Sức khỏe & sắc đẹp

Sức khỏe & sắc đẹp (96)

Hãy Cứ Sống Vui Dù Biết Mình Già

Hãy Cứ Sống Vui Dù Biết Mình Già

Bây giờ là Tháng 3, những bụi hoa Daffodil ở sân trước vườn sau nhà tôi đã bắt đầu hé nở báo hiệu mùa Xuân sắp đến, nhưng ở Portland, khí hậu bên ngoài vẫn lạnh cóng. Cậu công tử nhà tôi chở ba mẹ đi ăn ngoài ban đêm, dù đã mặc áo ấm nhưng “lão trượng”“lão bà bà” chúng tôi vẫn thấy lạnh run. Mà hể bị lạnh thì thế nào chúng tôi cũng nhảy mũi, ho hen. Mặc dầu cả hai chúng tôi uống hết một hộp thuốc NyQuil Severe Cold and Flu 24 viên để được ngủ yên ban đêm, nhưng sáng thức dậy cả chàng và nàng vẫn thỉnh thoảng ho lên vài tiếng cho rộn ràng mái ấm nhỏ bé của chúng tôi.

Con người lúc trẻ thì khỏe mạnh nhưng càng về già thì lại càng đau yếu nhiều hơn, giống như cây hồng cây lê của nhà người viết càng ngày càng cằn cỗi, thoái hoá không cho trái lớn như lúc mới trồng được nữa.

Con người cũng vậy, càng lớn tuổi các bộ phận trong người càng trở nên suy yếu nên không bị bịnh này thì cũng bị bịnh khác. Chúng ta cũng cần nên biết sự lão hóa của cơ thể chúng ta để tìm cách ăn uống đúng cách, vận động thể chất hợp lý, để bồi bổ và tăng cường sức khỏe hầu để tránh bớt đi một phần nào hậu quả tai hại của sự ăn uống, vận động không đúng cách đưa đến những bịnh nguy hiểm chết người.

Gần đây người viết tìm được tài liệu “Khi nào các bộ phận con người bắt đầu thoái hoá” trên internet.  Tài liệu này rất hữu ích giúp chúng ta hiểu rõ về con người của chúng ta hơn để rồi từ đó chúng ta có thể thay đổi nếp sống, cách sinh hoạt, cách ăn uống cho thích hợp với sự thay đổi thể chất này.

Tài liệu này rất dài nên không thể trình bày trong phạm vi bài viết 4 trang này của người viết được.  Người viết chỉ xin tóm tắt những điểm chính để chia sẻ với các bạn mà thôi  nhé.

 

Khi nào các bộ phận trong cơ thể con người bắt đầu thoái hóa? 

Già là một điều không ai tránh khỏi. Hiện nay các viện nghiên cứu y khoa đã cho biết một cách chính xác các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa từ lúc nào. Các bác sĩ người Pháp đã tìm thấy chất lượng tinh trùng bắt đầu suy thoái từ tuổi 35, bởi thế khi người đàn ông 45 tuổi thì một phần ba số lần mang thai sẽ dẫn đến sẩy thai. Angela Epstein đã viết trong Daily Mail, tuổi của các bộ phận trong cơ thể bắt đầu suy thoái như sau:

1.- Não bắt đầu suy thoái lúc 20 tuổi.
2.- Phổi lão hóa từ tuổi 20.
3.- Da suy giảm kể từ năm 20.
4.- Tóc lão hóa từ tuổi 30.
5.- Bắp thịt lão hóa từ năm 30.
6.- Vú bắt đầu thoái hóa từ năm 35.
7.- Xương lão hóa vào tuổi 35.
8.- Sinh sản mất khả năng từ năm 35.
9.- Răng suy từ tuổi 40.
10.- Mắt lão hóa từ năm 40.
11.- Tim lão hóa từ tuổi 40.
12.- Thận lão hóa năm 50.
13.- Tuyến tiền liệt lão hóa vào năm 50.
14.- Nghe giảm đi kể từ giữa năm 50.
15.- Ruột bắt đầu suy giảm từ tuổi 55.
16.- Vị giác và khứu giác giảm từ năm 60.
17.- Giọng nói bắt đầu yếu và khàn kể từ tuổi 65.
18.- Bọng đái bắt đầu suy thoái từ tuổi 65.
19.- Gan lão hóa từ năm 70.

Làm thế nào để làm chậm sự lão hóa? 

Già không phải là một bệnh nhưng già tạo điều kiện cho bệnh phát sinh và phát triển; cần chú ý một số đặc điểm sau:

– Người già thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, có bệnh dễ phát hiện, nhưng cũng có bệnh rất kín đáo, tiềm tàng, nguy hiểm.

– Triệu chứng ít khi điển hình, không ồ ạt, không rõ rệt, nên khó chuẩn đoán, dễ sai lạc nếu ít kinh nghiệm.

– Khả năng phục hồi sức khỏe sau các trận ốm thường chậm hơn so với người trẻ, nên sau điều trị phải có thời gian an dưỡng.

 Một số biện pháp làm giảm tốc độ lão hóa:

Học thuyết âm dương của y học cổ truyền chứng minh con người là một chỉnh thể giữa âm dương, giữa khí và huyết. Luôn luôn thăng bằng với nhau từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong theo một quy luật nhất định, để duy trì sự sống của con người được bền vững dài lâu. Vì thế muốn giảm tốc độ lão hóa cần phải:

Về tư tưởng luôn luôn lạc quan yêu đời, chủ động gạt bỏ những cái làm ảnh hưởng đến bộ não, hạn chế tối đa nỗi cô đơn, giải quyết tốt nhất mối quan hệ xã hội và gia đình, có triết lý sống đúng; phải chú ý cả 3 vấn đề: lẽ sống, lối sống và hành động sao cho khoa học văn minh để loại trừ 7 nguyên nhân gây bệnh của Đông y là: hỷ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng.

Muốn được thảnh thơi phải có kiến thức, phải có hiểu biết để nhìn nhận vấn đề sao cho đúng đắn qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình để làm chủ được mình và giáo dục cho gia đình, con cháu giảm các nỗi bực dọc và tự chăm lo cho mình.

Thường xuyên luyện tập đều đặn về trí tuệ và thể lực như đọc sách báo, nghe đài, xem TV… đồng thời tập thể dục thể thao, đi bộ, tập thở, tĩnh tâm thư giãn, v.v… phù hợp với hoàn cảnh và sức khỏe từng người.

Kiên trì áp dụng 10 bài học về sức khỏe của Nhật Bản, đất nước được mệnh danh là “vương quốc của tuổi thọ” vì có tuổi thọ cao nhất thế giới hiện nay.

10 bài học đó là:

– Bớt ăn thịt, ăn nhiều rau
– Bớt ăn mặn, ăn nhiều chất chua
– Bớt ăn đường, ăn nhiều hoa quả
– Bớt ăn chất bột, ăn nhiều sữa
– Bớt mặc nhiều quần áo, tắm nhiều lần
– Bớt đi xe, năng đi bộ
– Bớt phiền muộn, ngủ nhiều hơn
– Bớt nóng giận, cười nhiều hơn
– Bớt nói, làm nhiều hơn
– Bớt ham muốn, chia sẻ nhiều hơn

Những bài học trên có tác dụng rất lớn đối với những người bị tăng huyết áp, bệnh tim mạch, ung thư dạ dày, viêm gan…

Biết cách sống, ta có thể làm chậm được quá trình lão hóa, kéo dài được tuổi thọ, có thể điều chỉnh được chiếc đồng hồ sinh học trong con người chúng ta chạy chậm lại, ta cũng có thể giữ bộ máy cực kỳ tinh vi của ta được bền vững lâu dài hơn.

Thôi thì ta cứ vui mà sống trong hiện tại với gia đình, với con cháu hơi đâu mà lo nghĩ nhiều làm chi cho mệt vì có lo nghĩ nhiều quá con bò vẫn trắng răng và con người không ai thoát khỏi vòng sinh lão bịnh tử.

Xin bạn hãy sống với cái Tâm bình thường của Đạo thì bạn sẽ thấy vui liền.

