi tới nơi cần đổ bến, tôi lấy hết can đảm đi về phía nàng:

- Xin lỗi cô tôi tên là Khói, tôi có được vinh hạnh biết quý danh của cô không?

- Thực ra thì không cần thiết nhưng ông cứ gọi tôi là "Linh Hồn của Tre" - Nàng điềm đạm trả lời.

- Mong cô đừng nghĩ tôi quá tò mò nhưng xin hỏi cô có sắp đến nơi muốn đến chưa?

Nàng chậm rãi quay lại, ngó phớt qua tôi với đôi mắt buồn vời vợi rồi lại quay nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Mãi cả phút sau mới nghe tiếng trả lời:

- Thưa ông, nơi tôi tới đã tới lâu rồi!

- Sao vẫn còn đi?

- Vâng, tôi vẫn còn đi! Còn ông?

Giọng nàng nói rất từ tốn, nhẹ nhàng như một nốt nhạc chậm trong một bản tình ca. Tôi nghe như có một chút sầu muộn, một chút bâng khuâng:

- Cô ơi, tôi đã lên tàu trong vô thức từ sân ga nhà tôi, cũng vô thức xuống lên một nơi xa lạ như cô thấy đó và bây giờ tàu sắp quay về bến đổ.

Không gian như lắng xuống, khoảng cách giữa tôi và nàng như xa hơn vì không còn nghe nàng nói gì nữa. Nàng vẫn ngồi yên ngó ra ngoài như mải dỏi theo một phim truyện lôi cuốn. Khi bước xuống sân ga, tôi cố vẫy tay chào nhưng nàng đã lặng lẽ quay lưng đi khuất vào trong. Bẵng đi một dạo lâu, tôi chợt thấy tên nàng trên một diễn đàn quen. Nàng hay post lên diễn đàn những bài nhạc hay, những tin tức liên quan đến tệ nạn quê nhà, một vài bài thơ ngoại quốc, một ít thơ của mình. Tôi cố tình thăm hỏi nhưng thỉnh thoảng nàng mới trả lời vẫn như phong cách ngày nào đối diện. Bỗng một hôm tôi đọc bài viết của nàng với một câu xanh rờn hoa lá "đây là bài viết cuối cùng, sẽ không bao giờ trở lại". Tôi viết vội mấy câu vừa đùa giỡn vừa khuyên ngăn nàng:

trời ơi đừng bỏ tui đi

đời tui còn gì lại bị chia tay

chuyện người ví tợ mây bay

chuyện dở thì bỏ,

chuyện hay giả nhời

bạn nè... ông bạn tui ơi

khoan khoan đứng lại cho tui nói đôi lời được chăng

cô hai hàng xóm nói rằng

"người ấy" không biết giận răng ôn nờ thiệt hôn hay tại tui khờ?!

Thế nhưng nàng vẫn biệt tăm. Tôi lại bâng khuâng dò tìm những gì mình đã viết cho nàng để tìm một nguyên do nào đó có thể làm nàng phật ý... nhưng không tìm ra. Rồi ngày tháng cứ đong đưa, đong đưa... Một hôm tôi thấy tôi tìm về chốn cũ, đi trong mưa bụi để nhớ về một kỷ niệm đã qua. Tôi về ngồi viết thư cho nàng, gửi lên diễn đàn cũ xin tấm hình mưa bụi đã một lần nhìn thấy. Nghĩ tới thì viết chứ có ai mong đợi gì trong những tháng năm đăng đẳng đó chắc gì người ta còn nhớ đến mình; hơn nữa, lại gửi đến nơi mà người ta đã viết "sẽ không bao giờ trở lại!" Vậy mà nàng nhận được và trả lời sau một thời gian khá lâu!

