Gia chánh

Gia chánh (107)

Những món mì nổi tiếng thế giới nhất định phải thử qua

Những món mì nổi tiếng thế giới nhất định phải thử 

▂ ▃ ▅ ▆ █☆★█ ▆ ▅ ▃ ▂

Mì (hay các món sợi) là một trong những món ăn phổ biến trên thế giới. Mỗi nước lại có một cách chế biến món mì khác nhau. Dưới đây là 11 món mì, sợi trứ danh đến từ các quốc gia. Nếu có cơ hội, bạn nên thử ít nhất một lần trong đời để không phải hối tiếc.

Mì udon là một loại mì được làm từ bột lúa mì, sợi khá dày, dày nhất trong các loại mì ở Nhật và rất trơn láng. Món mì Udon truyền thống và cơ bản nhất của người Nhật là món Kake-udon. Nước dùng của mì udon được nấu bằng dashi ăn kèm cùng với hải sản, thịt và rau và tempura (đồ chiên giòn nổi tiếng của Nhật).
Pad see ew hay còn gọi là mì xào đậu nành là một món mì xào rất quen thuộc của Thái Lan. Thành phần của món ăn gồm có: mì gạo xào với trứng, rau, tẩm thêm một chút ớt đỏ, bột me, nước mắm và đường thốt nốt.
Mì Ý sốt phô mai (Cacio e Pepe) được làm bằng mì tonnarelli, một loại mì ống giống như mì spaghetti làm từ trứng. Nước sốt của món mì này có ba thành phần chính: phô mai cacio, nước mì ống và hạt tiêu đen thô.
Chow mein là một món mì xào rất phổ biến trong ẩm thực Trung Quốc. Sợi mì được làm từ bột mì, bột gạo hoặc tinh bột đậu xanh. Món mì này có thể được chế biến với nhiều loại thịt và rau khác nhau hoặc ăn chay.
Phở là một món ăn truyền thống, nổi tiếng ở Việt Nam. Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng cùng với thịt bò hoặc thịt gà cắt lát mỏng. Ngoài ra còn kèm theo các gia vị như: tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt... Phần nước dùng cho nồi phở thường là nước dùng trong được ninh từ xương bò.
Japchae là món miến xào nổi tiếng của Hàn Quốc. Nguyên liệu chính để làm món ăn này là miến và các loại rau theo mùa (thường là cà rốt thái lát mỏng, hành tây, rau bina, và nấm) và thịt bò. Người Hàn Quốc dùng dầu mè (dầu vừng) để xào. Gia vị chính là xì dầu và ớt cùng hạt vừng. Japchae có thể ăn nóng hoặc nguội.
Laksa là một món mì nước cay của người Peranakan (bộ phận nhỏ người Hoa định cư tại eo biển Malacca). Món ăn này gồm có các nguyên liệu vô cùng đa dạng như mì gạo, tôm, mực, chả cá, sò huyết và giá thái nhỏ. Đây là món mì rất phổ biến ở Malaysia, Singapore và Indonesia.
Mì Saimin là món ăn đặc sản của Hawaii, với công thức chế biến pha trộn từ nhiều nền văn hóa trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines, Bồ Đào Nha và Polynesia. Sợi Saimin dai và dày được nấu trong phần nước dùng trong vắt. Khi thưởng thức mì sẽ được dùng kèm cải thìa, nấm, gừng và đương nhiên là không thể thiếu Spam – món thịt hộp đặc sản Hawaii.
Filipino spaghetti là một loại mì spaghetti được chế biến theo kiểu của người Philippines, món ăn này có vị ngọt lạ miệng với nước sốt được làm từ cà chua, chuối hoặc sữa đặc. Đĩa mì còn được cho thêm xúc xích thái lát lên trên trông rất ngon mắt.
Kushari được coi là món ăn dân tộc của Ai Cập và cũng là món ăn khởi nguồn của nền văn hoá ăn chay. Nó bao gồm mì ống, gạo, đậu lăng, hành tây caramel, tỏi và đậu chickpeas. Ngày nay, Kushari được biến tấu thêm các nguyên liệu khác như cơm, đậu lăng, đậu xanh, caramel hành và nước sốt cà chua tỏi.
Verdes Tallarines là món mì đặc trưng của Peru. Nó còn được gọi là "mì xanh" bởi phần nước sốt màu xanh đặc biệt ở phía trên. Verder Tallarines sử dụng mì spaghetti, fettuccine, hoặc linguine, rưới lên trên là sốt rau bina cùng với sữa tạo nên độ béo ngậy.

Thu Vân (theo Insider
 
*******
 

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách

▂ ▃ ▅ ▆ █☆★█ ▆ ▅ ▃ ▂

KHÁM PHÁ MÓN PHỞ TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM

Khi nhắc đến các món mì ngon nhất trên thế giới, phở của Việt Nam luôn là món ăn gây thương nhớ cho thực khách nước ngoài.

Mì là món ăn được tìm thấy trong nhiều nền ẩm thực khác nhau trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, mỗi địa phương lại có cách chế biến món mì khác nhau. Không thể phủ nhận đây là một trong những món ăn được yêu thích nhất ở nhiều nền văn hoá.

Sau đây là 10 món mì được đánh giá là có hương vị thơm ngon nhất trên thế giới.

Ramen - Nhật Bản

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 1

Ramen là một loại mì nước và là một trong những món ăn phổ biến và được ưa chuộng nhất ở xứ sở Phù Tang.

Món này bao gồm phần sợi mì được làm từ lúa mì, nước dùng thường nấu từ xương heo, xương gà hoặc cá cùng với các loại thực vật khác như nấm hương, tảo bẹ, … để tăng độ ngọt và đậm đà.

Ramen thường sẽ được phục vụ kèm một số loại đồ ăn như thịt lợn xá xíu thái mỏng, rong biển sấy khô nori, măng chua menma, hành lá,…

Tuỳ theo nguyên liệu và thói quen ăn uống của từng địa phương mà người ta sẽ có những biến tấu khác nhau khi nấu Ramen.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 2

Nhiều người nói, Ramen không chỉ là một món ăn ở Nhật mà đó còn là một cách sống. Khi ăn Ramen, người Nhật thường thưởng thức bát mì của mình rất cẩn thận và nghiêm túc, điều này thể hiện sự tôn trọng đồ ăn trong văn hoá Nhật.

Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, Ramen dần trở thành một biểu tượng văn hoá của Nhật Bản và nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới.

Ngày nay, bạn có thể dễ dàng tìm thấy những tiệm mì Ramen tại bất kỳ ngõ ngách này của Nhật Bản.

Japchae - Hàn Quốc

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 3

Japchae hay miến xào rau củ vốn là một món ăn truyền thống, có lịch sử lâu đời của Hàn Quốc. Ngày nay, Japchae thường được phục vụ như một món ăn kèm trong các bữa ăn của người Hàn.

Cách làm Japchae tuy không quá phức tạp nhưng lại cần phải chuẩn bị nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Đầu tiên sợi miến trong suốt làm từ khoai lang được gọi là dangmyeon được tẩm dầu mè, hạt mè, các loại gia vị, đường và nước tương, sau đó nó được xào với một số loại rau củ và thịt.

Sự kết hợp hài hoà giữa các nguyên liệu đã đem đến hương vị tươi mới cho món ăn này.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 4

Japchae vốn là một món ăn được phục vụ trong những buổi yến tiệc cung đình của Hàn Quốc khi xưa. Trải qua thời gian, món ăn hoàng gia này được dân chúng học hỏi và biến tấu, bổ sung thêm nhiều loại gia vị và nguyên liệu mới.

Dần dần phiên bản Japchae miến xào rau củ hiện đại ngày nay được hình thành và nhanh chóng được ưa chuộng.

Laksa – Malaysia, Singapore

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 5

Laksa vốn là một món mì nước của cộng đồng người Peranakan (bộ phận nhỏ của người Hoa định cư tại eo biển Malacca).

Đây được biết tới như là một món mỳ “quốc hồn quốc tuý” trong ẩm thực của người Malaysia, Singapore và Indonesia.

Chính những đặc điểm độc đáo từ nguyên liệu cho đến cách làm đã kiến cho món mì này trở thành món ăn tiêu biểu của những đất nước này.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 6

Nguyên liệu để tạo nên món mì này vô cùng đa dạng như tôm, mực, chả cá, sò huyết, giá đỗ và những sợi bún to dày, …

Hiện nay, có 2 loại Laksa phổ biến là Cà ri Laksa với phần nước dùng được nấu từ nước cốt dừa, cà ri và Asam Laksa với nước dùng từ cá nấu chua.

Tại Malaysia hay Singapore, bạn có thể dễ dàng tìm được món mì này tại bất cứ nơi đâu, dù là nhà hàng, khách sạn sang trọng hay đơn giản là tại những quán ăn bình dân ven đường.

Mì Udon – Nhật Bản

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 7

Bên cạnh Ramen, mì Udon cũng là món mì vô cùng nổi tiếng của đất nước mặt trời mọc. Udon là một loại mì ống dày, sợi mì có thể có hình vuông hoặc hình tròn, màu trắng, dẻo dai và có kết cấu trơn tuột. Mì Udon thường được ăn với nước dùng được nấu bằng nước tương, thêm hành lá, cá ngừ bào mỏng,…

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 8

Cách chế biến mì Udon ở Nhật Bản vô cùng đa dạng, mỗi địa phương lại có cách riêng để thưởng thức món mì này. Khi ăn mì, người Nhật thường sẽ phát ra tiếng húp xì xụp khi ăn.

Đây được xem như là một cách để thể hiện sự biết ơn đối với người đầu bếp, đồng thời cách húp xì xụp này được cho là sẽ làm tăng vị ngon và giảm bớt độ nóng của sợi mì.

Mie Goreng – Indonesia, Malaysia, Singapore

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 9

Mì xào Mie Goreng tuy chỉ là một món ăn bình dân nhưng lại mang một hương vị vô cùng hấp dẫn. Những sợi mì trứng mỏng dai được xào với tỏi, hành tây, cải thảo, trứng, cà chua, các loại thịt và đặc biệt là được nêm nếm những gia vị đặc trưng của ẩm thực Indonesia.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 10

Một đĩa mì Mie Goreng với mùi hương thơm phức, cay cay ngọt ngọt, được xào với đủ loại rau củ, ăn kèm với gà hoặc tôm và một quả trứng chiên lòng đào ở bên trên chắc chắn sẽ khiến bạn trải nghiệm được sự đặc sắc của nền ẩm thực Indonesia.

Saimin – Hawaii

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 11

Mì Saimin được biết đến như là một phiên bản Ramen của Hawaii, món mì này đại diện cho sự pha trộn giữa các nền văn hoá của Hawaii bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Philippines, Bồ Đào Nha và Polynesia.

Món ăn bao gồm sợi mì trứng được nấu trong nước dùng dashi kiểu Nhật, kèm theo đó là hành lá và một số món phụ ăn kèm như trứng luộc, thịt heo, há cảo,…

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 12

Tuy nhìn bề ngoài khá giống với mì Ramen nhưng khi thưởng thức, bạn sẽ nhận ra được sự khác biệt giữa hai loại mì này. Mì Saimin ngon nhất khi ăn nóng, bạn sẽ cảm nhận được hương vị đậm đà mà nước dùng mang lại.

Tallarin Verdes – Peru

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 13

Tallarin Verdes là món mì truyền thống của Peru. Thực chất đây là một loại spaghetti được phủ lên lớp sốt màu xanh được chế biến từ rau chân vịt, húng quế xay nhuyễn và sữa vô cùng đặc trưng.

Món mì có màu sắc đẹp mắt, có vị béo ngậy và hơi ngọt của kem sữa cùng hương vị tươi ngon của những loại rau nấu kèm.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 14

Món mì này thường được phục vụ theo phong cách đặc trưng của Peru với thịt và khoai tây nghiền. Cái tên Tallarin Verdes có nghĩa là “mì xanh” bởi phần nước sốt rau củ đã tạo nên màu sắc vô cùng đặc trưng cho món mỳ này.

Phở - Việt Nam

    v

Một tô Phở nóng hổi, thơm lừng với hương vị đậm đà từ lâu đã trở thành một biểu tượng cho ẩm thực của Việt Nam, đây được xem là một món ăn nhất định phải thử khi tới Việt Nam du lịch đối với du khách nước ngoài.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 16

Với nước dùng đậm đà từ xương bò hoặc gà, bánh phở mềm dai, cùng với sự kết hợp của hàng loạt các loại gia vị châu á đặc trưng như gừng, hoa hồi, nước mắm, … và các loại rau sống ăn kèm, món phở có thể chinh phục mọi thực khách khó tính nhất.

Bibim Guksu – Hàn Quốc

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 17

Bibim Guksu hay còn được biết tới với cái tên mì lạnh trộn là một món mì nổi tiếng khác của Hàn Quốc. Những sợi mì mỏng (gọi là somyeon) sẽ được luộc chín tới rồi ngay lập tức xả qua nước lạnh. Sau đó, mì được trộn với gochujiang (tương ớt Hàn Quốc), tỏi, giấm, đường, kim chi, … Người ta còn thường ăn kèm Bibim Guksu với dưa chuột thái lát, củ cải muối, trứng luộc và dầu mè.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 18

Món mì Bibim Guksu thường rất được ưa chuộng trong ngày hè. Chính loại nước sốt chua chua, cay cay, ngọt ngọt là thứ khiến cho Bibim Guksu trở nên hấp dẫn vô cùng. Cùng với đó là sợi mì dai dai, mát lạnh sẽ giúp thực khách xua tan đi cái nóng oi ả của mùa hè.

