Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1291)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (25)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (129)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (247)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

Áo yếm, áo dài VN lan tỏa trong làng mốt thế giới

 

Áo yếm, áo dài VN lan tỏa trong làng mốt thế giới

Ngoài áo dài, áo yếm cũng là “quốc túy” của Việt Nam. Vốn chỉ là món nội y khuất lấp sau chiếc áo dài, áo tứ thân xưa, nay áo yếm được cách tân để lộ diện ra bên ngoài một cách gợi cảm, duyên dáng và quyến rũ hơn. Và không kém áo dài, áo yếm cũng trờ thành trang phục mang hơi thở truyền thống và sức sống thời đại được đặc biệt ưa chuộng

Cùng điểm lại những điểm sáng trong cảm hứng sáng tạo về áo dài, áo yếm lan tỏa từ làng mốt thế giới và ngay trên quê nhà

Áo dài lột xác trong sáng tạo từ Thế giới

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Một mẫu của Leonard thu đông 2013 chắt lọc một vài nét đặc trưng của áo dài như: tay dài bó sát hay chi tiết cổ áo.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

  Mẫu của Emilio Pucci Xuân-Hè 2013 gợi cho người nhìn về hình ảnh chiếc áo dài Việt Nam ở đường xẻ tà và màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn theo quan niệm Á Đông

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Jessica Chastain xuất hiện nửa hở nửa kín rất khêu gợi trên thảm đỏ ra mắt phim mớiInterstellar  trong trang phục của Givenchy với một bên hông xẻ để theo lối xẻ của áo dài Việt Nam

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Nữ diễn viên Michelle Williams vừa trang nhã vừa táo bạo khi diện chiếc váy xẻ cao của Prada gần giống áo dài Việt Nam nhưng không có quần dài, cô tới ra mắt phimOz the great and powerful

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Rihanna thật táo bạo khiến khán giả quá khích khi kết hợp áo dài cách điệu với quần da đỏ tại lễ trao giải MTV Video Music (MTV VMA) 2012

Áo dài Việt tung cánh từ quê nhà

Bất ngờ vô cùng khi kết màn BST trình diễn đầu tiên tại Vietnam International Fashion Week 2014  của NTK Công Trí lại là chiếc áo dài gắn đôi cánh khí động lực học, một sáng tạo chạm tới sự tự tôn dân tộc của người Việt cùng nỗi khát khao bỏng cháy thời trang Việt sẽ chắp cánh bay lên với những giá trị của văn hóa truyền thống hòa quyện cùng công nghệ tân tiến của thế giới.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Một BST khác có tên ý nghĩa nhân văn về quê hương đất nước “Hạn hán và cơn mưa” của Công Trí cũng được chọn trình diễn tại nhiều chương trình uy tín như “Duyên dáng VN” và kết thúc Tuần lễ thời trang Vietnam International Fashion Week 2014. Những chiếc áo được in 3D kĩ thuật cao và đính kết hạt công phù cầu kì đầy tinh tế gây say sưa ở tầm nhìn gầN.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Những chiếc áo ấy tiếp tục được vinh danh cùng 3 người thắng cuộc đăng quang đêm chung kết Hoa khôi áo dài – Đường tới vương miện hoa hậu thế giới 2014 là Hoa khôi Lan Khuê, Á khôi 1 Thúy Vân và Á khôi 2 Lệ Quyên.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Áo yếm kiêu hãnh trên thảm đỏ thế giới

Sau áo dài thì áo yếm là một lựa chọn lý tưởng để thể hiện sự kiêu hãnh về nguồn gốc xuất xứ của các mỹ nhân Việt, để có thể ngẩng cao đầu sánh vai ngang hàng và không hề kém cạnh so với các kiều nữ Tây Phương trong xa hoa xiêm áo.

Đó cũng là một cuộc chơi sáng tạo tìm về khám phá giá trị văn hóa Việt từ giới thời trang - showbiz thế giới. Trên thảm đỏ danh giá của làng showbiz thế giới, kì thú thay và hãnh diện dâng trào khi chiêm ngưỡng những đại minh tinh, những trang giai nhân tuyệt sắc đệ nhất toàn cầu thướt tha bước đi trong áo yếm cách tân diễm lệ

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Mỹ nhân Michelle Dockery tao nhã trong chiếc đầm cổ yếm có màu phấn hồng chủ đạo pha xanh lá, xanh biển, được cách điệu phần áo yếm vắt xéo qua dây hở một chút bụng

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Trên một thảm đỏ khác, cô tiếp tục mặc yếm cách tân màu đen có mảng cut out khoe bầu ngực táo bạo ở tầm nhìn nghiêng

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Cũng mặc yếm cách điệu màu đen nhưng chiếc yếm của Elizabeth-Banks được kết hạt theo đường diềm và gắn lông vũ một cách điệu đà, kiều diễm