“Kính anh,

Nhận được cái e-mail ni chắc anh rất ngạc nhiên vì LHcT biệt tăm biệt tích lâu ni, chừ tự dưng anh lại nhận được e-mail. Thật ra thì từ ngày giã biệt "cuộc chơi" mà không gửi được lời

chào đến anh, bứt rứt trong bụng lắm nhưng vì tâm hồn bất an, chao đảo quá nên không muốn làm gì cả. Bữa ni, dù vẫn chưa tìm lại được thăng bằng cho tâm hồn mình, nhưng đã có được một chút an bình; vì vậy, xin viết vài hàng gửi anh thay cho một lời xin lỗi và lời chào đến anh, một người mà tôi kính như người anh và mến như một người bạn thơ. Nhân tiện mời anh cùng nghe một bản nhạc hay.”

Trong bài nhạc có một đoạn thật hay, được lặp đi lặp lại nhiều lần; và tôi lại mò mẫm dịch phóng đoạn nhạc gửi lại cho nàng:

If my heart had wings

I would fly to you and lie

Beside you as you dream

If my heart had wings

If my heart had wings

I would fly to you and lie

Beside you as you dream

If my heart had wings

Nếu tim anh mọc cánh

Anh bay đến bên em

Mình nằm thủ thỉ hằng đêm

Như cơn mộng mị êm đềm rất thơ

Phải chi tim anh có cánh

Bay về ở cạnh bên êm

Tháng ngày dài bỗng dài thêm

Mà mơ với mộng hằng đêm... thật buồn

Và từ đó thư đi thư về có phần đều đặn hơn, càng ngày càng thông cảm, càng cởi mở tâm tình hơn. Hai chúng tôi ở cách xa nhau gần nửa vòng trái đất. Khi tôi uống café sáng là lúc nàng đang làm việc, và khi tôi đi ngủ là lúc nàng chuẩn bị đi làm. Chúng tôi kể cho nhau nghe về những kỷ niệm ấu thời, những buồn vui cuộc sống; chuyện quê hương đất nước, chuyện trên trời dưới đất, chuyện sinh hoạt hàng ngày... Đặc biệt tôi tìm thấy ở nàng tình yêu quê hương tổ quốc thật sâu đậm, tình người thật nồng nàn, nhân hậu; lẻ sống thật đơn giản nhưng lúc nào cũng cố gắng chu toàn trách nhiệm và bổn phận. Khi được hỏi có bao giờ gặp lại, nàng chỉ trả lời tất cả tùy duyên, gửi cho tôi hai câu thơ rất... chung chung:

Cứ hò hẹn như người trên phố ảo Cuộc đời này là tin nhắn với thơ suông.

Hôm cá sắp vượt vũ môn, tôi có cơ hội "chat" với nàng:

- Nhà anh cách Ellington Field bao xa?

- Chi vậy? Khoảng một tiếng lái xe!

- Bộ sắp đi việc hãng ghé ngang phi trường này huh?

- Không, chỉ hỏi cho biết địa dư thôi

- Sao đặc biệt là Ellington Field?

- Chỉ buột miệng nói chứ không có gì đặc biệt!

- Sao tui nghi quá!

- Ngày mô anh nghỉ dạy?

- Sau trưa thứ Bảy và nguyên ngày Chủ Nhật.

- Anh có thể có chừng ba tiếng đồng hồ, kể cả giờ lái xe không?

- Nhưng chi vậy, đừng làm người ta thắc mắc quá mà!

- Chưa biết chắc ra sao nhưng không thể nói trước được. Bao giờ chắc chắn sẽ cho anh hay.

- Qua thì nói qua cho rồi, úp úp mở mở làm cho người ta hồi hộp muốn chết!

- Không nói được muh!

Trong đầu tôi chắc mẫm "có lẽ nàng đi công tác cho hãng và sẽ ghé qua phi trường Ellington Field chừng tiếng đồng hồ". Nàng vẫn nói với tôi rất thường đi công tác ở các nước Âu châu và đã có một lần qua đến Mỹ:

- Nhưng nếu O tình cờ qua đây chỉ cần gọi điện thoại tui sẽ chạy tới "say HI" bất cứ lúc nào.

- Không qua mô! Chỉ là nói cho có chuyện nói thôi anh!

- Sao tui nghi quá!

Tôi vẫn đinh ninh, hồi hộp không biết nàng qua tới lúc nào. Mấy hôm sau tôi mới nhận được một email vỏn vẹn mấy câu làm tôi bàng hoàng không ít.