Pad Thái – Thái Lan

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 19

Được biết đến là một trong những món ăn nổi tiếng nhất của Thái Lan, Pad Thái là món mì gạo xào với các loại nguyên liệu và gia vị khác nhau như trứng, đậu phụ, me, nước mắm, đường thốt nốt, tôm khô, tỏi, hẹ tây, tôm,…

Pad Thái truyền thống vốn không có bất kỳ loại thịt nào khác ngoài tôm khô và tôm tươi, tuy nhiên ngày nay đã có rất nhiều biến thể khác nhau của món mì này, người ta có thể cho thêm thịt gà, thịt bò tuỳ theo khẩu vị của thực khách.

Top 10 món mì ngon nhất thế giới, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 20

Món ăn trứ danh của Thái Lan này thường được ăn kèm với lạc rang giã nhỏ, nước cốt chanh, hẹ và giá đỗ. Du khách có thể tìm thấy Pad Thái ở bất cứ nơi đâu trên đất Thái, từ những vùng núi hẻo lánh phía Bắc cho đến những con phố sầm uất ở Bangkok.

 

L.A (Theo Travel)

 

Nam Mai sưu tầm

Cách nấu phở bò truyền thống của người Hà Nội   

  

 

Xem thêm...

Sức quyến rũ của văn hóa ẩm thực

 NGÀN NĂM ĂN CHẤM VỚI CHAN 

Chén nước chấm “chuẩn” của bún thịt nướng (Unsplash)

Gần đây, xuất hiện khuyến cáo rất lạ: Người Việt cần bỏ thói quen ăn cơm chan canh. Đứng tên cho những nhận định như vậy là nhiều nhà dinh dưỡng, trí thức, văn nhân, nhà báo… Họ suy xét từ quan điểm cá nhân, rồi không ngần ngại kết tội thói quen ăn cơm chan canh qua ngàn năm của người Việt là xấu, thậm chí là nguy hiểm cho sức khỏe. Lắm lúc, có khi tôi muốn có dịp để đọc cho họ nghe một câu ca dao truyền đời từ xưa lắm:

Anh nói em cũng nghe anh
Bát cơm đã trót chan canh mất rồi

CHAN

Không biết có bao nhiêu dân tộc có thói quen chan canh ăn cơm? Lúc tôi sống ở Chợ Lớn, các gia đình người Hoa mà tôi biết chỉ húp nước canh riêng chớ không hề chan canh. Với nhiều dân tộc khác, món canh là soup ăn riêng, ít thấy chan ăn cơm.

Không ai biết người Việt chan canh ăn cơm từ lúc nào nhưng sẽ nhớ hoài ngàn năm màu sắc và hương vị chén cơm trắng chan nước canh rau vườn xanh mướt, đâu khác gì ruộng lúa chớm trổ đòng đòng; rồi tới bữa ăn khác, chén cơm trắng chan canh chua bông điên điển cá linh, với cảm xúc chộn rộn vàng rực mùa lúa chín. Sao quên được tuổi thơ bưng tô cơm chan nước mưa từ mái nhà lá, rồi ăn với cá bống kho tiêu. Tô cơm đó như một hồ nước nhỏ phản chiếu long lanh ánh sáng bầu trời tinh khiết quê nhà.

Ăn canh mà không chan là… phí đời! (Kyler Boone/Unsplash)

Với nhiều thế hệ người Việt, bưng chén cơm chan canh là ký ức sâu đậm, gọi thức cảm xúc mênh mông của đời người từng qua bao biến động lịch sử đất nước lẫn thăng trầm cá nhân. Người viết bài nhớ mãi dòng nước mắt của một họa sĩ sống lưu vong ở Úc châu, sau nhiều chục năm, lúc ông trở lại quê nhà được ăn chén cơm chan nước cơm. Làm sao có thể quên cảnh người thân ở miền Nam lớp trước, vào những năm sau biến cố 1975, trong cảnh thiếu ăn thiếu mặc, bị chế độ phân biệt đối xử vì lý lịch khốn khổ trăm bề, đã có những bữa ăn chan nước mắt.

Người họa sĩ ấy khóc vì nhớ chén cơm chan nước cơm lúc tuổi thơ đói sữa bú tay. Ăn cơm chan nước cơm có phải chăng là cách tiếp nối với đầu nguồn ngàn năm cách ăn cơm chan của người Việt? Ăn cơm chan nước cơm, nước lã, nước canh, nước mắm qua ngàn năm gợi lên hình ảnh các dòng sông lớn, khởi nguồn từ biết bao đời người, gia cảnh khổ nạn, như những dòng sông chảy đều phủ tràn sinh lực phì nhiêu cho mùa gặt mang lại hy vọng sinh tồn của các thế hệ.

Món này ăn với nước chấm nào? (Claudette Bleijenberg/Unsplash)

Xin đừng quên, tập tục ăn cơm chan là giá trị nghệ thuật ẩm thực thật thà tối giản, để hướng tâm chung đến một nhận thức: Tất thảy chúng ta đều là những đứa con nông dân cùng chung thủy với cội nguồn dân tộc văn minh lúa nước.

Ăn cơm sao đặng mà mời

Nước mắt lênh láng rã rời hạt cơm

Mình ơi đừng đặng cá quên nơm…

(Ca dao)

 

CHẤM

Ai cũng biết hồn cốt của nghệ thuật ẩm thực Việt là nước mắm. Ngàn năm qua, từ các trí thức Nho giáo xưa, đến Tây học cận đại và toàn cầu học hiện đại, các vị trí thức khả kính đó đều sẽ nghiêm khắc la rầy bếp quán, bếp nhà nếu bữa ăn thiếu chén nước mắm, hoặc pha nước mắm nhạt nhẽo không vừa miệng; dù ít ai hạ cố đoái hoài làm sáng tỏ khoa học và nghệ thuật pha chế nước mắm.

May mắn thay, từng thế hệ người bà, người mẹ, người vợ Việt, vẫn truyền lưu trong khói bếp nhà tinh hoa cách pha chế và nghệ thuật pha chế nước chấm. Có người theo trường phái cân đo calori, phản đối: Nước chấm chế biến dù khéo tới đâu cũng chỉ nhắm thỏa mãn cho cảm giác khẩu vị, sao bổ dưỡng bằng thịt cá, rau củ… Và lập tức người theo chủ nghĩa sống để ăn, trả lời: Ăn mà không có nước chấm cho thêm ngon miệng thì sao có hưng phấn hấp thu dinh dưỡng? Ngài Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nhờ sự truyền nghề pha chế nước mắm ngàn năm đó mà có được sự khoái khẩu húp nước mắm pha loãng đúng điệu tinh túy của món bún chả Hà Nội.

Nước mắm kho quẹt (Unsplash)

Theo dòng hải lưu với cá nục, cá cơm vượt Hoành Sơn; chén nước mắm với vài miếng tỏi, ớt xanh đâm mỏng như áng mây, ráng chiều của xứ Trung phần, kích thích vị giác ngon và lành đến mức thần linh từ đền đài Mỹ Sơn, Ninh Thuận… chỉ mong chờ được cúng dường cá hấp gói lá chuối chấm nước mắm. Không ai nếm được vị chén nước mắm pha ăn với cơm tấm sườn nướng, giúp bà Christine Hà đoạt quán quân Vua đầu bếp Mỹ (Master Chef) để biết ngon ra sao, nhưng một quán cơm tấm, trong hàng ngàn quán cơm tấm ở Sài Gòn, muốn đắt khách thì nước mắm pha phải đúng điệu khẩu vị Sài Gòn.

Qua hàng trăm năm, chén nước mắm pha “kiểu Sài Gòn” cho dân tứ xứ nhập cư vẫn luôn giữ đúng vị ngon Sài Gòn. Đó là một điều gần như là kỳ diệu. Có hỏi vị nước mắm pha “kiểu Sài Gòn” ra sao; khác với nước mắm ăn bì cuốn, bánh ít trần mặn, bánh xèo, bún thịt xào, bún chả giò, bún thịt nướng… thế nào, có lẽ chỉ nhận được câu trả lời: À, đâu ai có thể nói chính xác từng chi tiết của sự kỳ diệu, chỉ biết là nước mắm cơm tấm phải vừa miệng với người Sài Gòn ăn cơm tấm.

Cơm tấm Sài Gòn phải có nước mắm… kiểu Sài Gòn (Unsplash)

Có một câu hỏi mà người viết bài này tin là người Việt luôn lặp đi lặp lại sự tự vấn qua ngàn năm: Món này chấm với gì? Đó là câu hỏi của hầu hết người Việt trong mọi bữa ăn, dù là ăn cơm nhà, tiệc tùng hay cỗ ngày lễ Tết. Câu hỏi đó không chỉ khẳng định một điều có tính nguyên tắc bất di dịch: Một món ăn cho dù trong bữa tiệc sơn hào hải vị hay bữa cơm thường ngày, nếu không chấm đúng thứ nước chấm thì chắc chắn không còn là món ngon, sẽ gây ra chuyện ăn không đúng điệu, mất hứng thú trong thưởng thức. Vậy nên không có gì quá đáng khi nước chấm từ chỗ tưởng như là món phụ, món kèm, nhưng với khẩu vị và cách ăn của người Việt, lại trở thành món chủ trên mâm.

Thiển nghĩ, cũng không nên trả lời kiểu thống kê để kể ra cho hết các loại món chấm trong ẩm thực Việt. Chén nước mắm me, muối hột đâm ớt xanh, cũng là kết quả từ hành trình nhận biết sản vật phong phú, mà người yêu ẩm thực Việt trải qua, để chế biến sao cho phù hợp, để có thể thỏa mãn mọi người, từ các ông khoái nhậu, các đầu bếp hàng quán, quý thực khách, cho đến các bà nội trợ với tình yêu dành cho gia đình.

Mỗi món ăn Việt đều có loại nước chấm riêng (Natalia Mok/Unsplash)

Nước chấm Việt, đơn giản thường là chén nước mắm ngon pha thêm với chút tỏi ớt, không dành riêng cho tầng lớp giai cấp nào. Sự phong phú vô song của các loại nước chấm Việt, mang lại sự hứng thú vô bờ, là giá trị bình đẳng văn hóa gần như duy nhất, là tinh hoa năng lượng sống truyền đời của một dân tộc ngàn năm ăn chấm với chan này.

“Con ơi ở lại với bà

Má đi làm mắm tháng ba má về

Má về có mắm con ăn

Có khô con nướng, có em con bồng”

(Ca dao)

 

XUÂN NHÂM DẦN 2022

—————

Nước mắm nhưng không chan: kho quẹt

Kho quẹt là món ăn dân dã và quen thuộc đối với người dân miền Nam. Tuy không được làm từ những nguyên liệu cầu kỳ và cách chế biến lại khá đơn giản, nhưng hương vị của món kho quẹt khiến cho bất kỳ ai đã thưởng thức qua một lần đều khó quên được. Một niêu nước mắm kho quẹt với đủ vị cay, ngọt, béo, mặn của tóp mỡ, ớt, tôm khô, tiêu, nước mắm…, hài hòa với nhau tạo nên một món ngon dân dã đậm đà, thể hiện những nét đặc trưng không lẫn đi đâu được.

Với người miền Nam, kho quẹt không chỉ đơn thuần là món ăn mà nó còn là hồi ức gắn liền với một miền tuổi thơ đáng nhớ và đáng trân trọng. Ban đầu món ăn này được xuất phát từ thói quen ăn uống cho qua ngày đoạn tháng của người dân miệt vườn. Vào những ngày mưa dai dẳng, vì không thể ra đồng, nên người dân dùng đại những thứ có trong nhà như tóp mỡ, tôm tép khô, cùng với gia vị là nước mắm, muối, bột ngọt…, nấu thành một hỗn hợp sền sệt, rồi ra vườn hái vội một hai nắm rau luộc lên ăn với cơm trắng. Vì kho quẹt rất mặn nên có thể nấu một lần mà ăn được nhiều ngày không sợ thiu.

Kho quẹt khá dễ làm nên ai cũng có thể học được, song muốn làm được món ăn ngon thì phải cần có nồi đất, loại niêu đen không tráng men. Nồi sau khi mua về phải đem đi ngâm nước muối, sau đó rửa sạch, cho nước lã vào luộc lên, như thế thì trong quá trình chế biến thức ăn sẽ không bị mùi hôi của đất, mà còn vừa tránh nứt nồi hay thấm nước. Việc chọn rau luộc ăn với kho quẹt cũng rất quan trọng, thông thường đĩa rau thập cẩm gồm có: Đậu bắp, rau muống, cải ngọt, cải thảo, rau đắng, cải xanh, cà rốt, cải thìa, bầu cắt thành miếng, khổ qua…

——————

Mắm, không chỉ là mắm…

Mắm tôm không chỉ là quốc hồn quốc túy của nền ẩm thực Việt, mà còn là thứ dân gian dùng để trừ tà, yêu tinh ma quái… Ma quỷ còn sợ mùi mắm tôm, thì phải biết mùi mắm khủng khiếp đến cỡ nào. Nhưng bún riêu, chả cá, thịt luộc… không có mắm tôm thì chẳng khác gì tình yêu không… thú dữ. Có điều mắm tôm không phải làm từ tôm, mà từ con moi…

Con moi là một loại tép “nhỏ con”, gọi là tép moi. Thứ “tôm tép” coi vậy chứ rắc rối tên gọi. Dân miền Nam gọi con tôm nhỏ cỡ ngón tay út trở xuống là con tép như tép bạc, tép bầu… Người Bắc chỉ gọi là tép với loại “tôm” nhỏ hơn đầu đũa, bóc vỏ không nổi, như tép đồng, tép gạo. Cũng không nên hiểu lầm tép là tôm “nhi đồng”, như mối quan hệ giữa con bê và con bò. Tép nhỏ con là do cái “tạng” của nó vốn thế, mãi mãi không lớn hơn được.