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Một chiếc áo yếm đen nữa trên chất liệu kim sa, nhưng ở Jordin-Sparks lại toát ra vẻ khỏe khoắn căng tràn với một hình thể đậm đà

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Đối nghịch màu đen là yếm màu trắng thanh thoát,  Emma-watson gợi cảm hơn hẳn với một đường xẻ  đùi cao trên chiếc  đầm yếm

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Siêu mẫu kì cựu Eva Herzigova cũng mặc yếm màu trắng cách điệu của Christan Dior có phần cổ bất cân đối với khoảng hở lệch một bên

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ngôi sao “Bản năng gốc” Sharon stone tiếp tục lăng xê trong danh sách mẫu đầm cổ yếm màu trắng của Robetto cavalli khoe mảng lưng trần quyến rũ với trang sức hình con rắn lộng lẫy

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Người đẹp Halle-berry lại nhã nhặn trên thảm đỏ Emmys với yếm màu nâu dìu dặt có thắt lưng to bản, đính đá

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

 Bất ngờ đến tuyệt vời trong trang phục mang sự tổng hòa các yếu tố của trang phục truyền thống VN với áo yếm – cổ áo dài và dải lụa đào, đó là Iggy-azalea tại lễ trao giải thưởng âm nhạc billboard

Mỹ nhân Việt đẹp kiêu kì với yếm

Tham vọng khiến các biểu tượng sắc đẹp Việt trở nên bắc bậc kiều kì trong chiếc áo yếm không còn xa vời nữa khi mà các cây kéo vàng xén vải xứ Việt tài tình biến tấu chiếc yếm đào thành những bộ dress code duyên dáng, sang trọng, lộng lẫy và quyến rũ.

Thiết kế yếm của Lâm Gia Khang (trong Elle show xuân hè 2015) đi theo style kinh điển sang trọng, chinh phục nhãn tiền số đông quí cô.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioiMẫu yếm của Chung Thanh Phong tại Tuần lễ thời trang VIFW 2015 lại cá tính với họa tiết kiến trúc tòa nhà chọc trời màu đen trắng cho những cô nàng đô thị sành điệu. Đặc biệt khi Hoa hậu Trúc Diễm bước ra kết màn gây thích thú trong kiếu đầm yếm màu vàng gold có tùng váy phồng xòe rộng, đầu đeo băng đô tai mèo thật khiêu khích.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

NTK Li Lam giải phóng tinh thần người phụ nữ bản năng với kiểu yếm xuông buông tuồng, thoải mái trên chất liệu lụa là không xa lạ

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Nón lá không chỉ đội khi mặc áo dài

Chiếc nón, biểu tượng gắn liền với chiếc áo dài được các NTK...tách rời độc lập trở thành một món phụ kiện thời trang độc đáo khi kết hợp với các những mẫu thiết kế thời trang táo bạo.

Tại VIFW 2015, trang phục mở màn và kết màn của NTK Hoàng Minh Hà do người mẫu Chà Mi và Hoàng Thùy được kết từ sợi kinh nghiệm như chiếc lồng son và tuyệt hơn nữa khi được kết hợp với chiếc nón lá trắng nổi bật hay cùng chất liệu kim loại đồng điệu cộng hưởng.

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi Chung Thanh Phong thì chế tạo ra chiếc nón mang phong cách vị lai có nan kim loại màu vàng ánh kim phối cùng với trang phục gắn sequin, cut lazer .

Ao yem, ao dai VN lan toa trong lang mot the gioi

Lan Chi st

 

Xem thêm...

Trang phục truyền thống các nước Asean

Trang phục truyền thống của phụ nữ 10 nước Asean

Mặc dù các trang phục phương Tây tiện dụng tràn ngập và được sử dụng nhiều, trang phục truyền thống vẫn được yêu thích trong những dịp lễ tết tại các nước Đông Nam Á

Sampot - Campuchia

Phụ nữ thường kết hợp Sampot  với Chang Pong

một mảnh vải màu sắc bất kỳ dùng để quấn, che phần ngực và để hở phần bụng trên. 

Trang phục truyền thống của đất nước Campuchia tương tự như trang phục truyền thống của Lào và Thái Lan. Sampot thường là một miếng vải dài khoảng 3 mét, rộng một mét, được quấn xung quanh thắt lưng, kéo dài ra và kết lại bằng một nút thắt, sau đó được kéo lên giữa hai chân rồi cố định bởi một thắt lưng bằng kim loại. Sampot gần giống với một chiếc quần hơn là váy.