Anh gọi đến số: 713-649-5400 (Flying Tigers) và hỏi cô Victoria Laguna. Em đã mua cho anh một cái gift certificate theo họ đề nghị. Anh nói chuyện với họ để xếp đặt ngày nào thuận tiện cho anh há... em liên lạc với họ qua email nên chỉ biết được là anh có khoảng ½ giờ bay lòng vòng Houston với instructor. Em có nói với họ ngày xưa anh là phi công của South-Vietnam Airforce và họ nói với em là anh có thể tự tay điều khiển khi phi cơ đã ở trên trời... Họ nói vì anh đã không bay quá nhiều năm thì chỉ nên mua cái Discovery Flight là hợp lý nhất. Em không rành chuyện bay bổng nên chỉ nghe theo lời họ. Đây là món quà Sinh Nhật khiêm nhường của em. Cầu mong anh có một Sinh Nhật vui vẻ!

Đọc xong mấy dòng chữ tôi thừ người nghỉ ngợi hàng giờ! Cả một quá khứ hiện về làm tôi lao đao mất ngủ. Một quá khứ với biết bao nhiêu giờ đổ mồ hôi với các huấn luyện viên khó tính của các loại máy báy T41, T28, C123K, C130A và sau cùng là AC119K! Một quá khứ với nhiều gian lao, nguy hiểm không sờn lòng nhưng đầy nước mắt khi bạn bè chung đơn vị lần lượt hy sinh trên các chiến trường trong những ngày chinh chiến cũ. Một quá khứ thương ơi cho số phận phi công nhược tiểu, sống trong thiếu thốn trăm bề nhưng vẫn cười ngạo nghễ với tử sinh và sẵn sàng chết để bảo vệ an nguy cho dân, cho nước. Bao nhiêu lần chạm tay với tử thần để rồi một sớm một chiều sẩy đàn tan nghé trong đau thương, uất nhục!

Tôi mơ màng với cảm giác lâng lâng trên cánh gió; tôi hình dung chạm tay vào cần lái, một cảm giác tê điếng sau 34 năm tưởng đã lãng quên. Tôi nghĩ tới không gian bao la trong một ngày nắng đẹp. Ôi cũng không gian bao la với bao nhiêu lần nắng đẹp khi đi đó đi đây bằng phi cơ, nhưng khác rất nhiều vì trong không gian bao la đó tôi có dự phần điều khiển con tàu với tất cả cảm nhận sống lại một thời vàng son đã vuột khỏi tầm tay trong kinh hoàng, trong vội vã! Ôi một món quà tặng nhỏ nhoi nhưng nói lên biết bao nhiêu điều. Một món quà không ai nghĩ ra đã chứa đựng cả một trời dĩ vãng, chứa đựng một tấm lòng sâu sắc.

Của một thời bay bổng

Người bạn KQ đã dành thì giờ làm cho tôi một clip vui với những hình ảnh các loại phi cơ tôi đã một thời bay qua. Post lên đây chia sẻ cùng quý vị.

* * *

Tôi đã gọi điện thoại cho Victoria Laguna và hẹn 2 giờ chiều ngày thứ Bảy. Cô ta dặn đến sớm hơn một chút để dự phần "pre-flight briefing". Nghe cụm chữ quen thuộc mà lòng buồn nao nao. Nỗi xao xuyến trong lòng lâu lâu lại rộn lên như nhắp phải men rượu mạnh. Nhất là tối thứ Sáu, tôi ngủ trong phập phồng, mộng mị. Tôi tự trấn an "chỉ là ngồi chung với instructor nửa tiếng thôi mà!" Trong đầu cứ tự hỏi không biết có còn nhớ cách điều khiển con tàu không nữa! Lúc gần sáng tôi ngồi bật dậy mở hé cửa sổ nhìn ra bầu trời đen ngòm, dường như thấy cả bầu trời âm u, tôi lẩm bẩm "coi chừng thời tiết xấu không bay hôm nay được"! Tôi tỉnh ngủ, đi ra bếp pha café ngồi ngó ra cửa sổ thở dài chờ sáng! Bỗng dưng mây ở đâu kéo đến che kín trời đất, gió thổi lồng lộng. Tôi bực mình quá, nói lớn "thiệt tình ông trời!" Bỗng nghe tiếng nhà tôi vừa lay vai vừa nói:

- Anh à! Anh đang mơ thấy gì mà la lớn quá vậy?