Có nơi gọi là con moi là con ruốc. Nhưng có một loại ruốc, chẳng bà con gì với moi hay tôm tép, gọi là ruốc lỗ (Octopus dollfusi). Loại ruốc này họ hàng với bạch tuộc nhưng kích cỡ chỉ cỡ một nửa so với bạch tuộc ở mấy quán nhậu (baby octopus). Ruốc lỗ thuộc loại nhuyễn thể (thân mềm), lắm chân lắm tay vươn dài (xúc tu) như dòng họ nhà nó. Ngư dân trẻ địa phương bị ám ảnh gọi là ruốc chân dài.

Dù con moi (hay con ruốc) cũng có vỏ, có mười chân giống như tôm như tép, nhưng moi nhỏ xíu, nhỏ đến độ không bõ nhai, nên chỉ đem làm mắm. Mắm ruốc, mắm tôm đều làm từ moi hay ruốc, nhưng có điều mắm tôm không phải là mắm ruốc do cách làm khác nhau. Hai loại moi phổ biến ở Đông Nam Á là loại Acetes indicus và Acetes japonicus.

(Vũ Thế Thành – trích; nguồn: Thế Giới Tiếp Thị)

——————————————–

Chấm và chan “họ Tây”

Người Việt xài nước tương, xì dầu, tàu vị yểu… đủ loại nhưng đối đầu với các sản phẩm đó, lại có một sản phẩm chấm và chan họ Tây: Nước tương Maggi. Người Việt bắt đầu biết đến loại nước chấm và chan này từ năm 1935, do người Pháp xách theo hành lý viễn xứ. Loại hàng này được bán với lời quảng cáo “nước chấm màu nâu đen thường làm từ những nguyên liệu có chứa nhiều chất đạm”. Nhưng theo thời gian, Maggi dường như không còn là một sản phẩm du nhập từ phương Tây nữa mà đã trở thành một thành viên không thể thiếu trong gian bếp mỗi gia đình Việt với “vị ngon nhớ lâu” qua nhiều thế hệ vẫn chưa hề phai mờ.

Cái tên Maggi là gì? Xin thưa, đó là tên của người tạo ra nó, ông Julius Maggi. Điều thú vị của loại nước chấm và chan này là nó được dùng phổ biến và được chấp nhận với rất nhiều món ăn đặc thù của châu Á, trong khi, những món ăn ở các nước này lại rất kỹ lưỡng và khó tính với từng loại món ăn và nước chấm hay chan đi cùng.

(– Trần Tiến Dũng – )

---------------------------------------------

    TẾT VIỆT Ở MỸ    

Những ngày cuối Đông ở California, hai bên đường, những vạt hoa cúc queo quắt vì cái giá lạnh của những tháng mùa Đông bỗng bắt đầu đơm chồi xanh. Những nụ hoa hé nở rất nhanh, lác đác vài bụi bông cúc dại sớm nở. Chỉ sau vài ngày không để ý, đã có thể thấy con đường thường ngày đi qua nở đầy vạt hoa cúc dại muôn màu muôn vẻ. Ở Việt Nam mùa Xuân là mùa của hoa đào, hoa mai, nhưng ở cái vùng cận nhiệt đới bán sa mạc này, hoa cúc dại (African daisy) mới thật sự là loài hoa báo hiệu mùa Xuân. Điều đó cũng có nghĩa ngày Tết Âm Lịch đang rất gần.

Với người Việt, Tết Âm Lịch là một phần phong tục không thể thiếu trong đời sống tinh thần. Ai lớn lên ở Việt Nam cũng đều có kỷ niệm ngày Tết và từng háo hức mong chờ ngày Tết. Dù xã hội phát triển như thế nào, dù sống bất cứ nơi nào thì phong tục Tết vẫn là nét văn hóa truyền thống vốn ăn sâu vào tâm thức người Việt. Hồi tưởng lại Tết Âm Lịch ở Mỹ xưa và nay, có thể thấy Tết ở Mỹ giờ vui hơn lúc trước nhiều. Vài chục năm trước, khi cộng đồng người Việt còn ít ỏi, người ta chưa tụ tập và lập thành những con đường hay trung tâm buôn bán mà chỉ lèo tèo vài ngôi chợ nhỏ đi loanh quanh dăm ba phút đã về chốn cũ. Kiếm “đỏ con mắt” cũng chẳng thấy chợ nào bán trái cây đặc sản Việt Nam để có thể mua cúng cho có mùi vị ba ngày Tết. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ có lèo tèo vài món truyền thống như bánh chưng, bánh tét, giò chả, giò thủ, và một số bánh mứt do bà con làm thủ công tại nhà, đem đi bỏ mối ngoài chợ cốt kiếm thêm ít thu nhập.

Tết bên Mỹ thời đó thật buồn. Lúc đó, trong năm nếu “lỡ” thèm những món ăn lúc còn ở bên nhà hoặc nhớ các loại mắm hay thậm chí bó rau muống và trái cà pháo… thì cũng đành chịu, tìm đâu ra để mua. Còn đến ngày Tết, những món như bánh chưng, bánh tét, củ kiệu, dưa món… thì phải đặt hàng trước đó cả tháng. Mà rồi khi nhìn cái bánh chưng, bánh tét thì càng nhớ da diết mùi Tết Việt Nam. “Bánh chưng Mỹ” tuy to, nhân nhiều nhưng lại gói trong giấy aluminum foil, cột bằng dây nhựa đỏ chứ không phải gói bằng lá chuối, lá dong và bó cột bằng dây lạt như bên nhà. Mứt thì đa số là hàng Trung Quốc hay Thái Lan, đẹp mã chứ không hạp khẩu vị người Việt. Đêm 30 Tết nằm mơ về đêm Giao Thừa năm xưa, mơ hồ nghe tiếng pháo vọng về từ ký ức xa xăm, càng nhớ da diết không khí ngày Xuân quê hương…

Những bức ảnh ghi lại không khí đón Tết của người Việt ở California (ảnh: Thanh Nhàn)

Bây giờ, người Việt nhập cư qua đông. Ở đâu có người Việt thì ở đó có chợ Việt, không phải cái chợ nhỏ xíu mà to như mấy cái super market của Mỹ. Cả tháng trước dịp Tết, những ngôi chợ Việt bắt đầu bày bán hàng Tết nhiều lắm rồi. Mặt hàng Tết cũng đa dạng. Các mặt hàng Việt Nam đều được nhập vào Mỹ trước Tết cả tháng nên không thiếu thứ gì cả, thậm chí còn nhiều và tốt hơn hàng bên nhà nữa vì đã được sàng lọc cẩn thận và đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh nghiêm ngặt của Mỹ. Từ bánh mứt cho đến các loại trái cây, tất cả đều dồi dào và giá cả cũng phải chăng. Hoa thì khỏi nói, tràn ngập, chỗ nào cũng thấy bán hoa. Hai ba tuần trước Tết, các khu chợ người Hoa phục vụ dân châu Á nói chung đã được dựng lên cho bà con mua sắm bông hoa các loại, với tràn ngập mai, đào, lan; rồi chậu kiểng cùng câu đối; chưa kể phong bì và pháo đỏ… dùng để trang trí cho đẹp cửa đẹp nhà.

Hội chợ Tết cũng là một nét thú vị của cộng đồng người Việt ở Mỹ. Hội chợ luôn có múa lân, múa nón, trình diễn áo dài, biểu diễn võ thuật; cùng các gian hàng vui chơi cho trẻ em lẫn người lớn chẳng hạn loto có thưởng. Trong hội chợ, ngoài khu vui chơi còn có khu ẩm thực, với đủ loại món ăn truyền thống, từ ăn mặn đến ăn chay thuần túy Việt Nam. Rất dễ dàng thấy bánh mì, gỏi cuốn, chả giò, gỏi đu đủ khô bò, hột vịt lộn, cơm chiên, bún hay phở, mì…; rồi các món ăn chơi như chuối nếp nướng lá dứa, chuối chiên, bắp nướng mỡ hành, khoai lang, khoai mì hấp, bánh và chè đủ loại; chưa kể nước mía, nước dừa… Ngoài ra, còn có vài món gần đây được du nhập từ Việt Nam qua như bánh tráng nướng mà dân Việt ở Mỹ gọi là Vietnamese pizza hay Đà Lạt pizza vì nó xuất xứ từ thành phố lạnh này.

Ăn đã no và bụng đã ấm, không thể bỏ qua tiết mục văn nghệ với sự trình diễn của các ca nhạc sĩ danh tiếng. Với người Việt hải ngoại, ba ngày Tết là dịp mà trang phục truyền thống như áo dài, nón lá hay áo tứ thân được mặc và thấy nhiều nhất, cho dù những ngày mùng 1, mùng 2 và mùng 3 Tết chỉ là tượng trưng. Tết Việt nếu xảy ra vào cuối tuần thì xôm tụ và vui vẻ hơn, vì còn tụ họp đúng dịp để gặp gỡ và chúc Tết nhau. Vào những năm mà ba ngày Tết xảy ra trong tuần thì chẳng có gì gọi là “không khí Tết” cả. Nó vẫn im ắng như mọi ngày. Người lớn đi làm, trẻ em đến trường, và mọi người vẫn lo công việc như những ngày bình thường. Cùng lắm thì chỉ nhắn tin, gọi điện chúc Tết dăm câu hay cùng gia đình đi vội lễ chùa Đêm 30.

Có một sự khác nhau giữa “Tết Việt ở Mỹ” với “Tết Việt trong nước” ngày càng rõ rệt. Những năm sau này, người Việt trong nước có xu hướng đi chơi xa, hơn là ở nhà vào những ngày nghỉ Tết. Nhiều người bỏ luôn việc cúng kiếng ba ngày Tết. Không ít người khóa cửa xách vali đi du lịch nước ngoài trước cả ngày cúng Ông Táo. Ngày càng có nhiều người thích khoe “ăn Tết” ở Singapore, Nhật Bản hoặc thậm chí châu Âu. Trong khi đó, Tết ở hải ngoại luôn là dịp sum họp. Con cháu tụ tập về gia đình; bạn bè gặp gỡ nhậu nhẹt, đánh bài, và rủ nhau đi chùa và nhà thờ… Với người Việt hải ngoại, dù xa quê và hòa nhập vào dòng chảy mới, người ta không bao giờ quên nét văn hóa đặc trưng dân tộc cũng như hương vị ngày Tết. Càng xa quê nhà bao nhiêu thì người Việt hải ngoại càng giữ chặt bấy nhiêu những giá trị truyền thống định dạng sự khác biệt giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trong một quốc gia “melting pot” như Mỹ…

San Diego, Tết 2022

    TẾT VỀ ĂN BÁNH TỔ    

Không biết còn bao người nhớ đến món bánh quê dân dã này. Cứ mỗi độ cuối năm, khi đường phố xuất hiện những cơn gió se se lạnh, cũng là lúc thấy bánh Tổ bày bán đầy trên các sạp đồ Tết. Dưới quê thì nhà nhà chuẩn bị lá chuối, đường, mè, đem nếp ra sàng sẩy, chuẩn bị xay làm bột, làm bánh…

Người miền Trung có câu “Bánh tét, bánh tổ, bánh nổ, bánh in” là những loại bánh truyền thống lâu đời của người dân xứ Quảng trong mấy ngày Tết. Từ rẻo đất miền Trung nắng gió, cái khó nghèo trong cuộc sống thể hiện trong từng cái ăn cái mặc. Bánh Tổ cũng vậy, có gì đâu ngoài bột và bột. Bánh Tổ ở quê ngày trước chỉ làm dịp Tết, chưng trên bàn thờ, trước kính Tổ tiên, sau ăn lấy thảo, ăn để nhớ công ơn người trồng lúa gạo.

Bánh Tổ có hình tròn đầy đặn, bên ngoài được bọc bởi một lớp lá chuối. Phía trên mặt bánh là một lớp mè trông rất ngon mắt. Người Trung dùng đường bát, loại đường đặc trưng ở Quảng Nam, để làm bánh Tổ. Đường nấu tan với gừng giã dập để thiệt nguội rồi lọc lấy nước bỏ xác. Trong khi đó đi chọn nếp, chọn loại nếp mèo ngọn, xay mịn, ủ vài tiếng cho bột nở. Rồi hòa bột với nước gừng, đổ vô khuôn tre (đài tre) lót lá chuối, đem hấp cho bánh chín mềm rồi rắc mè rang lên mặt, để nguội. Bánh được xem là đạt khi có màu nâu sậm, vị ngọt vừa phải, lẫn vị cay ấm của gừng, dẻo dai của bột …

Hiện ở Quảng Nam, đa số nhà làm bánh Tổ lâu đời vẫn dùng loại khuôn gọi là cái cái rọ hình tròn, đan bằng nan tre vót mỏng, bên trong khuôn lót một lớp lá chuối thật kín sao cho khi châm bột sệt vào không bị chảy ra, cắt xén vành lá cao hơn thành khuôn chừng vài phân để bánh nở lên trông vẫn đẹp mắt. Đặc biệt khi hấp không cần dầu mỡ, bánh nguội sẽ tự tróc lá dễ dàng.