Bình thường tâm

– Bạch thầy, sống theo Đạo một cách siêng năng là thế nào?
– Khi đói hãy ăn, khi mệt hãy ngủ.
– Đó là những điều mà mọi người thường làm mà?
– Không, không! Hầu hết mọi người đều không làm như vậy. Khi ăn, mọi người đầy những suy tư, ao ước và khi ngủ lại đầy những lo toan.

Lời bình

Có bao nhiêu người mà mỗi sáng thức dậy mà đầu óc không bận bịu những chuyện quá khứ?

Con người phải vứt bỏ những điều nguy đã gây ra bão tố nội tâm và sống theo bản chất nguyên thuỷ của họ vì Đạo nằm ngay trong đời sống hằng ngày.

Xin mời Bạn đọc bài thơ Những Kẻ Trường Xuân của Thầy Thích Tánh Tuệ để làm kết luận cho bài tâm tình hôm nay của người viết.
Kính tri ân Thầy.

Những Kẻ Trường Xuân

Họ, người không tuổi tác
Bao Xuân vẫn không già
Họ cứ hoài trẻ mãi.
Xinh như là bông hoa.
Họ là ai thế nhi?
Mà khác với người ta.

Họ là người có thật
Ở dưới trần, không xa!
Họ là người lạ lắm
Rất dễ dàng bỏ qua.

Có khi nhìn cả giận
Dăm phút sau cười xòa.
Họ cũng yêu, cũng ghét
Đôi khi họ cũng buồn
Họ cũng thường xét nét.
Nhưng Biết, rồi họ buông!

Họ là người rất lạ
Chẳng toan tính, thiệt hơn
Hay nói lời: “Thôi kệ!”
Mặc đời kia xem thường…

Họ là người rất ngộ
“Hồn nhiên như cô tiên!”
Sống với lòng rộng mở
Dẫu nhiều khi… không tiền!

Họ là người Biết Đạo
Biết cảm ơn cuộc đời
Cười trong mọi hoàn cảnh
Chẳng Xuân về mới vui.

Họ là người rất đẹp
Dù đời nhiều Xuân qua
Họ trẻ nơi thần thái
Chứ đâu vì nước da.

Họ là người rất lạ!
Gặp được là thắng Duyên
Chẳng tin? soi gương thử
Biết đâu chừng… rất quen!!

Như Nhiên Thích Tánh Tuệ

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

Hồng Anh sưu tầm

Xem thêm...

Tâm lý ảnh hưởng đến tuổi thọ

Tâm lý ảnh hưởng đến tuổi thọ

 BM

Theo truyền thống văn hóa người Việt, những ai qua đời dưới 60 tuổi thì gọi là hưởng dương, và những ai qua đời khi được 60 trở lên gọi là hưởng thọ. Trong cái thọ ấy lại chia ra thất thập cổ lai hy, thượng thọ bát tuần, và đại thọ cửu tuần và 100 tuổi.

 

Nhưng sống lâu có phải là sống thọ không? Có những người ra vào bệnh viện như đi chợ. Cũng có những người mang các chứng bệnh như đau tim, cao máu, cao mỡ, tiểu đường kéo dài hàng chục năm. Người khác lại sống trong tuổi già đau khổ vì con cháu, hoặc  nằm liệt trên giường, lúc tỉnh, lúc mơ sống không bằng chết. Trong những trường hợp như vậy, sống lâu chưa chắc đã là sống thọ! Sự khác biệt không căn cứ theo thời gian, nhưng còn tùy vào ý nghĩa và giá trị của cuộc sống.

 

SỐNG LÂU VÀ SỐNG THỌ

 

BM

Hưởng dương, thượng thọ, hay đại thọ chỉ là cái nhìn về năm tháng, ngày giờ mà một người đã đi qua trong cuộc đời.

 

Nhưng sống lâu thì sao? Có nhiều người phải trải dài 5 năm, 7 năm, hay 10 năm trên giường bệnh, hoặc những tháng ngày sống thực vật. Để kéo dài hơi thở, tất cả đều lệ thuộc vào thuốc, sự săn sóc của y khoa và của người thân.

 

BM

Tính đến năm 2022, trên thế giới ước tính có 32 triệu người mang hội chứng về trí nhớ (Alzheimer’s disease dementia), 69 triệu phát hiện sớm bệnh mất trí nhớ (Alzheimer’s disease), và 315 triệu với những triệu chứng bệnh tiền mất trí nhớ. [1] Nếu quan niệm sống thọ với những thành quả đạt được về tuổi tác, sức khỏe, bình an, hạnh phúc, vui vẻ bên con cháu, giúp người và giúp đời, thì ngược lại, những năm tháng trên giường bệnh, đau đớn thể xác, nặng nề tâm hồn, tạo gánh nặng cho con cháu và để lại những mất mát cho đời không hẳn là sống thọ.

 

SỐNG THỌ LÀ SỐNG CÓ Ý NGHĨA

 

BM

Năm tháng sống của một người tùy thuộc vào nhiều yếu tố, quan trọng nhất là do trời ban cho, tiếp đến là do con người có biết trân quý nó, và có biết cách để sống hay không. Nhất là cuộc sống ấy có mang lại ý nghĩa cho mình và cho đời hay không?

 

Mỗi lần đi qua các ngã ba, ngã tư đường, hoặc băng qua những gầm cầu, góc tối của công viên, thường thấy xuất hiện những con người rất đáng thương. Họ sống lang thang, vất vưởng, dơ dáy và không tương lai. Nhiều người trong họ còn rất trẻ, khỏe mạnh, và trông bề ngoài có vẻ thông minh nữa. Điều gì đã khiến họ ra nông nỗi này. Thất nghiệp, thất tình, gia đình tan vỡ? Hay rơi vào cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập, và trác táng bê tha? Dù gì đi nữa, sự lựa chọn của họ để dẫn đến tình trạng hiện tại cũng đóng vai trò quan trọng. Nếu không có quyết định làm lại cuộc đời, thì tuổi đời càng tăng, ý nghĩa tuổi thọ của họ càng giảm.

 

TÂM LÝ VÀ TUỔI THỌ

 

BM

Theo kết quả khảo cứu cho biết 20% sức khỏe của chúng ta có liên quan đến sự săn sóc y tế; phần còn lại 80% lệ thuộc vào kinh tế xã hội, môi trường, và thái độ sống được xem như không liên quan gì đến thuốc men và y tế. [2]

 

Thái độ sống ấy, khoa học gia Elizabeth H. Blackburn, khôi nguyên giải Nobel về Sinh Học giải thích đó là sống lâu, sống thọ không phải do ăn uống hay vận động, mà là do cân bằng về tâm lý. Bà phân tích những yếu tố dẫn đến tuổi thọ gồm ăn uống chỉ chiếm 25%, vận động, tập luyện hay thuốc men chiếm 25%, còn lại 50% tùy thuộc vào sự cân bằng về tâm lý.

 

Tại sao 50% tâm lý ổn định hoặc bất ổn ảnh hưởng tới tuổi thọ của một người?

 

BM

Tương quan tâm sinh lý là điều chắc chắn và hiển nhiên. Chúng có những tác động qua lại lẫn nhau rất kỳ diệu và phức tạp. Đa số các trường hợp, yếu tố “nhân quả” thường thấy trong chiều hướng từ “tâm” qua “sinh”, như khi con người thấy sảng khoái thì lượng endorphins trong người tăng cao, nhưng không phải vì endorphins cao mà ta thấy sảng khoái. Nếu cả ngày bất an, hay cáu gắt, lo lắng, sẽ khiến áp lực kích thích tố luôn ở mức cao, hệ thống miễn dịch sẽ bị ngăn chặn và tiêu diệt, hệ thống máu huyết hoạt động quá nhiều dẫn đến mệt mỏi. Hậu quả của nó dễ làm cho người ta bị căng thẳng là nguyên nhân của tình trạng mập phì, tim mạch, lú lẫn (Alzheimer’s disease), tiểu đường, trầm cảm và những chứng bệnh về tiêu hóa, ảnh hưởng đến tuổi thọ.