- Hôm nay đã hẹn đi bay mà trời khi không nổi giông nổi gió!

- Đâu có đâu! Anh đang nằm ngủ trên giường sao biết được trời nổi giông gió ngày mai?

- Oh! Chỉ là giấc mơ thôi hả! Tôi vui mừng reo lên.

- Vâng, chỉ là giấc mơ!

Nhà tôi vổ vổ lên vai tôi như chia sẻ, thông cảm. Tôi tự cấu vào tay mình thấy đau, bước xuống giường vạch màn ngó ra cửa sổ... cho chắc ăn. Bên ngoài trăng sao vời vợi. Tôi yên tâm leo lên giường trùm chăn ngủ tiếp. Nhưng thật ra có ngủ được đâu, vẫn thao thao thức thức chờ sáng.

* * *

Buổi sáng lóng ngóng ngồi đọc thư trên net, uống café rồi đi ra vườn tưới nước cho hoa cỏ. Trời rất đẹp nhưng nhiều gió. Tôi lại nhớ về những kỷ niệm năm xưa với những lần đáp với gió ngang, gió giật ở các phi trường Pleiku, Quy Nhơn, Liên Khương, Sông Bé, Dương Đông...; những bữa ăn trưa cá độ với các trưởng phi cơ "ai đáp dở trả tiền ăn hôm nay". Đáp hay hay dở, ngoài sự khéo tay còn tùy thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết.

Tôi bật cười thành tiếng khi nhớ lại kỷ niệm "bay check out C123K" với một người Huấn Luyện Viên đang ở Houston bây giờ. Đó là thời gian chúng tôi mới về nước. Bất kể hồ sơ trường bay ra sao, chúng tôi đều phải bay một số giờ tái huấn luyện và check out hành quân. Check out nhanh hay chậm đều tùy thuộc vào khả năng bay bổng của mỗi người. Không biết sao hôm đó cả ba chúng tôi gồm có hai người bạn Khuyến Michigan và Hoàng Colorado - nguyên là ba tay "gạo cội" ở trường bay - được ông Đại Úy Bằng Phong ĐVA mang đi check out. Niên trưởng dễ thương này hồi ở phi đoàn nổi tiếng "chảnh" và "hắc ám".

Hôm đó ở phi trường Chơn Thành gió ngang rất mạnh. Sau một hồi giảng giải trên không, ông nói là "để tôi xem ba ông có đủ sức bay hành quân chưa". Ba đứa tôi thay phiên nhau cất cánh và đáp. Cả ba chúng tôi bay cở nào cũng bị chê, nào là đáp với tốc độ còn cao, round out hơi lâu, vào base không giữ tốc độ, quẹo hơi gắt, đáp hơi nặng, cất cánh hơi rough... Nghe ông chê bai chạm tự ái hết sức, cả ba đứa chỉ biết đưa mắt nhìn nhau phát quạu trong lòng.

- Mấy ông coi tôi đây này

Ông vừa bay vừa giảng giải lý thuyết, tới final approach ông chỉ con số ở đầu phi đạo:

- Mấy ông thấy con số phi đạo đó không, tôi sẽ chạm một bánh ngay con số cho các ông xem

Coi này, tốc độ nhé, decending rate đều đặn nhé, roud out này... này... rầm!

Tôi thót mông lên khỏi ghế lái, cả ba bật cười lớn cùng lúc. Máy bay đã đáp đúng con số nhưng mạnh quá làm giật mình. Ông thầy nổi giận, đỏ mặt tía tai:

- Mấy ông cười cái gì!

- Dạ hơi bị ê... ông thầy!

- Mấy ông có biết đó gọi là tactical landing không?

Tôi nhanh nhẩu đáp:

- Dạ thưa Đại Úy biết, nhưng mục đích tactical landing là nhằm tránh hot spot; mình từ trên cao độ, nhào xuống gấp và đáp một phát một với tối thiểu round out.