Bánh mới hấp cắt ra ăn dẻo, dai mà thơm mùi gừng lắm. Nhưng cái hay và lạ của bánh là ít ai ăn ngay. Thông thường, người ta mang đi phơi vài nắng, tùy thời tiết, để bánh khô cứng lại, đến khi vỏ bánh ráo, có thể lột lớp vỏ lá chuối ra dễ dàng. Khi đó bánh được bày trang nghiêm lên bàn thờ, vừa cúng vừa chưng trong mấy ngày Tết, rồi mới cất đi để dành ăn dần. Bánh càng khô, càng để bao lâu cũng được.

Cách ăn bánh cũng khá độc đáo. Bánh sẽ được cắt từng lát mỏng, nhưng vì để lâu, sẽ cứng như đá, cắt miếng nào miếng đó nghe cạch cạch như bửa củi. Có người nhúng từng lát bánh qua trứng đánh tan, có người để nguyên miếng vậy chiên lên. Cách nào cũng ngon, và lạ là dù có cứng cách mấy, bánh sau khi chiên lên sẽ dẻo dai, thơm ngọt và cay nồng vị gừng, vỏ ngoài hơi cháy vàng, giòn, ăn một miếng thế nào cũng muốn nhón thêm miếng nữa! Còn gì tuyệt vời hơn gắp một miếng bánh nóng, nhâm nhi với một tách trà gừng còn bốc khói, vị ngọt của bánh hòa trong cái chát thơm của trà, chẳng phải là cái vị Tết thanh thanh đang tan trên đầu lưỡi đấy sao …

Ngoài món bánh Tổ của người miền Trung mình còn một loại bánh Tổ của người Hoa, gọi là “nián gao” có nghĩa là năm mới thịnh vượng hơn năm cũ. Vì vậy, cũng như người Việt, bánh Tổ là món không thể thiếu trên bàn thờ của người Hoa trong ngày Tết. Cũng cùng tên gọi, cũng nếp, cũng đường nhưng “nián gao” khác bánh Tổ của người miền Trung. Phổ biến nhất có hai loại, màu trắng và màu vàng. Loại màu trắng sử dụng đường cát trắng, có nơi dùng đường phèn. Loại màu vàng sử dụng đường tán, đường nâu. Tuy nhiên, hiện nay nhiều cửa hàng còn có thêm một số loại bánh với hương trà xanh, vị đậu đỏ, vị dừa, đủ màu đủ sắc phục vụ nhu cầu đa dạng cho thực khách.

Cách làm bánh, theo truyền thống cũng khá cầu kì và thêm một số nguyên liệu khác so với bánh Tổ người Việt. Theo một sư phụ người Hoa chuyên làm bánh Tổ dạy lại, thì để bánh ngon, phải mua nếp về ngâm qua đêm, sau đó mang đi xay mịn và để ráo bột, khi bột ráo lại mang đi phơi thêm một nắng. Bột nếp sau phơi đã hơi ráo thì mang vào trộn với đường đã được thắng để nguội cho đều rồi đem hấp. Sau khi bánh chín, nhẹ nhàng lật bánh ra dĩa, có thể rắc một ít vừng hoặc một quả táo khô đỏ tượng trưng may mắn lên bề mặt để trang trí.

Bánh Tổ, giản đơn mà mang đầy ý nghĩa của cả một nền văn hóa lúa gạo; đến ngay cả cái màu nâu sẫm cũng mộc mạc, chân quê. Vậy nhưng chỉ khi nếm thử một lần, mới thấy cái ngọt, cái ngon đậm đà, riêng biệt không lẫn vào đâu giữa hàng ngàn thức bánh cổ truyền của ngày Xuân.

Bài và ảnh: THANH NHÀN (Houston, Texas)

    Tê Hát sưu tầm    

GNST Modérateur

Xem thêm...

Ăn theo lối Huế - Bs Bùi Minh Đức

Ăn theo lối Huế -

Bs Bùi Minh Đức

Lưu lạc qua xứ Hoa Kỳ, hàng ngày vẫn được gia đình cho ăn nhiều món Huế khác nhau, tôi đã tưởng văn hoá ẩm thực xứ Huế mình chắc chắn sẽ còn tồn tại mãi trên đất nước người ta. Tuy nhiên, vừa rồi được mời đi ăn đồ ăn Huế tại nhà của một con dân xứ Huế khác, tôi mới ngớ người ra khi chạm mặt với sự thật phủ phàng, khi nhận thức ra rằng văn hoá ẩm thực Huế tại xứ người đã có nhiều đổi thay nhiều hơn là mình tưởng. Món bún bò dọn ra cho khách ăn được múc vào chén cho lịch sự. Chén bún bò nước trong leo lẻo (vì đã được vớt mỡ cho nhẹ bớt cholestérol), với con bún nhỏ mình (mà bà chủ cho là để ăn cho thanh tao), nước nhiều hơn xác (để ăn cho nhẹ bụng) và với lát thịt giò to và dày che gần kín mặt chén vì thịt heo Mỹ là ngon nhứt. Chén bún bò dọn ra trông chẳng bắt mắt mà cũng chẳng khêu gợi chút nào.
 
 Đọc ngay nếu bạn còn chưa chọn được món cho bữa ăn tại Đà Nẵng

Con bún được thực khách vớt lên ăn từng sợi với chiếc muỗng sành và khi sắp đưa lên thấu môi, con bún lại tự động tuột xuống chén. Một trò chơi gô gô. Miếng thịt đùi cũng được khách vớt lên muỗng rồi đưa nhẹ lên đầu môi cắn quanh, trợt lên trợt xuống! Còn đâu là lớp màng màng màu đỏ khêu gợi trên miệng tô bún bò năm xưa, còn đâu là đôi đũa nghề để vừa lùa bún lùa nước vào miệng, vừa có thể kẹp chặt miếng giò heo để mà khới, để mà cắn! Lối ăn bún bò của xứ Huế, của thời xa xưa, thôi rồi, đã bắt đầu đi vào dĩ vãng!
 
Nói như vậy rồi, chắc sẽ có người hỏi : ăn thế nào mới đúng theo lối Huế ? Nói theo thời thượng thì theo văn hoá ẩm thực Huế, ăn thế nào mới đúng ?. Người Huế ăn theo lối Huế là chuyện thường tình, cách ăn uống đã nằm trong tâm khảm họ. Ngồi vào bàn, cầm đôi đũa là đã biết gắp làm sao, cầm chén đũa làm sao, món gì phải ăn với món gì, vì đã nhiều lần từng được thấy cha mẹ mình, bà con mình dùng các thức ấy rồi. Thói quen đã thành, không cần thầy dạy. Tuy nhiên với sự xâm nhập của các văn hóa ngoại lai như những người Huế tha hương chúng ta đang chịu đựng, thiết tưởng cũng nên ghi ra cho biết cách ăn theo lối Huế kẻo lâu dần, ngay người Huế chính cống rồi đây cũng sẽ quên cách ăn đồ ăn Huế. Người Pháp có câu nói rất đúng trong trường hợp nầy, đó là : pour fixer les idées. Vì vậy, trong bài nầy, chúng tôi xin ghi lại cách ăn theo lối Huế, để cho biết, để cho nhớ.
 
Top 10 quán bún bò ngon quận Tân Bình nhất định phải thử
Chúng tôi xin bắt đầu với tô bún bò Huế, đọi bún bò mà dân Huế thường ăn vào buổi sáng. Bún bò Huế phải được múc vào tô, vào đọi, không quá nhỏ như cái chén mà cũng không quá to như cái âu. Bưng tô bún bò lên phải cảm thấy vừa tay, không nặng quá mà cũng không nhẹ quá.
 
Ăn bún bò Huế phải dùng đũa mới trị được các con bún và miếng giò heo trong đọi bún. Tô bún bò Huế, hay đọi bún bò Huế đúng cách phải dùng con bún to mình chứ không phải thứ bún nhỏ để làm bún thang như ngoài Bắc. Khi ăn, người ta húp cả bún lẫn nước, con bún to cứ theo đà mà chạy tuột vào cổ, không gặp trở ngại nào trên đường đi xuống. Người ta dùng đôi đũa để lùa bún và nước vào miệng chứ không dùng thìa để vớt từng sợi bún hoặc húp từng muỗng nước bún như con gái nhà lành.
 
Giáo sư Tai Mũi Họng Kameo, thuộc Đại học đường Tokyo ngồi ăn món Sukiyaki với tôi năm 1969 cũng đã ăn món quốc hồn quốc túy của Nhật bằng cách húp sùm sụp chứ không dùng thìa. Theo ông, húp sùm sụp có 3 điều lợi : vừa làm nguội, vừa chận xuơng, vừa gia tăng vị giác bằng cách kích thích lâu dài các gai lưỡi bên trong.
 
Nhà văn Võ Phiến, người gốc Bình Định, đã từng học được kinh nghiệm ở Huế nên có lần được mời ăn bún bò ở nhà một người Huế tại Hoa Kỳ, gia chủ quên không dọn cái muỗng vào mâm, ông đã bưng luôn tô bún bò lên rồi dùng đôi đũa lùa cả bún và nước vào miệng.
 
Let's Gain Gastronomic Experience on Hue Street Food Tours
 
Vừa ăn ông vừa khen gia chủ là một người sành điệu, theo đúng tập tục ngàn xưa. Miếng thịt heo trong tô bún phải là thứ thịt của con heo cỏ thả chạy rong trong vườn, không quá dai mà cũng không quá mềm và nhất là không có mùi hôi heo.
 
Theo hai chuyên viên ẩm thực Huế Trần Thị Duy Ninh và Lê Văn Trang ở Montreal, Canada, thì giò heo, thịt heo phải được rửa sạch trước vài lần và sau khi luộc cũng rửa vài lần, rồi dầm tiếp trong nước dấm và muối ít nhất trong 8 đến 10 giờ đồng hồ. Sau đó lại được xả nước sạch, rồi mới um với gia vị. Um xong, phải đổ nước um đó đi đừng dùng, rồi để giò heo, thịt heo trong rá, khi múc bún mới gắp giò ra để trên mặt đọi bún. Như vậy giò nấu mới trắng và mềm.
 
Ngoài ra, nấu bún bò phải có sả và cũng phải có ruốc. Theo một chuyên viên ẩm thực Huế khác ở Orange County là thì nêm ruốc trong nồi bún bò phải cẩn thận để không có mùi ruốc bằng cách đánh ruốc trong chén nước lạnh, quậy lên rồi để lắng, sau đó mới lấy phần trên cho vào nồi bún. Đánh bằng nước nóng rồi đổ vào là hỏng. Bún bò có ruốc mới ngon nhưng không được có mùi hôi ruốc.
 
Nói theo người Pháp thì chỉ cần một soupcon tức một thoáng mơ hồ của ruốc trong nồi bún bò là đủ. Miếng thịt heo trong nồi bún cũng phải được cạo sạch lông trước khi bỏ vào nồi chứ không thể để cho lông măng vẫn còn tua tủa, rung rinh trên miếng thịt khi thực khách đưa vào miệng.
 
Nếu là giò ngoéo thì người Huế có quyền cầm luôn cả lên tay mà cạp, mà khới cho thoải mái. Muốn khới miếng giò heo người nội trợ phải nấu cho giò chín vừa đúng. không quá mềm mà cũng không quá dai. Vừa ăn vừa mút miếng giò, thỉnh thoảng chấm giò vào chén nước mắm có pha chút ớt bột cho thêm phần thấm thía.
 
Tổng hợp cách nấu bún bò Huế công thức ngon chuẩn vị | ĐVP Market
 
Người Huế sành điệu thường ăn luôn cả một tô giò mới đã và thường là phải đặt cọc mụ bán bún bò trước cả tuần mới có. Nghề ăn cũng lắm công phu ! Nghĩ cho cùng, thì đâu cũng thế, khi ăn cần phải được thoải mái. Người Bắc với thú ăn chơi của họ, cũng đã có câu “Thịt gà, cơm nếp, đàn bà. Cả ba thứ ấy đều là cầm tay”!
 
Khi ăn bún bò, dân Huế thường vừa ăn vừa cắn trái ớt, và nếu cay thì người ta hít hà cho đỡ cay, chứ không cần phải làm điệu, gồng mình âm thầm chiụ đựng. Khi hít hà, luồng gió hít hà lùa vào vào sẽ làm giảm cay tuy nuớc mắt và nước mũi vẫn còn lòng thòng chảy.
 
Công dụng của hít hà không những có hít làm cho mát mà còn có hà để tỏ sự khoái lạc, vừa ý, ngấm ngầm khen bà nội trợ nấu bún ngon. Dân Huế ăn bún bò vào buổi sáng cũng như người Bắc ăn phở Bắc ban sáng. Tuy nhiên, đọi bún bò ngon nhất có lẽ là đọi bún bò ăn vào buổi chiều, khoảng từ ba đến bốn giờ chiều, lúc bà bán bún sắp sửa ra về.
 