 

Khi vui, não bộ tiết ra kích thích tố hưng phấn. Thế thì, trong cuộc sống, chúng ta nên làm cách để có được kích thích tố hưng phấn.

 

BỒI BỔ SỨC KHỎE TÂM LÝ

 

BM

Năm 2019 theo Cơ Quan Y Tế Thế Giới (the World Health Organization), trung bình 1 trong 8 người hay 970 triệu người trên thế giới thường sống với một hội chứng tâm thần, lo âu, bồn chồn, lo lắng và trầm cảm.

 

Cảm giác đạt mục tiêu càng mạnh càng giúp cơ thể khỏe khoắn. Bởi vì trong cuộc sống, đam mê quyết định tâm thái con người, quyết định trạng thái sống. Trạng thái thoải mái phát triển sẽ thúc đẩy hoạt động của não, đẩy lùi tuổi già.

 

Người trung lão niên sau khi nghỉ hưu có thể dành giờ đọc sách, viết lách, nghiên cứu, hoặc học thêm một thú tiêu khiển như khiêu vũ, hội họa, âm nhạc, đi dạo để giúp não bộ luôn trong trạng thái hoạt động. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong bài nghiên cứu về tuổi già cho rằng tinh thần là thể năng của con người, nhưng trong cuộc sống bộn bề lo toan, áp lực tinh thần tự nhiên sẽ gia tăng, ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Chỉ cần chúng ta giữ tinh thần thoải mái, thì sẽ không dễ mắc các chứng bệnh thông thường, ít mang trọng bệnh. Ngoài ra:

 

Vui vì giúp đỡ người khác

 

BM

Giúp đỡ người khác về vật chất có thể giảm tỷ lệ tử vong xuống 42%. Giúp ổn định tinh thần, có thể giảm tỷ lệ tử vong dưới 30%. Tốt với người khác và làm việc thiện sẽ tạo cảm giác vui tươi và tự tin, giảm kích thích tố áp lực, thúc đẩy kích thích tố hưng phấn. Theo các chuyên gia tâm lý và tâm thần, duy trì thói quen giúp đỡ người khác là phương pháp phòng và điều trị trầm cảm. Hãy nhớ luôn giữ nụ cười, cho đi niềm vui: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.”

 

Gia đình hòa thuận

 

BM

Đứng số 1 là “quan hệ người với người”. Đây là kết quả sau 20 năm nghiên cứu của hai nhà tâm lý học người Mỹ. Theo đó, quan hệ tình người là một trong số các nhân tố quyết định tuổi thọ. Liên hệ người với người không chỉ bao gồm bạn bè, mà còn bao gồm quan hệ gia đình. Kết luận: Gia đình hòa thuận, bạn bè tốt là một trong những yếu tố quyết định tuổi thọ con người.

 

Ăn uống điều độ

 

BM

Người già thường nghe nói về chế độ dinh dưỡng. Phải ăn gì, uống gì, ăn thứ này, kiêng thứ khác theo sách vở, người này, người kia mách bảo, hoặc do bác sĩ hướng dẫn. Nói chung, chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử.

 

“Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng ăn uống có chừng mực lại là điều cần phải lưu ý đối với sức khỏe.

 

Tâm tĩnh thân an

 

BM

Sau cùng và cũng là điều quan trọng nhất để tăng tuổi thọ là dưỡng tâm, giữ cho tinh thần thoải mái, an nhiên. Rất nhiều bệnh nhân với những chứng như tiêu hóa, khó ngủ, hoặc viêm kinh niên, tất cả đều phát xuất từ sự bất an của tâm hồn. Theo Lm. Bình Phạm, Học Viện Phanxicô Thủ Đức, phải chăng đó cũng là phản ảnh chữ Hòa mà triết học Á Đông vẫn cổ võ: Thiên – Địa – Nhân? Khi đánh mất chữ Hòa thì nụ cười của tâm an, tường trí, và thiện hành cũng chẳng còn chỗ! Tóm lại, tâm phải tĩnh thì thân mới an, và khi tâm tĩnh thân an thì mới khỏe mạnh, sống vui.

 

Cũng theo khoa học gia Elizabeth H. Blackburn, giữ cho tâm tĩnh đây còn là một hình thức cầu nguyện, suy niệm hay thiền (meditation). Hãy dành nửa tiếng hoặc một giờ mỗi ngày cho riêng mình trong thinh lặng và chỉ riêng cho mình. Nhắm mắt lại, để lòng hướng về cõi bình an, hòa mình vào thiên nhiên, vào vũ trụ bao la, gạt bỏ tạp niệm, vui, buồn, hờn giận, tham sân si. Hít sâu thở dài. Những giây phút thư giãn tâm linh này chính là liều thuốc an thần vô giá kéo dài tuổi thọ. [3]

 

 

Trần Mỹ Duyệt

 

Hồng Anh sưu tầm

Xem thêm...

Giao tiếp bằng mắt làm sâu sắc thêm tình thân

Giao tiếp bằng mắt làm sâu sắc thêm tình thân

 Hãy tưởng tượng một người mẹ đang chăm sóc đứa con mới sinh của mình. Mặc dù thị lực của em bé còn chưa phát triển, nhưng các nhà khoa học tin rằng trẻ sơ sinh đã có mạng lưới thần kinh chuyên để nhận biết đôi mắt của mẹ cách xa 8 đến 12 inch. Thú vị thay, đây cũng chính là khoảng cách từ mắt của người mẹ đến ngực. Thiết kế đáng chú ý này cho phép người mẹ kết nối theo bản năng với đứa con mới sinh của mình thông qua cái nhìn hướng về nhau của họ.

Tiến sĩ Martha Welch giám đốc sáng lập chương trình khoa học nuôi dưỡng tại Đại học Columbia đã viết, “Giao tiếp bằng mắt rất quan trọng đối với sức khỏe.” “Chúng ta được lập trình để làm điều đó từ khi sinh ra.”

Giống như nhiều bác sĩ tâm thần nhi khoa khác, Tiến sĩ Welch tin rằng “ngôn ngữ giao tiếp bằng mắt thân mật” giữa người mẹ và trẻ sơ sinh là giai đoạn giao tiếp nền tảng cần được khuyến khích. Nó giúp chúng ta xây dựng những mối quan hệ bền chặt trong suốt cuộc đời.

Điều quan trọng đối với sức khỏe của bạn

Nhưng các loại màn hình điện tử đang làm gián đoạn mối liên kết thị giác này. Một nghiên cứu cho thấy khoảng 30% các bà mẹ cho con bú bình bị phân tâm bởi một dạng công nghệ nào đó. Trong một nghiên cứu khác, khoảng 10% các bà mẹ cho con bú cho biết họ sử dụng điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng.

Với ít cơ hội thực hành giao tiếp bằng mắt hơn, ngày càng có nhiều trẻ em ở Hoa Kỳ lớn lên với sự ngượng ngùng trong giao tiếp bằng mắt. Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, gần 10% thanh niên từ 13 đến 18 tuổi gặp phải những lo lắng xã hội. Đối với những đứa trẻ này, giao tiếp bằng mắt là sự căng thẳng và không thoải mái đến mức các nhà nghiên cứu có thể quan sát được những thay đổi đáng kể trong hoạt động của bộ não.

Nhưng điều gì làm cho giao tiếp bằng mắt có sức mạnh như vậy? Làm thế nào một người có thể vượt qua sự ngại ngùng khi giao tiếp bằng mắt ở bất kỳ độ tuổi nào và tận dụng những lợi ích của giao tiếp bằng mắt? Chúng ta hãy xem xét câu hỏi này và thiết lập duy trì giao tiếp bằng mắt trong các mối quan hệ và tương tác của chúng ta.

Trò chơi ú òa: Tại sao giao tiếp bằng mắt lại quan trọng

Bắt đầu từ khi còn ẵm ngửa, việc nhìn nhau bằng mắt là nguồn vui của những bậc cha mẹ giàu tình cảm và là một trong những giai đoạn quan trọng mà các bé có được.

Đáng chú ý là trẻ sơ sinh có thể quan tâm đến khuôn mặt của mẹ trong vòng vài giờ sau nhịp thở đầu tiên. Trẻ sơ sinh từ 2 đến 5 ngày tuổi thích nhìn lẫn nhau hơn là nhìn ra chỗ khác.