- Ông giỏi lý sự tôi về cho ông mấy củ bây giờ! (củ là bị phạt kỷ luật)

Tôi giật mình lo lắng "coi chừng không bị ký giấy phạt cũng bị cho điểm xấu thì than ôi... tiếp tục bay check out nữa!" Dù vậy, trong thâm tâm tôi cũng cảm phục tài bay của xếp. Vì với gió ngang và giật 25-35 knots/giờ như vậy mà ông đáp một chân lại đáp đúng spot mới thiên tài. Có lẽ phản ứng của chúng tôi là để trả thù vặt việc ông chê bai tụi tôi hết cách. Thế nhưng hú hồn, sau chuyến bay hôm đó cả ba chúng tôi đều được "ra ràng".

* * *

Xong ngoài vườn tôi trở vô nhà lôi chiếc áo bay cũ đã 34 năm qua chưa hề mặc lại. Nói là cũ chứ thật ra là chiếc áo mới nhất mà tôi giữ lại được, không đầy đủ phù hiệu, không có lon lá như những chiếc tôi đã nhanh chóng bỏ đi sau khi đến đất Mỹ năm xưa. Hồi đó chỉ nghĩ đơn giản là "mai mốt mình sẽ trở về" nên chỉ giữ lại cái mới nhất để dùng. Nếu biết trước "một đi không trở lại" chắc chắn tôi đã giữ tất cả dù cho cũ nát, sờn rách. Tôi mân mê chiếc áo với vô vàn xúc động. Tôi vuốt ve thân thiết chiếc áo một lúc xong xỏ chân vào với hy vọng còn mặc được. Tay tôi run run kéo tất cả zippers y theo trí nhớ hình ảnh ngày xưa của mình. Bộ đồ có hơi chật, có lẽ cái bụng đã lớn hơn với bơ sữa quê người. Tôi thót bụng kéo zipper lên, đội chiếc ca-lô lên đầu

và lặng ngắm mình trong gương với lưng tròng nước mắt... Tôi gọi nhà tôi chụp cho tôi tấm hình đứng trước bức tranh khổ lớn, chiếc Hercules C130A thân mến năm xưa. Bức hình này của Khiêm nháy đã in ra tặng cho bạn bè cùng phi đoàn 435 cũ. Tôi cố gượng cười nhưng sao tim mình nghe quặn thắt. Tôi xếp vội bộ đồ bay bỏ vào túi xách để mang theo, dự định đến trường bay sẽ thay đổi.

Mới hơn 11giờ rưỡi tôi đã hối thúc nhà tôi lên xe, chạy một mạch tới trường bay. Thời tiết rất lý tưởng cho chuyến bay hôm nay dù gió có hơi mạnh. Khi vào check in thì mới biết mình có trong danh sách bay discovery vào 2 giờ ngày mai, Chủ Nhật, chứ không phải hôm nay. Cô Victoria Laguna không có mặt lại không liên lạc được bằng điện thoại.

Tôi lầu bầu, cằn nhằn với một người tưởng đâu là nhân viên văn phòng, hóa ra lại là một Huấn luyện viên. Cô ấy nói:

- Cũng tốt cho ông thôi vì hôm nay gió cũng khá lớn.

- Tôi lại thích bay hôm nay, một ngày quá đẹp, tôi thiệt tình không muốn phải dời lại ngày mai! Cô có cách nào thay đổi cho tôi không, có huấn luyện viên nào khả dụng không?

- Xin lỗi không thể thay đổi được, thời khóa biểu đầy kín rồi, người chịu trách nhiệm lại không có ở đây, không có huấn luyện viên nào khả dụng. Vô vàn xin lỗi nhưng ngày mai, ông biết không, thời tiết tiên đoán sẽ đẹp hơn hôm nay nhiều.

Nỗi xao xuyến trong lòng tôi xẹp xuống nhanh chóng. Tôi cùng nhà tôi lủi thủi ra về, chấp nhận sự an bài như thế với câu an ủi trong đầu "cái gì xảy ra cũng có lý do của nó"!