Đọi bún bò lúc đó ngon là vì nước bún bò hầm cả ngày đã trở nên thấm thía, lại ăn đúng lúc bụng đang đói nên dễ ngon miệng. Vì thế, người Huế có lệ trả mua cả gánh bún cho người ta gánh nồi về sớm, một việc tiện lợi cho cả hai đàng.
https://thantrinhomhue.files.wordpress.com/2021/12/2-14.jpg
Bánh khoái Huế
ngon không phải ngon ở miếng bánh dòn mà mình đã được ăn mà chính là ở chỗ ngồi chờ, ở chỗ chờ đợi: ngồi đợi quạt lò cho khói toả lên nghi ngút, ngồi nghe tiếng quậy đũa đánh trứng, đánh bột, tiếng sai bảo của chủ nhà với đám đệ tử trong không khí bận rộn khẩn trương do đám khách quý vừa vào hàng, tiếng kêu xèo xèo của bánh khoái đang được đổ trong khuôn bánh, trong cái không gian được sưởi ấm từ lửa lò phát ra.
 
Cái ngon của bánh khoái là cái ngon của dĩa rau sống, của chén nước lèo, cảm nhận cái dòn tan của miếng bánh trong miệng, cái vị nhờn của mỡ trộn với cái chát của trái vả, cái chua của lát khế, cái cay của cải ba lá đầu mùa. Ngon hơn nữa là cái thú cắn trái ớt sống để kích thích thêm khẩu vị.
 
Cái ngon của bánh khoái là cái cảnh tụ họp giữa bạn bè trên cùng chiếc chiếu, đưộc ngồi kề bên nhau trong khi phía bên ngoài là cái lạnh của Huế về mùa xuân. Cái ngon là do câu chuyện dòn như pháo nổ giữa những người cùng lứa cùng thì, trong cảnh mịt mù của khói cay làm mờ mắt.
 
Thời gian ngồi đợi giả bánh kế tiếp tưởng như là thời gian đợi chờ của đời người. Thời gian đợi chờ để cùng chia xẻ miếng bánh với người mình thương là thời gian được cùng cảm nhận một chút riêng tư với người mình để ý.
 
Ăn bánh khoái thường là về mùa xuân lúc cải ba lá vừa bắt đầu vươn lên dưới trời lạnh, khi con tim người Huế đang được sống lại qua mùa gió mưa, khi tâm tư đang hoạch định kế hoạch tương lai với những hy vọng tràn trề.
 Cách Làm Bánh Khoái Vừa Dễ Vừa Ngon
 
Trên bình diện ẩm thực và tâm tình, ăn bánh khoái Huế là ăn trong cảnh đợi chờ, để cùng nhau tìm hiểu tâm tư, để cùng nhau chia xẻ cuộc đời vào những ngày sắp tới. Nếu ăn vội ăn vàng thì xin ai đừng ăn món bánh khoái Huế. Tội cho cải ba lá và cũng tội cho trái vả của dân Chiêm Thành. Nói vậy là nói thiệt lòng.
 
Ở Huế bây giờ người ta thường chiều theo thị hiếu và túi tiền của khách ăn từ xa tới muốn thưởng thức một lần cho biết đồ ăn Huế. Họ dọn cho khách ăn một dĩa vừa bánh bèo, vừa bánh nậm và bánh bột lọc bằng một tên gọi không mấy gợi cảm là bèo nậm lọc, tức một thứ hỗn hợp combo bát nháo.
 
Ăn bánh Huế như vậy là không đúng theo văn hóa Huế. Ăn các thứ bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc ấy cũng phải biết cách ăn cho đúng mới ngon, mới có ý nghĩa. Ăn mỗi thứ riêng rẽ mới thấy được cái đặc biệt của bánh, cái tài của người nội trợ.
 
Bánh bèo phải mỏng, phải có xoáy. Bánh nậm phải lép và khi cuốn lại không gãy hoặc không nát ra. Bánh bột lọc phải trong, nhụy tôm thịt bên trong phải bắt mắt và khi ăn phải vừa béo lại vừa thơm.
 
Ba thứ bánh Huế trong combo nầy lại dùng nước chấm khác nhau, làm sao có thể đi cùng với nhau trong combo bèo nậm lọc được. Bánh bèo dùng nước chấm ngọt, bánh nậm không cần dùng nuớc chấm nhưng bánh bột lọc thi phải dùng nứơc chấm mặn mới ngon. Rắc rối là thế.
 
Ăn bánh bèo Huế người ta có thể húp phần nước mắm còn lại trong chén, cùng với nhụy tôm còn sót lại dưới đáy chén, không phải vì tiếc của nhưng chỉ như thế mới ngon, mới thấm thía. Đấy là chưa kể ăn cho đúng điệu thì phải ăn bánh ngay trong chiếc chén đỗ bánh bằng đất, lúc đang nóng mới lấy ra từ lò hấp. Chén đang nóng thường được vất vội ra ngoài khi lấy ra cho kịp giả khác nên miệng chén thường có sứt có bễ. Cũng không hề gì.
 
Chiếc bánh ăn trong chén sẽ ngon hơn vì thấm nước mắm hơn. Rứa mới thiệt là sành điệu. Ăn xong mỗi chén, người ta còn sắp chén chồng nhau rồi đếm chén để xem ai ăn nhiều ai ăn ít. Người ăn nhiều là người có sức sống đang lên, người ăn ít là người có thể chất yếu đuối, cô mô mà thèm lấy.
 
Dân sành ăn thường không ăn bánh bèo ở tiệm mà phải đợi cho được O bánh bèo nách với cái rổ bánh dưới tay mới ăn. Bánh bèo nách ăn ngon đặc biệt, không phải vì cái hơi hướm của O bánh bèo còn sót lại mà vì chiếc bánh của O đỗ đã mỏng mà lại có xoáy. Chiếc bánh trông rất bắt mắt. Đó là dấu hiệu, là con của dân đổ bánh bèo nhà nghề.
 
Lại thêm, bánh của O ngon là vì cái nhẹ nhàng của bàn tay O khi lấy chiếc bánh chưa chầy nhụy từ rá bánh ra, là vì cái trìu mến của O khi O sắp bánh trong cái dĩa nhỏ với chiếc chèo tre trên tay, hai ngón tay kẹp sát mũi chèo đặt nhẹ từng chiếc, từng chiếc bánh xuống lòng dĩa. Rồi O phất. O phất cái cuống lá chuối dài bằng gang tay với một đầu tòe ra trên dĩa bánh bèo sau khi nhúng vào chén mỡ nước.
 
Đó là giai đoạn chầy bánh bèo mà dân Huế tinh nghịch một thời đã ví von với hoạt cảnh của người yếu sinh lý, khóc ba tiếng cười ba tiếng rồi ra về. Bàn tay O thoăn thoắt, ban ơn mưa móc rải nhụy tôm hồng trên dĩa bánh trước khi bưng đến cho khách ăn. Ăn chiếc bánh bèo nách đó cùng với lát thịt phay xắt mỏng chấm với nước mắm mặn, ai mà nỡ rời Huế cho đành !
 
Bánh nậm Huế và bánh lá Huế
 
 Bánh nậm là bánh gì? Bánh nậm làm từ bột gì và những nguyên liệu nào?
tuy có người ăn đã nhiều lần nhưng hình như họ vẫn còn lẫn lộn hai thứ bánh đó. Cả hai đều được gói lá chuối, lá đon, đều lép dẹp và đều phải hấp hơi cho chín. Đối với họ, bánh lá và bánh nậm đều sàng sàng giống nhau, ăn bánh lá cũng như ăn bánh nậm.
 
Không có gì phản văn hóa bằng! Đối với dân Huế, bánh lá rõ ràng khác hẳn với bánh nậm: bánh lá mỏng hơn bánh nậm và bánh lá chỉ dùng tôm làm nhân còn bánh nậm có nhân vừa với thịt bằm và vừa với tôm bằm.
 
Người Mường họ cũng có péng la với nhụy là cá bằm, thứ cá bắt được từ các sông các suối ù. Do đó, suy nghiệm từ chiếc bánh lá, ta có thể nói liên hệ giữa người Huế và người Mường không phải là không có, nghĩa là bánh lá của Huế đã có mặt từ mấy chục thế kỷ trước.
 
Bánh lá thưòng được ăn kèm với chả tôm Huế. Khi ăn, bánh lá có thể được cuốn laị thành từng cuộn tròn hoặc cuốn cả miếng chả tôm màu hồng bên trong. Cũng như tất cả các món ăn Huế khác, bánh lá và bánh nậm thường không nên ăn quá nóng mà phải để cho hơi nguội mới ăn, cho đến khi mình bánh đã chắc, dễ lóc dễ lột, ăn mới ngon.
 
Chiếc bánh lúc đó dễ bóc ra khỏi lá và cũng dễ cuốn tròn lại, không bị bể ra, không bấy ra. Chả tôm ăn kèm bánh lá thường được cắt theo hình thoi và dọn trên dĩa riêng đặt trong mâm. Chả tôm ăn phải có cái dòn của con tôm còn tươi khi bóc vỏ, không mềm nhão do pha quá nhiều bột. Nếu chả tôm ngon thì chỉ thoáng một cái là dĩa chả tôm sẽ trống rỗng, nằm chờ hơ.
 
Có thể nói, dân Huế ăn thiệt đaị sành điệu cho rồi! Bánh lá thường được các cụ thích vì các cụ cho là ăn nho nhã. Bánh nậm thường để cho trẻ con ăn buổi chiều, hoặc cho kẻ đau mới dậy. Bánh lá và bánh nậm không phải để ăn độn bụng cho no.
 
Ăn như vậy, các cụ bảo là ăn theo lối phàm phu tục tử. Ngoài ra, bánh nậm mà được chấm với nước mắm nguyên chất thì hương vị sẽ đậm đà hơn. Và lẽ tất nhiên, nếu có trái ớt đi cùng thì thiệt là nhứt hạng.
 
Bánh ít Huế
có hai thứ: bánh ít trắng và bánh ít đen. Bánh ít đen thường là ngọt, dùng để ăn tráng miệng. Bánh ít trắng có dạng tròn, thường có nhụy là tôm rằn với thịt heo vừa mỡ vừa da. Bánh ít trắng có hai thứ: bánh ít lá được gói trong lá chuối rồi đem hấp chín và bánh ít trần không có lá gói nhưng cũng được hấp trên vĩ có lót lá chuối và có thoa mỡ với màu hồng của con tôm và màu vàng của miếng mỡ thấy rõ mồn một bên trong.
CÁCH LÀM BÁNH ÍT TRẦN NHÂN MẶN ĐƠN GIẢN MÀ NGON | NAKK
 
Thông thường trên bánh ít trần, người ta có phết một tí nhụy tôm để sang trọng hóa chiếc bánh khi dọn ra. Một chuyên viên ẩm thực quốc tế đã viết đâu đó là người Huế còn ăn đồ ăn Huế theo nguyên tắc thẩm mỹ.
 
Theo cách thức ăn chung của đồ ăn Huế, bánh ít cũng phải để nguội mới ăn để cho bớt dính, để cho bớt mềm, và thường là kẹp chung với bánh ram dòn. Bánh ram cũng là bánh ít đã được ram vàng và trở nên vàng rụm dòn tan.
 
Khi ăn, dân Huế sành điệu kẹp dẹp bánh ít cùng với bánh ram để cùng ăn một lần. Bánh ít ram đó thường được cầm tay để ăn, vừa mềm vừa cứng, vừa có âm vừa có dương, âm dương hòa hợp. Ăn vậy mới đúng là ăn theo cách Huế, và ăn thế mới ngon.
 
bánh ram ít
Đời bây giờ, bánh ram thường ít khi được dọn ra để cùng kẹp ăn chung với bánh ít trắng như hồi trước. Lý do là vì theo nguyên tắc chung để ram bánh thì cũng không khó làm nhưng không phải ai cũng có tài làm bánh ram. Làm không khéo thì chỉ để một lát sau là bánh ram sẽ xìu, ăn không còn ngon dòn nữa mà trái lại ăn dai dách dách. Để lâu hơn nữa thì lại cứng hẳn.
 
Bánh ram ngon nhất mà tôi đã được ăn trên đất Hoa Kỳ là của một vị giáo sư trường Đồng Khánh cũ, bà Lê Thị Thanh Tâm, vợ của đồng nghiệp BS Lê Xuân Công. Tuy được ăn đã từ lâu, cũng đã gần 20 năm rồi nhưng mà mùi vị của cặp bánh ít bánh ram đó vẫn còn đeo đẳng trong trí của tôi, môt mùi vị nhớ đời. Nói vậy để biết rằng cái ngon của đồ ăn Huế khó mà quên được, cho dầu xa xôi cách mấy.
 
Bánh ít không phải là món mà các cụ già ở Huế ưa thích vì răng các cụ kém nên ăn bánh nầy dễ bị dính răng. Và cũng xin ai có hàm răng giả đừng ăn món bánh ít Huế nầy, không khéo có lúc lại nhai luôn hàm răng giả của mình! Món bánh ram lại càng khó cho các cụ ăn, dai như da, cứng như đá, làm răng mà ăn được!
 
Bánh bột lọc Huế
cũng có hai thứ: thứ có bọc lá chuối rồi hấp và thứ để trần thả vào trong nồi nước sôi để luộc cho chín. Thứ luộc sôi nầy còn có tên là bánh quai vạc, khi chín vớt ra để trên dĩa và được bôi mỡ hành lên mặt. Cả hai thứ bánh đều làm bằng bột lọc, bọc nhụy tôm thịt, khi chín bột trở nên trong, thấy rõ được tôm thịt phía trong.
 