Theo tiến sĩ Uwellch, “Khi một người mẹ rời khỏi điện thoại và tiếp tục giao tiếp bằng mắt, em bé sẽ cố gắng giao tiếp nhiều hơn.”

Đáng chú ý, mắt chúng ta có các thụ thể đối với oxytocin và phenylethylamine, cả hai đều được coi là chất xúc tác của tình yêu liên quan đến sự gắn kết.

Mối quan hệ gia đình cũng trở nên sâu sắc hơn trong thời gian chơi trò ú oà: Với bàn tay bịt mắt lại, rồi đưa tay ra khỏi mắt, các bà mẹ trên toàn thế giới chia sẻ niềm vui của trò chơi văn hóa toàn cầu này. Thoạt đầu, trò chơi sẽ gặp phải vẻ mặt bàng hoàng của đứa trẻ. Đối với một đứa trẻ non nớt, việc không nhìn thấy mặt người mẹ đồng nghĩa với việc bà đã biến mất.

Tuy nhiên, vào khoảng 6 đến 8 tháng, các em bé nhận ra rằng mẹ chỉ trốn đi một chút, và trò chơi ú òa này trở nên thú vị. Khoảng 9 đến 11 tháng tuổi, trẻ phát triển khả năng dõi theo ánh mắt của người khác và bắt đầu nhìn về hướng mà người khác đang quan sát.

Những tiến bộ trong việc nhìn bằng mắt này cũng cho thấy sự phát triển của bộ não và khả năng giao tiếp đang đi đúng hướng. Các chuyên gia nhi khoa thường xuyên kiểm tra sự phát triển trong giao tiếp bằng mắt. Nếu tiêu chuẩn không đạt, thì nhiều nguyên nhân sẽ được xem xét, bao gồm khoảng cách với cha mẹ, thiếu giao tiếp bằng mắt hoặc tiếp xúc quá mức với truyền thông kỹ thuật số.

Mặc dù tất cả những điều này xảy ra từ rất sớm, nhưng ánh mắt vẫn là phần thiết yếu của các mối quan hệ trong suốt cuộc sống.

Khi mắt nhìn vào mắt: Bộ não phản ứng như thế nào?

Khi nói đến ngôn ngữ cơ thể, giao tiếp bằng mắt thường là điều đầu tiên chúng ta chú ý khi gặp gỡ người khác.

Các nghiên cứu đã chứng minh rằng khi người ta nhìn vào mắt một người bạn ngoài đời thực, hoạt động thần kinh của bộ não tăng cao. Các hiện tượng thần kinh tương tự đã bị thiếu vắng khi nhìn vào một bức ảnh kỹ thuật số trên màn hình. Các nhà khoa học tin rằng điều này một phần bắt nguồn từ mạng lưới thần kinh trong não chuyên xử lý các tín hiệu không lời của mắt và các thông điệp mà mắt truyền tải.

Giao tiếp bằng mắt cũng là ưu tiên hàng đầu khiến não tin tưởng và giúp chúng ta cảm thấy đồng cảm khi nói chuyện với ai đó.

Điều này đã được chứng minh trong một nghiên cứu hình ảnh thần kinh (neuroimaging study) năm 2019, trong đó một nhóm các nhà khoa học Nhật Bản quan sát những gì xảy ra trong bộ não trong thời gian thực khi hai người lớn nhìn nhau. Được xuất bản trên eNeuro, nghiên cứu cho thấy rằng giao tiếp bằng mắt chuẩn bị cho sự đồng cảm bằng cách kích hoạt đồng thời các khu vực giống nhau trong não của mỗi người.

Cụ thể, tiếp xúc bằng mắt được chứng minh là kích hoạt hệ thống limbic (*) một tập hợp các vùng não được kích hoạt cả khi mắt hoặc bất kỳ bộ phận nào của cơ thể di chuyển vào lúc chúng ta quan sát người khác và khi họ cũng được kích hoạt vùng vỏ não tương tự.

Nói cách khác, trong một cuộc trò chuyện, giao tiếp bằng mắt kích thích cùng một khu vực trong bộ não ở cả hai người, điều này có nghĩa là các cá nhân phải hòa hợp với nhau. Sự “đồng bộ hoá hệ thống limbic” này cho thấy sự đồng cảm có thể được sinh ra từ ánh nhìn với một người hoặc nhiều người.

Nó cũng cho ta cái nhìn sâu sắc về vai trò của giao tiếp bằng mắt trong việc hiểu được tông màu cảm xúc, đưa ra kết luận, và đôi mắt được cho là cửa sổ tâm hồn chúng ta thông qua đôi mắt ta có thể hiểu sâu sắc về người khác và ngược lại, cảm thấy được thấu hiểu.

Nhận ra bạn hoặc oan gia

Để thuyết phục giả thuyết giao tiếp bằng mắt, các nhà nghiên cứu từ Đại học Northeast ở Boston đã giải thích rằng giao tiếp bằng mắt tạo nên ấn tượng của chúng ta về người khác. Theo nghiên cứu của họ, chúng ta nhận thấy những người giao tiếp bằng mắt nhiều hơn sẽ thông minh hơn, chân thành hơn và tận tâm hơn.

Tuy nhiên, việc nhìn vào mắt nhau quá lâu hơn tám giây có thể khiến người ta cảm thấy khó chịu, theo một nghiên cứu được công bố trên Royal Society Open Science (Tập san mở về Khoa học Xã hội Royal). Chẳng hạn, cha mẹ, anh chị em, hoặc thậm chí là người lạ cũng có thể dùng ánh mắt mạnh mẽ để báo hiệu rằng họ không hài lòng hoặc thậm chí tức giận.

Khả năng phân biệt ý nghĩa trong một tình huống căng thẳng như vậy phân biệt giữa bạn và kẻ thù phụ thuộc vào cách các tế bào thần kinh não được kích hoạt trong hạch hạnh nhân và vỏ não trước trán.

Hạch hạnh nhân là phần cảm xúc cốt lõi của bộ não, phản ứng theo bản năng với các mối đe dọa, trong khi vỏ não trước trán là phần cuối cùng của não phát triển hoàn toàn. Nó kiểm soát các chức năng điều hành, chẳng hạn như ra quyết định và kiểm soát xung lực.

Tóm lại, việc hiểu được ý định của ai đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tín hiệu ngôn ngữ cơ thể, văn hóa và hoàn cảnh. Tuy nhiên, giao tiếp bằng mắt vẫn làm tăng khả năng kết nối tình cảm với người khác.

Dù vậy, giao tiếp bằng mắt không phải là điều dễ chịu với tất cả mọi người.

Đặt màn hình điện tử xuống để khôi phục kết nối con người

Chúng ta sống trong một thế giới nơi cha mẹ có thể ăn mừng sự phát triển với trái tim kỹ thuật số (digital hearts), và những đứa trẻ có thể trấn an lẫn nhau bằng những biểu tượng cảm xúc (thumbs-up emojis). Giao tiếp kỹ thuật số là cách người ta sống và làm việc, và đó là cách tuyệt vời để theo kịp những cập nhật mới nhất trong cuộc sống.

Theo nghiên cứu của Công ty Nielsen, trung bình một người Mỹ dành 11 tiếng mỗi ngày để nghe, xem, đọc, hoặc tương tác với truyền thông.

Tiến sĩ tâm lý xã hội học Sherry Turkle và là giám đốc sáng lập của Viện Công nghệ Massachusetts lĩnh vực trí tuệ nhân tạo cho biết trong cuộc phỏng vấn do Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ tổ chức, “Con cái chúng ta ít sẵn sàng ngồi vào bàn ăn tối và nói chuyện với chúng ta.”

Bà nói thêm, “Có vẻ như chúng ta đã từ chối nhìn thấy bằng chứng trước mắt chúng ta và trong lòng chúng ta rằng công nghệ đã làm xói mòn sự đồng cảm như thế nào.”

Như liều thuốc có thể trị bách bệnh cho dịch bệnh mất kết nối này, Tiến sĩ Welch đưa ra một giải pháp đơn giản.