Luộc bánh bột lọc bao nhiêu phút thì chín ngon ? | baonhieu.net
 
Ăn bánh bột lọc cũng không nên ăn khi quá nóng, phải đợi khi hơi nguội mới dễ cắn hơn vì cứng mình hơn. Bánh bột lọc là thứ độn bụng và thường được chấm với nước mắm mặn mới ngon. Chén mước mắm chấm bánh bột lọc thường có trái ớt xanh, thứ ớt chìa vôi, được xé từng mảnh nhỏ dầm trong nước mắm.
 
Ớt xé nhỏ vừa cho từng mảnh ớt dòn, vừa tản mát các hột ớt, vừa để lộ cuống ớt với màng ớt mà ngày nay người ta biết là nơi tập trung của tinh túy cay Capsaicin. Dân Huế qua kinh nghiệm của tiền nhân của họ truyền lại, đã biết nghề ăn ớt từ lâu. Họ ăn ớt, vừa cắn vừa ăn, vừa ăn vừa hít hà, thiệt không có gì thú bằng.
 
Bánh canh Huế
ngon nhất là bánh canh Nam Phổ, ở phía dưới Vỹ Dạ. Khó có thể ăn bánh canh Nam Phổ trước hai giờ chiều vì các O nam Phổ còn đợi cho được tôm tươi Thuận An đem lên bán mới bắt đầu nấu gánh đi bán.
 
Thuyền của các ngư phủ Thuận An đi biển cả đêm đến sáng mới về thấu bến nên con tôm con cá mua lúc đó tươi không đâu bằng. Chiều chiều, vừa sau buổi trưa là thấy từng đòan mấy O gánh bánh canh mặc áo dài từ phía Vỹ Dạ tất tả gánh lên Huế bán. Người sành ăn phải biết đón đúng lúc mới có ăn, chậm là hết gánh.
 
Bánh Canh Tươi Bột Lọc Huế - Chuẩn Hương Vị Cố Đô
 
Ở Huế, các nhà mê bánh canh Nam Phổ phải cho người ra đứng sẵn ngoài đường để hướng dẫn O bánh canh vào nhà. Nói thật ra là để đi kèm mấy O cho ăn chắc, không chạy đi mô được hết! Đó cũng là kỷ thuật của nhà thơ lão thành Ưng Bình Thúc Giạ Thị hồi xưa (1877-1961) đã áp dụng để chắc chắn có bánh canh Nam Phổ ăn mỗi buổi chiều. Vị thi sĩ nầy đã mê bánh canh Nam Phổ đến nỗi đặt luôn Câu Hò Bánh Canh Nam Phổ và dạy cho cô gái út, thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ngâm nga mỗi khi có khách đến nhà cùng lão thi sĩ thưởng thức món ăn Huế mộc mạc nầy:
 
Mời chị mời anh chén bánh canh Nam Phổ,
Xơi vô khỏi cổ có chất bổ có mùi hương,
Lại thêm mát mẻ can trường,
Sâm Cao Ly cũng sút, rượu Quỳnh tương cũng không bì
 
Cũng cần nói lại, nghề ăn cũng lắm công phu ! Có tiệm ăn ở Huế cũng quảng cáo giả là mình có Bánh canh Nam Phổ để mập mờ đánh lận con đen nhưng đối với người quen ăn thì thứ bánh canh Nam phổ so với các thứ bánh canh đó là một trời một vực.
 
Chúng ta hãy nghe thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương ở làng Vỹ Dạ tả bánh canh Nam Phổ: Sợi bánh canh lớn gấp mấy lần sợi bún, làm bằng loại bột gạo lọc, trong như tuyết, ở trên rãi một lớp nhụy tôm cua và ớt đỏ như son.
 
Bánh canh Nam Phổ không quá đặc mà cũng không quá lỏng, con bánh không dai mà cũng không nát. Trên mặt chén, lúc múc bánh canh, chỉ cần một cái vung tay nhẹ của O bánh canh là đã có một mảng đỏ gạch cua xinh xinh, hấp dẫn và có đủ tôm cua trong chén, nghĩa là có đủ cả, không cần phải múc lần thứ hai.
 
Bánh canh Nam Phổ ngon là vì thế, mấy O Nam Phổ tài tình là thế. Ăn chén bánh canh, không cần nuốt, chỉ cần húp mà miếng bánh canh vẫn trôi trụt xuống như thường.
 
Cơm hến Huế
ban xưa là một món ăn của con nhà nghèo. Cơm hến Huế phải dùng cơm nguội, thứ cơm ăn còn dư hồi hôm, vất đi thì uổng. Hến thì suối rạch nào mà không có. Cả cái Cồn Hến sờ sờ trên sông làm sao không có hến mà dùng. Ruốc thì lúc nào cũng sẵn. Da heo với tóp mỡ thì không phải là đồ khó tìm hoặc đắt đỏ chi cho lắm. Rau sống thì ở mô lại không có. Bắp chuối sống thì đầy dẫy, nhà nào lại không có trồng chuối. Ớt thì loạn thiên loạn địa.
 
Nhớ hoài cơm hến sông Hương | Tạp chí du lịch
 
Từ các yếu tố sơ sài cấu thành ấy, vị thủy tổ Huế hồi xưa tìm ra món Cơm Hến Huế đã tạo ra được một món ăn độc đáo cho con cháu sau nầy. Thiên tài là đó. Muốn cay cũng có, muốn mặn cũng có, muốn béo cũng có, muốn thơm cũng có, muốn nước cũng có, muốm xác cũng có. Muốn nhiều mùi, nhiều vị đều có. Muốn độn bụng cũng có. muốn ăn nhẹ cũng có, muốn ăn ngon hay dở thì tùy theo mình pha chế.
 
Vì vậy, cơm hến Huế có đến hàng chục gia vị, kể cả ruốc Huế, có cả hàng chục thứ để pha chế vào, để rắc vào, để thêm vào cho thành đọi cơm hến lý tưởng của riêng mình. Ăn cơm hến Huế nhất thiết phải hít hà vì phải có cay mới ngon, phải có cay mới trị được mùi tanh của hến của ruốc, phải có chảy nước mắt, để nhớ đời.
 
Vả lại, sống ở cái xứ rừng thiêng nước độc, nghe con chim kêu cũng sợ, nghe con cá vẫy vùng cũng lo thì ớt là thứ thuốc không thể nào không có để chống lại tật bệnh, chống lại các cơn sốt hoành hành không dứt.
 
Giấm nuốt
là môt món ăn đặc biệt của Huế, không đâu có. Người Huế nào khi trở về Huế cũng muốn ăn cho được một đọi giấm nuốt trước khi lên đường ra đi tiếp. Giấm nuốt dựa trên con nuốt trong mà chỉ về mùa hè mới có. Con nuốt và con sứa ít ai phân biệt nhưng chỉ có môt món giấm nuốt mà thôi.
 
Người ta phân biệt nuốt mình và nuốt chưn nhưng dân sành điệu thì phải là nuốt chưn mới được với lẽ dể hiểu là nuốt chưn ăn dòn hơn là nuốt mình. Giấm nuốt phải có rau sống và nước lèo. Dân Huế ăn gì cũng phải có rau sống, một đặc điểm của người Huế, khác với dân Tàu ở chỗ đó. Và những lát vả của dân Chiêm Thành cùng ăn chung với rau sống Huế!
 
Bún “Nuốc” xứ Huế – Món ngon đậm chất miền trung
 
Con nuốt chưn được để sơ trên mặt chén, màu trong sáng trên nền xanh của rau sống, mới thấy đã thèm. Nước lèo màu đỏ hồng, có thể là của nước của tôm kho đánh, sền sệt, trộn lẫn với vài miếng thịt heo nho nhỏ, vừa da vừa mỡ vừa thịt đã được rim ngọt sẵn. Ăn vô, ngậm mà nghe !
 
Thịt nướng Huế
đi cùng với món nem nướng, đi cùng với bánh ướt thịt nướng không phải dễ mà tìm. Thịt heo nướng phải là thịt của con heo cỏ, thứ heo Huế nuôi sẵn, chạy rong trong vườn. Thịt không hôi mà thịt lại rất mềm với lát da mềm ăn dòn trong miệng. Nướng lên thơm phức!
 
Ăn thịt nướng Huế mà ngồi chễm chệ trong nhà để cho người làm bưng vào mà ăn là hỏng, nói theo Nguyễn Tuân! Phải vừa ăn vừa hít cái mùi thơm thoát ra từ lò nuớng mới được.
 
Thịt nướng ăn ngon là vì người ăn đã để cả giờ hít thở cái khói tỏa ra từ lò nướng trước khi ăn, đã hồi hộp chờ đợi gắp thịt nướng bên cạnh lò nướng, đã huởng thụ bằng mắt miếng thịt vàng óng ả còn nổi bọt sôi của nước ướp thịt ngay từ khi còn trên bếp than hồng!
 
Đã có cách làm bún thịt nướng miền nam cho bữa sáng gia đình
 
Phải thấy được O bán thịt nướng ngồi trước sân, ngửi được mùi thịt nướng thoát ra từ lò nướng, tản ra xung quanh theo làn quạt, phải thấy được khói xanh tỏa um trong sân vườn, trong cái mát của trời chiều mùa mưa, mới tận hưởng được món thịt nướng Huế.
 
Món cuốn Huế
tuy tầm thường nhưng ăn chiếc cuốn Huế, theo lối Huế thì mới biết là cuốn Huế thật độc đáo. Bí mật là ăn cả chiếc cuốn ! Vâng, phải lủm nguyên chiếc cuốn vào miệng, đừng cắn, đừng day và cũng đừng ngượng ngùng với các ngưới chung quanh. Chỉ có mình với mình, với chiếc cuốn Huế mà thôi thì mới đúng điệu!
 
Khi đang ăn cuốn Huế, không nên nói chuyện mà có nói chuyện cũng không được vì hai má đang bị chùng bùng và miệng thì đang bị chúng búng. Chiếc cuốn Huế thường được cắt ngắn, mục đích là để dễ lủm vào miệng cho gọn gàng. Trên mặt chiếc cuốn Huế, các bà nội trợ Huế thuờng để lát thịt phay và miếng tôm chua (cuốn tôm chua) hoặc con tôm luộc chẻ đôi hoặc miếng thịt heo luộc, hoặc chỉ với rau, bún, khoai lang luộc cùng với lá diếp (cuốn lá diếp), mục đích là để cho thực khách có thể đưa vào miệng dễ dàng sau khi chấm vào nước lèo.
 
Họ còn cẩn thận cuốn quanh chiếc cuốn một vòng dây lá hẹ cho chiếc cuốn khỏi sút ra. Chiếc cuốn Huế với đầy đủ mùi vị của thịt, của tôm, của rau, cọng với mùi vị của nước chấm, của đậu phụng đã cùng giúp nhau, cùng phụ nhau làm tăng khẩu vị.
 
Bánh Cuốn Bà Hanh, Thành phố Hồ Chí Minh - Đánh giá về nhà hàng -  Tripadvisor
 
Cuối cùng là chiếc Ram Huế, cũng rất chi là Huế. So với món chả giò đại bự của xứ Bắc, chiếc Ram Huế dáng vẻ thanh cảnh, trông chỉ nhỏ bằng lóng tay nhưng phải ăn vào miệng mới thấy Ram Huế có đầy đủ mùi vị hỉ nộ ái ố.
 
Cuốn trong lớp bánh tráng Huế mỏng mảnh với màu vàng óng ánh là miếng tôm tươi lột vỏ, quết thật nhuyễn với tiêu hành nước mắm, đường tỏi, theo đúng công thức của Bà Hoàng Thị Kim Cúc, vị giáo sư gia chánh của bao đời học sinh Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh. Phải cuốn với bánh tráng mỏng Huế chứ không phải với vỏ bọc mì hoành thánh của các chú Ba Tàu như một vài con dân Huế ở ngoại quốc đã chế biến!
 
Món ram Huế chế biến nầy cũng lớn gần bằng cái chả giò của dân Bắc và vì thế cũng khó mà gọi là ram Huế. Muốn làm ram Huế, con tôm phải tươi, còn nhảy khi bóc vỏ, miếng thịt còn săn và đỏ rói. Bí quyết ngon xơi là ở đó!
 
Ngoài các món ăn đặc thù Huế kể trên, dân Huế còn vô số món ăn chơi khác cũng cầu kỳ không kém và cũng đòi hỏi những thể thức lâu đời lâu kiếp trong cách làm và trong cách tận hưởng.
 
Xin đơn cử vài món ăn chơi Huế để mà thèm chảy nước miếng trước: Thịt gà mái tơ bóp rau răm, Cháo vịt, Bún thịt xáo, Hến xúc bánh tráng, Mít trộn, Mút ốc gạo, Ăn ốc mưu nấu sả, Xúc lớ bắp, Ăn khoai luộc, Ăn khoai nướng vùi, Ăn bắp nướng lửa than,.v.v., chưa kể đến cách ăn trái nhỡn lồng tráng miệng, cũng phải đúng cách, đúng kiểu. Không phải ăn răng cũng được. Và cũng không thể trong vài lời mà nói hết được. Nói cũng như ăn, cũng phải có lúc có thì. Xin hẹn quý vị vào lần sau vậy
 

Bs Bùi Minh Đức

 

Nam Mai sưu tầm

 

  Tổng hợp cách làm các loại bánh Huế ngon hấp dẫn đơn giản tại nhà

Xem thêm...

Các loài gia vị trong ẩm thực Việt

Các loài gia vị trong ẩm thực Việt

Thái Công Tụng

1. Dẫn nhập

Đặc trưng của ẩm thực Việt chính là nhờ các gia vị . Gia vị đã là nét văn hóa. Thực vậy, món ngon của Hà Nội có bún chả, chạo tôm, xôi mặn thập cẩm, chả cá Lã Vọng, ốc… Món ngon của Huế thì có bánh bèo , bánh khoái, hến xúc bánh tráng hay món ăn vỉa hè như bánh tráng nướng, mì Quảng, bò nướng lá lốt…Ngoài gia vị chính là nước mắm mà người Tây phương còn biết, ta còn gặp nhiều gia vị gốc thực vật như tỏi, ớt, gừng, v.v…, các loại rau như hành hoa, tía tô, kinh giới, rau diếp cá, tần ô, rau răm,rau mùi (ngò), ngò gai,sả, riềng, tỏi, rau húng quế, rau thơm,  v.. Trong bát phở, nổi bật là gia vị vì trong nước phở có nhiều gia vị như hồi (tiểu hồi, đại hồi), quế, tiêu. Có khi, nước phở có cho vào đinh hươngtương (tương đen, tương đỏ); hoa hồi thảo quả cũng là các gia vị . Phở Nam có đinh hương , và có thêm rau thơm . Còn phở truyền thống Bắc có hành nướng đen vỏ để tạo mùi và màu .Bún thang, bún chả của Hà Nội thường có tinh dầu cà cuống.

Từ vựng tiếng Trung về Các loại GIA VỊ nấu ăn ⇒by tiếng Trung Chinese

2. Gia vị trong vài ca dao

Gia vị với hành, tỏi, gừng, riềng, lá chanh, ớt v.v. đi liền với văn hoá ẩm thực Việt nên ta thường gặp trong ca dao .

Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng
Con trâu nằm ngửa nằm nghiêng
Xin chớ mua riềng, mua tỏi cho tôi
!

Ca dao ta cũng dùng gia vị để ví von trong tình gia đình:

– Chiều chiều khói tỏa mùi rơm
Bàn tay mẹ nấu bữa cơm quê mùa
Mồng tơi, rau đắng, canh cua
Tép rang, cà pháo, muối chua ăn cùng.

– Cá nẹp kho với quả sung
Thơm lừng lối xóm đi xa nhớ nhiều
Cơm được mẹ nấu bằng niêu
Gạo mùa chiêm mới nức chiều miền quê.
Mâm cơm đâu có gì nhiều
Mà sao ấm áp cả đời khó quên
Mẹ cha yêu mến kề bên
Trong mơ mẹ vẫn hiện lên khẽ khàng
.

Gừng, luôn là một gia vị được ông cha ta rất quý, bởi nó tượng trưng cho sự nồng ấm:

Ước gì em biến thành gừng,
Anh biến thành cá, ở chung một nồi.”

Ngoài gừng, ớt (Capsicum annuum) cũng là gia vị, luôn có mặt trong món bún bò Huế. Nhiều giống ớt như: Ớt Sừng Trâu, Chỉ Thiên, … và phảng phất trong nhiều ca dao:

Ớt nào mà ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Ớt nào là ớt chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng không ghen.”

Gia vị – Wikipedia tiếng Việt

Trong các cung bậc của tình yêu, nỗi đau bị phụ tình, là một nỗi đau khó diễn tả chính xác bằng lời, là tổng hợp gia vị chua cay mặn đắng, thể hiện nỗi sốc qua các gia vị đối chọi nhau, cũng thể hiện tâm trí rối bời của người con gái bị phụ tình :

“Em đây không dư giả,
Như lá hẹ bỏ màu thơm tho.
Lá hẹ thơm tho cũng nhờ nước nóng,
Anh ăn ở làm sao cho đằm thắm thủy chung?
Chớ ăn ở bờm xơm như muối lâu năm,
Ra đứng vạt gừng rưng rưng nước mắt,
Ra đứng vạt tỏi, vòi vọi trông hành.
Chim kêu xấu xa xấu vói trên cành,
Đây chưa bỏ đó, đó đành bỏ đây?”

 Hướng Dẫn Cách Sử Dụng Các Loại Gia Vị Mà Bạn Cần Biết - HNAEdu

3. Phân loại gia vị

Gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, tỏi, ớt v.v., cũng có nguồn gốc động vật như nước mắm

3.3. Gia vị nguồn gốc thực vật

Gia vị gốc thực vật có thể là ở dạng quả ớt như ớt, chuối xanh, khế chua, quả me, quả chanh.., dạng hạt như: hạt tiêu, hạt ngò.., dạng củ như củ sả, củ riềng, củ gừng, củ tỏi, củ kiệu, củ nghệ v.v.,dạng lá như rau răm, rau quế, lá hẹ, rau thơm, húng chó, ngò, tia tô, lá chanh, lá ổi, lá lốt. Rau húng thơm nổi tiếng ở làng Láng ngoài Bắc, ăn với phở; húng quế, húng lủi thường dùng ăn sống với tiết canh, lòng heo; thì là thường đi với món cá. Rau bạc hàhúng lủi là hai loại cây khác nhau, nhưng chúng đều thuộc chi Bạc hà (danh pháp Mentha), họ Hoa môi (Lamiaceae). Bạc hà có tên khoa học là Mentha avensis, còn húng lủi có tên khoa học là Mentha Aquatica.  Trong các loài rau gia vị, phải kể húng thơm nổi tiếng ở làng Láng ngoài Bắc, như câu ca dao sau đây:

Đi đâu mà chẳng biết ta,
Ta ở kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thìa là, cải cúc, đủ mùi hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà
Bí đao, đậu ván, vốn nhà trồng nên

  • cây hồi, danh pháp khoa học Illicium verum, là một loài cây gia vị có mùi thơm tương tự như cây tiểu hồi, thu được từ vỏ quả hình sao của Illicium verum, có nhiều miền Đông Bắc Bắc phần Viet Nam . Các quả hình sao được thu hoạch ngay trước khi chín.
  • cây bạc hà: là loại cây thân thảo, sống lâu năm. Cây cao 60 – 80 cm, mọc đứng hoặc hơi bò, phân nhánh. Thân hình vuông, màu xanh hoặc tím nhạt, có nhiều lông ngắn. Toàn cây có mùi thơm vì có vị cay, mát, chứa tinh dầu Menthol. Nhiều công dụng trong đó có dùng  làm gia vị.
  • cây ớt chỉ thiên: Ớt là một loại quả của cây thuộc chi Capsicum của họ Cà (Solanaceae). Ớt là một loại quả gia vị quan trọng trong các món ăn, có tính kháng oxy hóa rất cao, tác dụng tăng cường hệ miễn dịch và làm giảm huyết áp.
  • cây gừng là loại cây trồng thông dụng trong vườn rau gia vị. Ngoài ra, còn phải kể thêm cây ngò, cây tía tô, cây húng quế (húng thơm).
  • cây hành lá là loại rau gia vị chủ yếu trong các bữa ăn gia đình.
  • cây rau răm. Để phát huy hết công dụng của trứng vịt lộn, người ta thường ăn kèm với rau răm, gừng tươi và 1 chút muối. Đây cũng chính là những vị thuốc Đông y giàu dược tính.Gừng tươi có tác dụng kích thích tiêu hóa, giải độc thực phẩm. Trong khi đó, rau răm tính ấm có tác dụng ấm bụng, chống đầy hơi, sát trùng, tán hàn,  mạnh gân cốt, chữa lạnh bụng.
  • cây tỏi là một loài thực vật thuộc họ Hành và cũng được con người sử dụng làm gia vị, trong nhiều món ăn.
  • Sử dụng gia vị như thế nào là an toàn khi nấu ăn?

Lá làm gia vị như lá Cà ri (Murraya koenigii : cà ri Ấn Độ,  họ Cam quít Rutaceae  hoa và lá đều thơm. Người Việt cũng dùng lá Cà ri trong nấu nướng nhưng có lẽ Bột Cà ri thông dụng hơn; lá Chúc, tên thực vật Citrus hystrix, họ Cam quít Rutaceae ; lá Kaffir, hay còn gọi là Chanh Thái (chanh Thái Lan), là một gia vị đặc trưng trong thức ăn Thái. Thức ăn Việt miền Nam bộ, ưa dùng lá này khi nấu  hải sản.Còn bột cà ri theo em hiểu là một hỗn hợp chế biến từ nhiều gia vị trong đó có cây Cà ri, nghệ, ớt, các rau mùi, quế, hồi… Thành phần thay đổi tuỳ nhà sản xuất; nhưng hình như nghệ và ớt là gia vị chính thì phải.

  • cây ngổ. Rau ngổ còn gọi là rau om, ngò om (Limnophila aromatica thuộc họ Plantaginaceae), là loài cây thảo mập, giòn, rỗng ruột, có nhiều lông.  Rau ngổ thường mọc hoang ở ruộng nước, vũng lầy và rất dễ trồng; vị chua cay, hơi se, tính mát, thơm.  Đây là gia vị không thể thiếu khi nấu cùng món ngó khoai để làm canh hay hầm xương. Gia vị có thể ở dạng củ, dạng lá, dạng hạt, dạng quả. Sau đây là vài chi tiết:

3.3.1. Củ gia vị

Phải kể củ gừng, củ riềng, củ tỏi, củ sả v.v.

  • củ Gừng. Vị cay của gừng (Zingiber officinale), luôn là một gia vị được ông cha ta rất quý, bởi nó tượng trưng cho sự nồng ấm:

Ước gì em biến thành gừng,
Anh biến thành cá, ở chung một nồi.”

– Ai ơi chua ngọt đã từng
 Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

 hoặc:

Muối mặn ba năm còn mặn
Gừng cay chín tháng còn cay
Dù ai xuyên tạc lá lay
Sắt son nguyện giữ lòng này thủy chung.

  • củ Riềng (Alpinia officinarum), họ Gừng (Zingiberaceae), -củ Tỏi (Allium sativum) là một loài thực vật thuộc họ Hành, nghĩa là có họ hàng với hành tây, hành ta, hành tím, tỏi tây, v.v..Tỏi có thể sử dụng thành gia vị trong nước chấm pha chế gồm tỏi,ớt, tương, đường…Hoặc tỏi được trộn đều với các món rau xào với rau muống khiến món ăn dậy mùi thơm. Tỏi cũng được làm nước muối tỏi và ớt. Củ tỏi có nhiều tép và cũng là gia vị,  được nhắc đến trong ca dao :

Ăn tiêu nhớ tỏi bùi ngùi
Ngồi bên đám hẹ nhớ mùi rau răm
Hỡi người quân tử trăm năm
Quay tơ có nhớ mối tằm hay không?

  • củ Sả (Cymbopogon). Trong món bún bò Huế thì ngoài ớt, phải nhắc đến sả ruốc . Sả được sử dụng rộng rãi như là một loại  gia vị, có hương vị như chanh, có thể sấy khô và tán thành bột hay sử dụng ở dạng tươi sống. Sả nói chung được dùng trong các món cà ri. Nó cũng rất thích hợp cho các món chế biến từ thịt gia cầm, cá và hải sản.  Nó có hương vị như chanh và có thể sấy khô và tán thành bột hay sử dụng ở dạng tươi sống. Sả nói chung được dùng trong chè, súp và các món cà ri. Nó cũng rất thích hợp cho các món chế biến từ thịt gia cầm, cá và hải sản. Sả dịu (Cymbopogon flexuosus) có nguồn gốc ở Ấn Độ, Sri Lanka, Myanma và Thái Lan trong khi sả chanh (Cymbopogon citratus) được cho là có nguồn gốc từ Malaysia. Hai loài này có thể được sử dụng tương tự như nhau, tuy nhiên C. citratus phù hợp hơn khi dùng cho ẩm thực.