“Nếu chúng ta gặp khó khăn khi giao tiếp bằng mắt, đó là dấu hiệu cho thấy chúng ta cần phải kết nối.”

Giao tiếp bằng mắt đòi hỏi phải thực hành

Giống như việc rất khó để điều chỉnh lại bộ não của chúng ta từ những thói quen cũ, giao tiếp bằng mắt có thể khiến chúng ta cảm thấy không tự nhiên hoặc khiến một người lo lắng nếu không luyện tập. Đôi khi một ánh nhìn an ủi cũng có thể vô tình gây căng thẳng cho những người này, bà Rachel Duval huấn luyện viên kỹ năng diễn thuyết và truyền thông công chúng.

Bà Duval sinh sống và làm việc tại thành phố New York. Các khách hàng của bà là giám đốc điều hành từ Netflix và Google. Bà cho biết một số người có xu hướng quá nhạy cảm với việc giao tiếp bằng mắt.

Bà trích dẫn nghiên cứu cho thấy bộ não của những người tự kỷ trải qua nhiều hoạt động hơn trong hạch hạnh nhân từ những biểu hiện trên khuôn mặt của mọi người. Điều này có nghĩa là họ có thể tránh giao tiếp bằng mắt vì nó có thể gây ra kích thích quá mức.

Các lý do khác khiến một số người tránh nhìn vào mắt có thể vì họ cảm thấy bị xem xét kỹ lưỡng hoặc bị căng thẳng khi họ là trung tâm của sự chú ý. Tuy nhiên, giao tiếp bằng mắt là một kỹ năng sẽ trở nên tốt hơn khi thực hành đối với hầu hết mọi người.

Nếu bạn ngại ánh mắt, hãy bắt đầu luyện tập với một người bạn thân thiết, như một thành viên trong gia đình hoặc một người bạn. Sau đó, hãy cố gắng nắm bắt các tình huống có tính chất rủi ro cao hơn, chẳng hạn như những khoảnh khắc giao tiếp bằng mắt khi nói chuyện với đồng nghiệp. Tương tự, cha mẹ có thể khuyến khích những thói quen này ở nhà, giống như dạy trẻ sử dụng những từ lịch sự như “xin vui lòng” và “cảm ơn”.

5 lời khuyên của chuyên gia để thực hành giao tiếp bằng mắt ở mọi lứa tuổi

Dưới đây là một số mẹo dễ dàng để thực hành giao tiếp bằng mắt:

* Thiết lập giao tiếp bằng mắt ngay từ đầu cuộc trò chuyện: Trước khi nói chuyện với ai đó, hãy giao tiếp bằng mắt đủ lâu để nhận biết màu mắt của người kia.

* Duy trì giao tiếp bằng mắt trong ba đến năm giây: Sau khi bạn đã thiết lập giao tiếp bằng mắt, hãy giữ nó trong khoảng ba đến năm giây mỗi lần. Khi ngừng giao tiếp bằng mắt, hãy liếc sang một bên trước khi thiết lập lại.

* Nhìn đi chỗ khác khi cần: Khi nói chuyện với ai đó, việc thường xuyên rời mắt khỏi người khác là điều tự nhiên, đặc biệt là khi bạn tập trung suy nghĩ hoặc chạm vào cảm xúc của mình.

* Nhìn đi chỗ khác một cách chậm rãi: Khi bạn nhìn đi chỗ khác, hãy thực hiện thật chậm rãi. Nhanh chóng đưa mắt đi chỗ khác có thể khiến bạn trông có vẻ lo lắng. Hơn nữa, việc nhìn xuống cho thấy bạn kém tự tin.

* Lắng nghe bằng mắt: Khi lắng nghe ai đó nói chuyện với bạn, điều quan trọng là phải giao tiếp bằng mắt với họ. Gật đầu hoặc sử dụng các cách diễn đạt khác để cho họ biết bạn quan tâm đến cuộc trò chuyện.

Hãy nhớ rằng, “Nếu bạn ngại giao tiếp bằng mắt thì bạn cũng ngại mỉm cười,” bà Duval nói thêm. “Tôi thường bảo mọi người rằng hãy thử mỉm cười vì nụ cười sẽ khiến người khác cảm thấy thoải mái và cũng khiến bạn cảm thấy thoải mái.”

 

Chú thích của dịch giả

(*) Hệ thống limbic là một nhóm các cấu trúc liên kết nằm sâu trong bộ não, có nhiệm vụ kiểm soát cảm xúc và hành vi của con người. Các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất về danh sách đầy đủ các cơ quan trong hệ thống limbic.

 

Cara Michelle Miller  _  Công Thành

Nam Mai sưu tầm

Xem thêm...

Yêu Thương Làm Não Bộ Khỏe Mạnh Và Sống Thọ

Yêu Thương Làm Não Bộ Khỏe Mạnh Và Sống Thọ

Khoa học gia Marian Cleeves Diamond tại giảng đường Đại Học UC Berkeley, California, Hoa kỳ.

Marian Cleeves Diamond (1926-2017) là nữ khoa học gia người Mỹ chuyên về não. Bà và nhóm làm việc của bà lần đầu tiên đã công bố bằng chứng cho thấy não có thể thay đổi theo kinh nghiệm và cải thiện theo sự bồi bổ, điều mà ngày nay gọi là khả năng thay đổi của hệ thần kinh để đáp ứng với kích thích bên trong và bên ngoài (neuroplasticity), theo một bài viết đăng trên trang nhà Đại Học UC Berkeley.(1)

“Nghiên cứu của bà cho thấy tác động của việc bồi bổ lên sự phát triển của não – một sự hiểu biết đơn giản nhưng có sức mạnh mà đã thay đổi thế giới, từ cách chúng ta nghĩ về chính mình tới cách chúng ta nuôi dạy con cái của chúng ta,” theo giáo sư về sinh học của Đại Học UC Berkeley George Brooks, cũng là một đồng viện của bà Diamond. “Tiến Sĩ Diamond cho thấy về mặt cơ thể học, lần đầu tiên, những gì chúng ta hiện nay gọi là khả năng thay đổi để đáp ứng với kích thích bên trong và bên ngoài của não bộ. Khi làm như thế bà đã phá bỏ khuôn mẫu cũ của sự hiểu biết về não như là một thực thể tĩnh và không thể thay đổi mà chỉ thoái hóa khi chúng ta lớn tuổi.” (2)

Trong những phần tiếp theo của bài này sẽ tìm hiểu sơ lược cuộc đời của nữ khoa học gia người Mỹ này cùng với phương thức nghiên cứu, các kết quả ấn tượng, và những ảnh hưởng sâu rộng của chúng không chỉ trong khoa học não mà còn lan ra nhiều lãnh vực khác trong đời sống của nhân loại.

Sơ lược cuộc đời của Marian Cleeves Diamond

Marian Cleeves Diamond sinh vào ngày 11 tháng 11 năm 1926 tại Thành phố Glendale, California, Hoa Kỳ, là người con út trong 6 người con của Tiến sĩ Motague Cleeves, di dân từ miền bắc nước Anh, và Rosa Marian Wamphler, sinh viên Đại Học UC Berkeley là người đã bỏ việc theo học Tiến sĩ để nuôi các đứa con của bà tại Thành phố La Crescenta. (3) Giống như những anh chị em của mình, Marian vào học trường ngữ pháp La Crescenta, trường Trung Học Đệ Nhất Cấp Clark Junior High và trường Trung Học Đệ Nhị Cấp Glendale High School. Bà ghi danh học trường Cao Đẳng Cộng Đồng Glendale trước khi chuyển lên Đại Học UC Berkeley vào năm 1946, nơi bà chơi và học quần vợt. Sau khi tốt nghiệp cử nhân vào năm 1948, bà tiếp tục nghiên cứu tại UC Berkeley và trở thành nữ sinh viên đầu tiên học trong Khoa Cơ Thể Học. Luận án tiến sĩ của bà có chủ đề “Functional Interrelationships of the Hypothalamus and the Neurohypophysis” [Mối Tương Quan Chức Năng Của Khu Vực Não Kiểm Soát Nhiệt Độ, Đói, Khát Của Cơ Thể và Phần Nằm Ở Đáy Não và Là Thùy Sau Của Tuyến Nhầy], được xuất bản vào năm 1953. Trong lúc làm luận án Tiến sĩ, bà cũng bắt đầu dạy học, phát triển sự đam mê cả đời.

Sau khi làm phụ tá nghiên cứu tại Đại Học Harvard từ năm 1952 tới 1953, Diamond được bổ nhiệm làm nữ giảng viên khoa học đầu tiên tại Đại Học Cornell từ năm 1955 tới 1958, nơi bà dạy về sinh học con người và cơ thể học so sánh. Bà thường qua miền Tây để dạy cơ thể học cho các sinh viên y khoa tại Đại Học UC San Francisco.

Bà trở lại UC Berkeley vào năm 1960 để làm giảng viên và tiếp tục nghiên cứu về cấu trúc của não. Vào năm 1964, Diamond đã có bằng chứng thực sự đầu tiên – những phương thức giải phẫu thực sự — cho thấy tính dễ thay đổi qua sự giải phẫu vỏ não động vật có vú.

Năng khiếu làm giáo sư và những phát hiện nghiên cứu mang tính cách mạng của bà khiến bà được bổ nhiệm làm phụ tá giáo sư về cơ thể học vào năm 1965 và sau đó là giáo sư thực thụ. Bà lần lượt làm phụ tá và phó khoa trưởng Cao Đẳng Văn Học và Khoa Học và giám đốc Lawrence Hall of Science từ 1990 tới 1996, nơi bà có thể dùng các phát minh của mình vào các môi trường phong phú để phát triển các chương trình giáo dục trong khoa học và toán học cho học sinh từ mẫu giáo tới trung học.

Trong bài báo năm 1964, Diamond lần đầu cho thấy rằng cấu trúc của vỏ não của các động vật trẻ có thể thay đổi để đáp ứng với tác động của môi trường. Trong bài báo năm 1983, lần đầu tiên bà cho thấy hiện tượng lưỡng hình giới tính, có nghĩa là những khác biệt giữa các động vật đực và cái trong cấu trúc của vỏ não của những động vật trẻ và già. Trong bài báo năm 1985, lần đầu tiên bà cho thấy cấu trúc của vỏ não của các động vật già hơn có thể thay đổi để đáp ứng với tác động của môi trường và ảnh hưởng tới khả năng học tập.

“Trong công trình then chốt của bà về sự bồi bổ môi trường và tính có thể thay đổi của thần kinh đã tạo ra lãnh vực hoàn toàn mới trong khoa học thần kinh hiện đại,” theo giáo sư tâm lý học và là nhà khoa học thần kinh Robert Knight của Đại Học UC Berkeley. (4)

Vào năm 1984, Diamond nhận được 4 khối não được lưu trữ của nhà bác học Albert Einstein. Nghiên cứu bộ não của Einstein đã giúp bà nổi tiếng trên truyền thông báo chí. Bằng cách so sánh các kết quả với những phân tích trước đó về bộ não kiểm soát, phòng thí nghiệm của Diamond nhận thức rằng vỏ não phía trước có nhiều tế bào không phải tế bào thần kinh, hay các tế bào thần kinh đệm, trên mỗi tế bào thần kinh hơn vỏ não trên đỉnh đầu. Sau nhiều năm nghiên cứu, Diamond và nhóm của bà đã khám phá rằng sự khác biệt lớn lao trong tất cả 4 khu vực là trong các tế bào thần kinh đệm: Einstein có nhiều tế bào thần kinh đệm trên mỗi tế bào thần kinh trong khu vực đỉnh dưới hơn não đàn ông trung bình của nhóm người được kiểm soát. Công trình quan trọng này làm nổi bật nhóm nhiều tế bào chưa được nghiên cứu và mở đường tới khu vực nghiên cứu khoa học thần kinh mới – sinh học thần kinh đệm.

Trong sự nghiệp kéo dài nửa thế kỷ tại UC Berkeley, Diamond đã tạo cảm hứng cho hàng ngàn sinh viên thuộc nhiều thế hệ.

Diamond là thành viên của Hội Người Mỹ Vì Sự Tiến Bộ Khoa Học, được vinh danh là Giáo Sư Xuất Sắc Trong Năm tại California, được trao Huy Chương Vàng Quốc Gia từ Hội Đồng Vì Tiến Bộ và Hỗ Trợ Giáo Dục, là Cựu Sinh Viên UC Berkeley Xuất Sắc Trong Năm, được trao Giải Thưởng Clark Kerr Award năm 2012 vì Lãnh Đạo Xuất Sắc trong Đại Học, Giải Thưởng Dạy Xuất Sắc năm 1975 từ Đại Học UC Berkeley.

Bà cũng là tác giả của cuốn sách “Enriching Heredity: The Impact of the Environment on the Anatomy of the Brain” [Làm Giàu Di Truyền: Tác Động Của Môi Trường Lên Cấu Trúc Của Não] được xuất bản năm 1988, và là đồng tác giả của cuốn sách “The Human Brain Coloring Book” được xuất bản năm 1985.

Diamond kết hôn với Richard Martin Diamond vào năm 1950 và họ có với nhau 4 người con: Catherine Theresa (1953), Richard Cleeves (1955), Jeff Barja (1958), and Ann (1962). Diamond và chồng đã ly dị vào năm 1979. Cuối năm 1982, bà kết hôn với Arnold Bernard Scheibel, một giáo sư khoa học thần kinh tại Đại Học UCLA.

Diamond qua đời ngày 25 tháng 7 năm 2017 tại tư gia ở Thành phố Oakland, California, hưởng thọ 90 tuổi.

Những khám phá lịch sử về não

Trong tài liệu do chính bà viết có tựa đề “Marian Cleeves Diamond” được đăng trên trang mạng của Hội Khoa Học Thần Kinh (Society for Neuroscience), (5) Diamond kể rằng vào năm 1964, khi đã đăng các kết quả trên một tờ báo bởi Diamond, Krech, và Rosenzweig có tựa đề “Effect of Enriched Environments on the Histology of the Cerebral Cortex” [Ảnh Hưởng Của Các Môi Trường Phong Phú Đến Mô Học Của Vỏ Não] thì một năm sau bà có buổi thuyết trình về não tại một cuộc họp thường niên của Hội Các Nhà Cơ Thể Học Người Mỹ. Cuộc họp đó được tổ chức tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn và bà nói bà cảm thấy thực sự sợ hãi bởi vì có hàng trăm người có mặt trong phòng mà trong đó có rất ít phụ nữ. Đây là lần đầu tiên bà trình bày nội dung nghiên cứu nói trên tại một hội nghị lớn. Bà đã giải thích các đề án một cách bình tĩnh, mọi người vỗ tay một cách lịch sự, và rồi một người đàn ông đứng dậy từ phía sau phòng và nói lớn tiếng rằng, “Này người phụ nữ trẻ, não bộ không thể thay đổi!”

Bà kể tiếp rằng bà cảm thấy tốt về công trình này, và bà chỉ trả lời cho người đàn ông kia rằng, “Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng chúng tôi có thử nghiệm ban đầu và thử nghiệm lập đi lập lại cho thấy não bộ có thể thay đổi.”

Diamond đã nêu ra nhiều câu hỏi: Có phải các điều kiện môi trường kích thích làm gia tăng vỏ não đang phát triển hay đã trưởng thành, hay vỏ não đã đạt tới sự quân bình, hay vỏ não đang giảm, đang co cụm? Khi nào vỏ não ngừng phát triển, và nó già đi ra làm sao theo các điều kiện phòng thí nghiệm “bình thường”?

Để trả lời những câu hỏi trên, Diamond đã tích tập trong hơn 7 năm dài các thông tin về những mẫu phát triển và tuổi già trong vỏ não của đàn ông và phụ nữ. Bà cho biết điều đó không chỉ quan trọng để khảo nghiệm toàn thể vỏ não mà còn để biết phải chăng vỏ não bên phải và bên trái có theo những mô hình tương tự trong thời gian phát triển và già đi bởi vì thông tin mới tích tụ những khác biệt về chức năng trong hai bán cầu của não bộ con người. Bà nêu ra câu hỏi: Có phải những khác biệt về cấu trúc giúp chúng ta hiểu được cơ bản của các khía cạnh chức năng?