  • củ nghệ (Curcuma longa) họ Gừng có củ được dùng làm bột cari, bôi mụn nhọt

3.3.2. Lá gia vị

Có thể kể sau đây một số rau có lá gia vị:

  • rau húng (Ocimum basilum) nhiều loại như húng quế, húng lủi, húng chó thường dùng ăn sống với một số thịt động vật như tiết canh, lòng heo. Cây húng lủi thuộc loại cây thảo, cây có nguồn gốc hoang dã nên có sức sống khỏe, phát triển nhanh. Cây có thân rễ mọc bò thành chùm dưới đất. Húng lủi để làm gia vị ăn sống. Làm thảo dược, phòng chống nhiều loại bệnh, cây húng lủi còn giúp vệ sinh răng miệng, giữ hơi thở thơm tho. Bên cạnh đó, một chậu cây húng lủi còn là giải pháp tuyệt vời giúp xua đuổi muỗi.
  • ngò  Coriandrum sativum.  Cây có mùi thơm, thường được trồng làm rau thơm và gia vi.
  • ngò gai Eryngium foetidum, họ Apiaceae, còn có tên mùi tàu .Ngò gai là cây cỏ thấp, có thân đơn độc, chia cành ở ngọn, hoa quả mọc ở cành. Lá mọc ở gốc, xoè ra hình hoa thị.  Lá ngò gai có mùi thơm dễ chịu. Trong nồi canh chua nấu cá có lá ngò làm mất mùi tanh.
  • cây sả: là một loại cây thân thảo, thuộc họ hòa thảo. Thường mọc thành từng bụi cao khoảng 1-1,5m. Thân có màu trắng hoặc hơi tím, có nhiều đốt. Lá hẹp dài, mép lá hơi nhám. Bẹ lá ôm chặt với nhau rất chắc, tạo thành một thân giả. Sả được dùng làm rau gia vị lâu đời ở các nước Châu Á.
  • tía tô Perilla frutescens , là loại cây thuộc họ Hoa Môi (Lamiaceae). Thân cây tía tô thường cao khoảng 0,5-1m. Lá cây có hình răng cưa, mọc đối nhau, mặt dưới có lá có màu tím tía (cũng có khi cả 2 mặt đều có màu tím tía). Nguồn gốc của cây tía tô là xuất phát từ vùng núi Himalaya và vùng Đông Nam Á. Tại Việt Nam, loại cây này được người dân trồng rất phổ biến để sử dụng làm gia vị cho các món ăn hàng ngày.
  • thì là (Anethum graveolens, họ Apiaceae), là gia vị trong các  món canh cá, canh chua, vừa thơm ngon, vừa đở mùi tanh của thực phẩm
  • rau sam (Portulaca olearacea) Nó có vị hơi chua và mặn.  Trong thơ Hồ Dzếnh, có nhắc đến loại rau này

Tôi đến đây tìm lại bóng cô,
Trở về đường cũ, hái mơ xưa,
Rau sam vẫn mọc chân rào trước,
Son sắt, lòng cô vẫn đợi chờ.

  • rau kinh giới (Elsholtzia ciliata),  Ở Việt Nam, rau kinh giới được trồng rất phổ biến, thường được sử dụng như một loại rau thơm ăn cùng với các món ăn và đây cũng là một loại thảo dược được sử dụng trong rất nhiều bài thuốc dân gian.Cây kinh giới mọc thẳng, thân vuông và có lông, có màu hơi tía ở phần gốc cây và thường cao khoảng 40-60cm. .Trong đông y, cây kinh giới mùi rất thơm, tính ấm và vị cay có tác dụng rất tốt trong an thần, chống dị ứng và hạ nhiệt…
  • rau diếp cá (Houttuynia cordata)  là một loài thực vật thuộc họ Saururaceae.  Là một loại cỏ nhỏ, mọc quanh năm , ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt. Lá mọc cách (so le), hình tim, có bẹ, đầu lá hơi nhọn, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cây thảo cao 15–50 cm; thân màu lục hoặc tím đỏ, mọc đứng cao 40 cm, có lông hoặc ít lông.
  • rau tần ô (Chrysanthemum coronarium) với nhiều tên khác như cải cúc, rau cúc, cúc tần ô, rau tần ô.  Đây là một loại rau lá thuộc họ Cúc,
  • rau mùi (ngò) tên khoa học Coriandrum sativum, họ Apiaceae, có nguồn gốc bản địa từ Tây Nam Á về phía tây đến tận châu Phi. Làm rau thơm và gia vị,
  • rau răm ( Persicaria odorata). Cây thân thảo, mọc dưới nước hoặc ở nơi luôn luôn ẩm ướt. Lá rau răm thuôn dài nhọn ở đầu. Rau răm có hương thơm đặc biệt.Dùng làm rau gia vị, là một cây thuốc nam quý có vị cay nóng, mùi thơm. Rau răm có trong bài hát:

Gió đưa, à ơi, gió đưa cây cải về trời
rau răm ở lại chịu lời đắng cay
gió đưa ơi ah ơi ah
cây cải mà về đâu, rau răm ở lại
lòng sầu là sầu năm canh

  • lá sung, lá đinh lăng dùng ăn gỏi, lá gừng, lá chanh, lá nguyệt quế, lá lốt, thường ăn với thịt gia súc hoặc xắt nhỏ cho vào các món nấu. Rất nhiều người thường hay dùng lá cây đinh lăng ăn kèm với gỏi cá để tăng thêm hương vị của món ăn này. Do đó, mọi người thường gọi cây đinh lăng với một cái tên khác là cây gỏi cá.
  • cần tây là một loài thực vật thuộc họ hoa tán. Rau cần tây được xem như một loại rau sạch, thơm ngon, hợp khẩu vị.
  • ngò gai là loại rau thân thảo, cây đơn lẻ, lá mọc ở gốc xòe ra hình hoa thị, lá hình thuôn có răng cưa, cành chia ở ngọn chứa hoa. Có tác dụng làm rau thơm.
  • 8 Loại Gia Vị Phổ Biến Trong Văn Hoá Ẩm Thực Châu Á

3.3.3.Hạt gia vị: hạt tiêu, hạt ngò, hạt dổi…

  • hạt tiêu được thu hoạch mỗi năm một lần. Muốn có tiêu đen, người ta hái quả vào lúc xuất hiện một số quả đỏ hay vàng trên chùm, nghĩa là lúc quả còn xanh; những quả còn non quá chưa có sọ rất giòn, khi phơi dễ vỡ vụn, các quả khác khi phơi vỏ quả sẽ săn lại, ngả màu đen. Muốn có hồ tiêu trắng (hay hồ tiêu sọ), người ta hái quả lúc chúng đã thật chín, sau đó bỏ vỏ. Loại này có màu trắng ngà hay xám, ít nhăn nheo và ít thơm hơn (vì lớp vỏ chứa tinh dầu đã mất) nhưng cay hơn (vì quả đã chín).
  • hạt ngò dạng hạt rau mùi ta, mùi tây, mùi tàu, tính ấm, có mùi thơm, giúp khai vị , ăn ngon, tiêu hóa thức ăn, giải độc chất tanh.. Ngoài ra hạt ngò còn có tác dụng kích thích hệ tiêu hóa, chữa hiện tượng hôi miệng ở người, hơn nữa còn có thể dùng làm thuốc giảm đau, điều trị bệnh thấp khớp.
  • hạt dổi rừng không chỉ là gia vị cho các món ăn của đồng bào Tây Bắc mà còn là tinh hoa ẩm thực của vùng núi Tây Bắc tạo nên nét độc đáo rất riêng của văn hoá ẩm thực của con người Tây Bắc ở miền Bắc Việt Nam.

3.3.4. Quả gia vị: chanh, bưởi, ớt, thảo quả, dứa xanh, chuối xanh, khế chua, quả me, quả dọc, quả sấu…

Trên bàn ăn của người Huế (gồm món canh, cá, thịt, dĩa rau sống…) luôn có một dĩa muối tiêu ớt, dĩa tương ớt hay một chén nước mắm ớt tỏi. Đặc biệt không thể thiếu tương ớt.Tương ớt Huế là hỗn hợp gồm ớt tươi, tỏi tươi, muối, đường, dầu ăn và nước mắm ngon trộn lại. Người Huế dùng tương ớt nhiều trong những món ăn buổi sáng sớm (bánh mì, bánh canh…).

Miền núi Bắc Việt, có qủa cây Mắc Khén ( Zanthoxylum myriacanthum), họ Cam quít Rutaceae, có hạt làm gia vị.

(GS Phạm Hoàng Hộ gọi là Hoàng mộc gai)

3.4. Gia vị nguồn gốc động vật

Mắm các loại (làm từ cá, tôm, cua, cáy, rươi, tép v.v.) như mắm tôm, mắm tép, mắm tôm chua, mắm rươi, mắm cáy, mắm cua đồng, mắm bò hóc, mắm ba khía, mắm nêm…Các loại nước mắm làm từ cá (như cá cơm, cá thu, cá chẻm, cá đối, cá ngát v.v.). Có thể kể thêm tinh dầu cà cuống,  mỡ lợn, bơ động vật, dầu hào v.v.

Trong bún thang, bún chả, bánh cuốn của Hà Nội thường có tinh dầu cà cuống . Cà cuống có ở khắp mọi vùng miền của cả nước, nhưng dường như nó chỉ khiến người dân vùng đồng bằng Bắc bộ mê mẩn với bánh cuốn, chả cá, bún thang… với mùi vị cay nồng của tinh dầu cà cuống. Cà cuống sinh trưởng ở dưới nước, tại các ruộng sâu, hồ ao, sông lạch. Mùa cà cuống vào tháng 10 âm lịch, sau vụ gặt lúa mùa. Cà cuống phàm ăn và ưa ánh sáng. Dựa vào đặc tính này, người ta chong đèn để dụ cà cuống bay tới, chúng thường kết thành từng đàn nên cuối buổi họ chỉ việc thu gom mang về. Trứng cà cuống thì được lượm trên các thân cỏ dưới nước. Cà cuống có nhiều trong ruộng nước; đó chỉ là một loài sâu tên khoa học là Lethocerus indicus, có khả năng tiết ra từ các túi dưới cánh một chất mùi rất cay.

Ca dao sau đây có nhắc đến cà cuống:

Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở lịch xem ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la đà
Chim ri ríu rít bò ra chia phần
Chào mào thì đánh trống quân
Chim chích cởi trần, vác mỏ đi rao

Ca dao này nói lên khi người chết vừa nằm xuống, đã có dân làng rủ rê nhau tham dự để chia nhau ăn uống

3.5. Gia vị cũng biến thiên theo từng món và từng vùng

Miền Bắc có món Phở Bắc với  nước dùng có nhiều gia vị như tiểu hồi, đại hồi, quế, tiêu v.v. Có khi, nước phở có cho vào đinh hương và tương (tương đen, tương đỏ).

Miền Tây Bắc Viet Nam, để làm món thịt trâu ngon, người ta phải lọc cẩn thận hết gân, lọc sạch bạc nhạc, sau đó thái miếng dọc thớ rồi ướp với hỗn hợp gia vị gồm sả, gừng, tỏi, ớt khô băm nhỏ,  rồi để khoảng 2-3 tiếng, sau đó lấy que xiên và sấy trên than củi, để xa cho thịt chín từ từ, chín đều. Thịt được sấy cho đến khi vừa chín để không làm mất vị ngọt của thịt.  Vị ngọt của thịt trâu đượm trong sự đậm đà của các gia vị tạo nên sức hấp dẫn cho đặc sản vùng cao.

Miền Trungbún bò Huế mà nói đến món này là  phải nhắc đến sả ruốc. Sả được sử dụng rộng rãi như là một loại  gia vị tại các nước châu Á.  Nó có  thể sấy khô và tán thành bột hay sử dụng ở dạng tươi sống. Phần thân cây là khá cứng để có thể ăn, ngoại trừ phân thân non và mềm bên trong. Tuy nhiên, người ta có thể thái nhỏ và thêm vào trong các gia vị. Sả nói chung được dùng trong  các món cà ri. Nó cũng rất thích hợp cho các món chế biến từ thịt gia cầm, cá và hải sản

Cách Kết Hợp Các Loại Gia Vị - Nghệ Thuật Đặc Sắc Trong Ẩm Thực Việt Nam:  Ngọc Anh Blog

Đính kèm là bản đồ gia vị thực vật ông Chiêm Thành Long đã tìm tòi và ghi chú trên bản đồ:

+ Vùng Tây Bắc (Lào Cai, Điện Biên…): mắc khén, thảo quả, quế, rau mùi, ớt, tiêu.

+ Vùng Đông Bắc: hạt dổi, mát mật, sả, ớt, riềng, nghệ, gừng…

+ Hà Nội: thì là, lá xương sông, ngải cứu, riềng, nghệ, quả sấu, tai chua, tiêu, tỏi, ớt, sả, lá chanh…

+ Đồng bằng sông Hồng: lá lốt, quả mác cọp, quả chay, riềng, sả, ớt, tiêu…

+ Vùng biển phía Bắc: tiêu, sả, ớt, riềng, mẻ, mắm tôm, thì là, lá chanh, ngải cứu…

+ Tây nguyên: lá é, sả, gừng, muối, ớt…

+ Bắc Trung bộ (Nghệ An, Hà Tĩnh…): tiêu, tỏi, mắm, muối, ớt, tương…

+ Nam Trung bộ (Huế, Đà Nẵng…): tỏi, gừng, riềng, tiêu…

+ Tây nguyên: tiêu rừng, tiêu lốt, gừng, nghệ…

+ Đông Nam bộ: tỏi, tiêu, gừng, sả, ớt, lá chúc, mắm, muối…

+ Tây Nam bộ: tỏi, tiêu, gừng, mắm, muối, nước mắm, chanh, ớt…

4. Lời kết

Nước Việt có môi trường tự nhiên rất đa dạng: từ miền non cao núi thẳm đến miền đồng bằng, quê hương em đất mặn đồng chua, do đó từ thực vật đến động vật trú ẩn trong đó cũng rất đa dạng và chứa nhiều thực vật (sả, gừng, tỏi, riềng, hành, ớt ..) cũng như động vật (ruốc ngoài biển, cá linh trong đồng ủ ra nước mắm v.v), tiền đề cho các gia vị đủ màu và đủ mùi vị khiến ẩm thực Việt có sức lan toả, nhất là sau 1975, với hàng hàng lớp lớp người Việt ra nước ngoài sinh sống nên ngày nay, nhiều người dân nước ngoài cũng nếm các gia vị ta thường gặp ở Viet Nam

khi xưa.

 

 Thái Công Tụng

 

Kim Phượng sưu tầm

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này