Diamond đề cập đến các kết quả của những đường cong gia tăng của bề sâu vỏ não của vỏ não phải và trái được kết hợp từ những phần mô của vỏ não trán, cảm giác, và sau ót. Ở đàn ông và phụ nữ, có 2 mức độ cơ bản: vỏ não phát triển tăng cường nhanh đối với tháng đầu sau khi sinh và rồi mức độ [phát triển] giảm dần dần qua suốt cuộc đời. Tuy nhiên, dù chiều hướng của những mức độ của các đường cong thì giống nhau, cho thấy mẫu phát triển khác biệt lúc sinh khi phụ nữ ban đầu phát triển cao hơn đàn ông nhưng [vỏ não] đàn ông trở nên dày hơn 3 tuần sau khi sinh.

Bà cho biết tiếp rằng khi so sánh sự khác biệt độ dày vỏ não phải và trái thì không còn nghi ngờ rằng nói chung là có sự khác nhau theo giới tính đáng kể. Tổng quát, vỏ não nam giới dày hơn đáng kể ở bên phải, và vỏ não nữ giới thì không có sự bất đối xứng đáng kể. Tuy nhiên, có những ngoại lệ với khu vực 2 của vỏ não đàn ông thì đối xứng lúc còn trẻ, và vỏ não của đàn ông quá già trở nên đối xứng như vỏ não phụ nữ trẻ, có thể giải thích tại sao nhiều người đàn ông già thích ở nhà hay để vợ lái xe trong khi họ ngồi thư giãn bên cạnh bà vợ.

Não có thể được thay đổi

Nữ khoa học gia về não Diamond tiếp tục giải thích về sự thay đổi cấu trúc của não. Bà đã trình bày các tài liệu thử nghiệm ban đầu cho thấy rằng các môi trường phong phú và nghèo nàn có thể thay đổi cấu trúc vỏ não của chuột. Tại Berkeley, Diamond nuôi 12 con chuột trong một cái chuồng có môi trường phong phú với nhiều đồ vật mới lạ cho các con chuột khám phá. Ngược lại những con chuột khác được nhốt trong một cái lồng nhỏ và không có đồ vật, không có bạn bè, không có cả không gian sinh sống rộng lớn. Tất cả các con chuột đều tự do lấy thức ăn và nước uống. Tất cả các môi trường phòng thí nghiệm dù không thể làm giống y chang môi trường thiên nhiên bên ngoài trời cho chuột, nhưng môi trường trong phòng thí nghiệm thì tốt hơn nhiều so với thiên nhiên bên ngoài.

Sau thử nghiệm giải phẫu ban đầu, được công bố vào năm 1964, khi những con chuột được ở trong các môi trường tương ứng của chúng trải qua 80 ngày (từ 25 ngày lúc bỏ sữa mẹ cho đến 105 ngày tuổi) cho thấy sự thay đổi độ sâu vỏ não 6% trong các thí nghiệm lúc đầu và lập lại, bà thắc mắc không biết có thể tìm thấy những khác biệt trong não của những con chuột trước 25 ngày tuổi, là những con sống trong các điều kiện thử nghiệm cùng với mẹ của chúng không?

Thắc mắc của bà đã được sinh viên Dennis Malkasian (Tiến Sĩ năm 1969 và hiện là Phụ Tá Giáo Sư Lâm Sàng Thần Kinh Học tại Đại Học UCLA) giải đáp trong cuộc thử nghiệm của anh được công bố cùng với Diamond vào năm 1971 gồm một chuồng phong phú với 3 con chuột mẹ và 3 chuột con (nhiều gia đình) và một chuồng nghèo nàn với một con chuột mẹ và 3 chuột con (một gia đình). Tất tả chuột con đều là 6 ngày tuổi khi chúng được đưa vào các điều kiện và được lấy đi các điều kiện này lúc 14 ngày tuổi.

Bởi vì mắt của chúng chỉ mở trong thời gian các chuột con trong điều kiện phong phú trước bỏ sữa lúc 13 ngày tuổi và lúc 14 ngày tuổi với các chuột con trong điều kiện nghèo nàn, không tìm thấy có sự thay đổi bề sâu vỏ não thị giác. Tuy nhiên, thay đổi lớn nhất mà họ từng thấy trong vỏ não của những con chuột ở điều kiện phong phú đối với những con chuột ở điều kiện nghèo nàn là 16% khác biệt trong vùng liên kết 39 trong nhóm động vật thử nghiệm từ 6 đến 14 ngày tuổi.

Trở lại với nhóm chuột sau khi bỏ sữa đầu tiên trong nghiên cứu ban đầu được công bố vào năm 1964, nằm trong các điều kiện thử nghiệm trải qua 80 ngày từ 25 đến 105 ngày tuổi, bà Diamond nhắc lại vào thời gian này trong nghiên cứu phát triển của bà thì độ dày của vỏ não từ từ giảm dần. Theo bà, phát hiện mới này cho thấy việc làm phong phú giúp vỏ não chống lại chiều hướng sút giảm.

Để giải thích độ dày vỏ não và cái gì tạo ra độ dày vỏ não, Diamond nói rằng nhóm của bà đã đếm các tế bào thần kinh và các tế bào thần kinh đệm (6) trong từng vùng rất nhỏ, đọc theo chiều đứng từ bề mặt trên cao tới chất trắng nằm bên dưới. Các tế bào thần kinh chiếm ít hơn 7% mỗi vùng trong điều kiện phong phú so với trong điều kiện vỏ não sau ót nghèo nàn, cho thấy rằng sự phát triển phân nhánh nhiều hơn đã xảy ra. Nhóm cũng đã phát hiện rằng các phần của những tế bào thần kinh thì lớn hơn đáng kể trong các động vật ở điều kiện phong phú, theo báo cáo của Diamond vào năm 1967 và báo cáo của bà cùng các cộng sự năm 1975, và các phân nhánh gia tăng chiều dài và số lượng như được cho thấy bởi nhiều nhà nghiên cứu, theo báo cáo của Holloway năm 1966, theo báo cáo của Uylings và các cộng sự năm 1978, và theo báo cáo của Connor và các cộng sự năm 1981. Bà cho biết thêm rằng, tế bào thần kinh đệm so với tỉ lệ tế bào thần kinh thì lớn hơn với điều kiện phong phú, theo báo cáo của Diamond năm 1966, các gai chi nhánh gia tăng được ghi nhận, theo báo cáo của Globus và các cộng sự năm 1973, các điểm nối khớp thần kinh lớn hơn trong các não bộ được làm phong phú, theo báo cáo của Diamond và cộng sự năm 1975, cũng như các mao mạch, theo báo cáo của Diamond và các cộng sự năm 1964. (7)

Theo bà, sự thật là các tế bào thần kinh đệm đã gia tăng với việc làm phong phú đưa tới giả thuyết của bà rằng Albert Ainstein có thể có nhiều tế báo thần kinh đệm hơn trong vỏ não được làm phong phú của ông, đặc biệt các vùng liên kết phải và trái 9 và 39, khi so sánh với mức trung bình vỏ não trong những vùng này từ 11 người đàn ông khác. Nhóm của bà đã phát hiện tất cả 4 vùng đều có các tế bào thần kinh đệm nhiều hơn những đàn ông khác, nhưng chỉ vùng 39 trái có nhiều hơn đáng kể, theo báo cáo của Diamond và các cộng sự năm 1985.

Diamond cũng cho biết thêm rằng thực hiện việc thử nghiệm cùng các điều kiện như những thử nghiệm ban đầu qua nhiều khung thời gian mới khác nhau bằng cách giảm từ  80 ngày xuống còn các mức 30 ngày, 15 ngày, 7 ngày, 4 ngày hay 1 ngày đều đưa đến kết luận là đều có thể tạo ra những khác biệt thử nghiệm đáng kể trong bề dày vỏ não giữa những con chuột trong điều kiện phong phú và nghèo nàn ở mỗi khung thời gian ngoại trừ trong não của những con chuột được tiếp xúc chỉ một ngày. Như được dự đoán, độ dày vỏ não ít thay đổi hơn được ghi nhận trong những con chuột được tiếp xúc với các điều kiện riêng biệt của chúng trong khoảng thời gian ngắn hơn. Thời gian thử nghiệm 30 ngày từ 60 đến 90 ngày tuổi đã chứng minh cho thấy độ dày gia tăng trong nhiều vùng vỏ não hơn các khoảng thời gian khác. Do đó, khoảng thời gian này thường được áp dụng cho các nghiên cứu bổ sung.

Để trả lời câu hỏi là bằng cách nào nhóm của bà có thể kết luận rằng những con chuột trong điều kiện phong phú sống lâu hơn, Diamond cho biết nhờ bổ sung thêm “sự chăm sóc yêu thương dịu dàng” (tender loving care – TLC) thường ngày mà những con chuột ở điều kiện phong phú chứng minh được lợi ích sống lâu.

Nhóm của bà đã có kế hoạch thử nghiệm mới trong đó 3 con chuột sống trong một cái chuồng cho đến 766 ngày tuổi và rồi chúng được tách riêng vào các điều kiện phong phú hay nghèo nàn. Thực hiện cách “chăm sóc yêu thương dịu dàng,” nhóm của bà đã ôm những con chuột ở điều kiện phong phú vào ngực được che bởi các chiếc áo khoác phòng thí nghiệm và vuốt ve chúng trong vài phút trong khi chuồng được dọn dẹp sạch mỗi ngày. Việc “chăm sóc yêu thương dịu dàng” được bổ sung hàng ngày bởi kỹ thuật viên đáng tin cậy Ruth Johnson và bà Diamond. Vào lúc 904 ngày tuổi nhóm bà đã mất một con chuột nên đã ngưng việc “chăm sóc yêu thương dịu dàng” của cuộc thí nghiệm và đo lường độ dày của vỏ não. Ba sinh viên tận tâm Ann Marie Protti, Carol Ott, và Linda Kajisa trợ giúp việc đo lường mà qua đó cho thấy rằng vỏ não của những con chuột sống ở điều kiện phong phú đã dày hơn đáng kể tới 10% so với vỏ não của những con chuột sống trong điều kiện nghèo nàn, theo báo cáo của Diamond, Johnson, Protti, Ott, và Kajisa vào năm 1985.

Qua những kết quả nói trên, Diamond nhận định rằng theo bà biết thì chưa có ai đã từng cho thấy tính có thể thay đổi trong não bộ của những con chuột rất già như vậy hay ngay cả đối với bất kỳ những thú vật già nào khác.

Bà cũng nói rằng qua phát hiện đó giúp chúng ta có thêm lý do khác để tiếp tục “yêu thương” cùng với việc tạo điều kiện sống phong phú trong tiếp xử hàng ngày giữa con người với nhau. Bà nói tại sao phải đợi đến khi một người bạn quý báu của chúng ta qua đời rồi chúng ta mới nói yêu thương bạn rất nhiều.

Để làm cho não bộ khỏe mạnh và sống thọ

 Hệ thống thần kinh não được tạo ra bởi AI. (www.pixabay.com)

Nữ khoa học gia về não Diamond cho biết nhóm bà đã thử nghiệm về ảnh hưởng của điều kiện sống quá phong phú đối với sự phát triển não trong những con chuột sống trong điều kiện được làm phong phú trải qua thử nghiệm 30 ngày, từ 60 đến 90 ngày tuổi. Qua thử nghiệm này cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào trong sự phát triển độ dày của não bộ, 4% tới 6% với 12 con chuột hay 36 con trong những chuồng phong phú với đồ chơi so với những con được kiểm soát, 3 con cho mỗi chuồng nhỏ không có đồ chơi. Nhóm của Diamond đưa ra giả thuyết rằng sự tương tác với đồ chơi có thể làm chuyển hướng sự chú ý của những con chuột hay việc giải trí chúng đủ để giảm căng thẳng của điều kiện quá phong phú.

Với việc quá nhiều đồ chơi bồi bổ của trẻ em thời đại này, các bác sĩ nhi khoa đặt ra câu hỏi: “Cái gì ảnh hưởng đến vỏ não vì kích thích quá nhiều được cung cấp bởi việc chơi quá nhiều đồ chơi?” Để trả lời câu hỏi này, nhóm của Diamond đã thực hiện thử nghiệm thay đổi đồ chơi mỗi giờ trong 3 giờ liên tiếp, 8, 9, 10 giờ đêm trong 4 tuần thay vì thay đồ chơi mỗi ngày hay vài lần mỗi 4 tuần. Nhóm bà đã không tìm thấy sự tăng trưởng quá mức với việc thay đổi đồ chơi nhiều lần. Thay vì thế nhóm này phát hiện vỏ não thay đổi ít với điều kiện sống siêu phong phú này hơn là với điều kiện phong phú thường lệ mà nhóm đã tạo ra. Những nhà nghiên cứu khác đã cho thấy rằng chất hóc-môn tuyến thượng thận liên quan đến căng thẳng, như hóc-mô chữa viêm và dị ứng (cortisone), sẽ làm giảm kích thước của vỏ não.

Khi tuyến thượng thận được lấy ra trong các động vật trẻ, nhóm của Diamond chứng kiến sự tăng trưởng rất lớn trong độ dày của vỏ não được phát triển trong bất kỳ điều kiện thử nghiệm nào của họ, cho thấy một lần nữa rằng hóc-môn tuyến thượng thận có thể ngăn cản sự gia tăng vỏ não.

Theo nhà vật lý trị liệu thực hành Alison Mckenzie sau khi thử nghiệm 30 ngày tiếp xúc với môi trường phong phú, những con chuột bị thương vỏ não có sự gia tăng đáng kể trong sự phát triển nhánh chung quanh phần tổn thương trong vỏ não vận động bên trái, cũng như trong vỏ não vận động không bị tổn thương bên phải. Bất ngờ, vỏ não cảm giác nằm gần vỏ não vận động bên phải và trái cũng cho thấy sự gia tăng trong phát triển nhánh như là hậu quả của môi trường được làm phong phú. Thực tế sự gia tăng lớn các nhánh là hiển nhiên với việc bồi bổ theo sau tổn thương đối với vỏ não vận động và vỏ não cảm giác.

Bà Diamond cho biết trong bản tóm tắc theo nghiên cứu của nhóm của bà rằng những kết quả thử nghiệm cho thấy ít nhất 5 yếu tố sau đây là quan trọng cho não bộ khỏe mạnh:

1- Ăn kiêng,
2- Tập thể dục,
3- Thử thách,
4- Sự mới lạ, và
5- Yêu thương.

Theo Robert Sanders, (8) những bài giảng về cơ thể học của Diamond vẫn còn trên YouTube đã gây cảm hứng cho thế hệ sau đã có hơn một triệu người vào xem trong hơn 10 năm qua.

Trên mặt quốc tế, những ý tưởng của Diamond đã củng cố các nỗ lực của các bác sĩ và những nhà giáo dục trong việc đẩy mạnh sự nuôi dưỡng và bồi bổ giáo dục sớm cho trẻ em. Học bổng và những nỗ lực cá nhân của bà đưa tới việc xây dựng và điều hành các cô nhi viện, gồm một cái ở Cam Bốt, nơi bà đã làm việc để bồi bổ tâm thức cho trẻ em nghèo. Công trình của bà về việc làm phong phú môi trường đã không những được chấp nhận rộng rãi mà còn dẫn tới những cải thiện đáng kể trong lao động và chăm sóc sở thú, theo giáo sư về sinh học tổng hợp tại Đại Học UC Berkeley Daniela Kaufer cho biết. (9)

Diamond đã tận dụng mọi cơ hội để khuyến khích các hoạt động, tinh thần và thể chất, bồi bổ não bộ, và bản thân bà đã tiếp tục nghiên cứu và dạy dỗ cho đến khi về hưu ở tuổi 87 vào năm 2014.

Huỳnh Kim Quang

Nam Mai sưu tầm

Xem thêm...
Theo dõi RSS này