Phasin - Thái Lan


Trang phục truyền thống Thái Lan chia làm 2 dạng: trang phục cung đình và trang phục bình dân. Đặc điểm cơ bản của trang phục truyền thống của người Thái là không may vừa sát người. Bộ trang phục căn bản là một cái váy gồm hai hay ba mảnh vải, may thành hình ống được quấn quanh lưng và gấp mép ở rốn. Cả đàn ông và phụ nữ đều mang cái túi bằng vải trên vai để đựng đồ dùng cá nhân. Phasin có thể để trơn, không thêu thùa gì, nhưng thường thì chúng có họa tiết và màu sắc theo những kiểu cách phân biệt theo vùng hay nhóm sắc tộc.

Sinh - Lào

 

May váy áo là một nghệ thuật chi phối của dân tộc Lào,

một phụ nữ Lào biết dệt từ độ tuổi rất nhỏ. 

Trang phục truyền thống Lào là một chiếc váy ống đơn giản, được làm bằng lụa, tơ lụa, bông hoặc bông chỉ, dệt họa tiết tinh tế cũng như thêu ren tinh xảo. Một chiếc váy Sinh thường được dệt công phu ở chân. Quần áo truyền thống đại diện cho phụ nữ của từng dân tộc Lào, vẻ đẹp, quyến rũ và hấp dẫn phù hợp với truyền thống.

Nyonya kebaya - Singapore

 

Nyonya kebaya thường được dùng trong những dịp trang trọng

Người Peranakans ngày nay là người Hoa lai Mã, hay còn gọi là người Baba-Nyonya, là con cháu của những người Hoa nhập cư đến Singapore trong thế kỷ trước. Điểm nổi bật mà người Peranakans còn lưu giữ của tổ tiên đó là y phục Nyonya Kebaya. Thông thường, bộ y phục Nyonya Kebaya thường được may thủ công bằng tay với đường kim mũi chỉ hết sức tinh tế và tỉ mỉ bởi đó là trang phục truyền thống của những người phụ nữ quý tộc.

Kebaya - Indonesia

Trang phục tinh tế của phụ nữ Indonesia.

Ngày nay, các nhà thiết kế Kebaya đã kết hợp loại trang phục này với một số thiết kế trang phục của nước ngoài tạo thành Kebaya hiện đại. Kebaya hiện đại có kiểu dáng, chất liệu và màu sắc đa dạng hơn, Kebaya có thể được mặc tại các đám cưới hay các sự kiện quan trọng khác. 

Baju Kurung - Malaysia

Người Malaysia thường mặc quần áo truyền thống của họ đặc biệt

như ‘Hari Raya’ hay đi cầu nguyện vào thứ sáu hàng tuần.

Baju Kurung bao gồm một chiếc váy hoặc một chiếc xà rông kéo dài từ hông đến gót chân và một chiếc áo tay dài có độ dài đến hông hoặc đầu gối. Thường một bộ Baju Kurung hoàn chỉnh đi kèm với một khăn trùm đầu hoặc khăn dài được vắt qua vai, có khi trùm lên đầu. Phư nữ gốc Ấn thường mặc sari mỏng, còn những phụ nữ người Sikh thì mặc một cái áo lụa dài quá gối trùm ra ngoài quần lụa.

Thummy - Myanmar

Người Myanmar mặc trang phục truyền thống trong cuộc sống hàng ngày. 

Trang phục cho nam giới ở Myanmar là Longyi, còn cho nữ có tên gọi Thummy gần giống với váy Lào, Thái. Tất cả đều đi dép như dép Lào. Cả nam lẫn nữ chỉ đi giày khi mặc Âu phục.

Áo dài - Việt Nam


Người con gái Việt quyến rũ trong tà áo dài duyên dáng

Từ thế kỷ 16, áo dài đã có cuộc hành trình riêng bên cạnh đời sống văn hóa biến thiên của người Việt. Áo dài đi vào thơ ca, nhạc họa, đời sống với vẻ đẹp riêng. Áo dài cũng đi vào những câu chuyện thời trang của từng thời đại. Người con gái Việt Nam luôn chọn chiếc áo dài trong dịp lễ tết trọng đại, đặc biệt là tết cổ truyền .

Baro't Saya - Phillipine

Trang phục của phụ nữ Phillippines có xuất xứ từ váy truyền thống Tây Ban Nha

Saya baro't là một chiếc áo choàng truyền thống với quần váy. Nó có nguồn gốc từ thời kỳ Tây Ban Nha chiếm đóng đất nước này, là trang phục hàng ngày của hầu hết phụ nữ Philippines một thời gian dài.

Baju Kurung - Brunei

Lịch sử của Đông Timor được phản ánh trong thiết kế và tầm quan trọng văn hóa của những nơi khác nhau .

Giống với trang phục của người phụ nữ Malaysia, những người Brunei mặc các trang phục đạo Hồi với khăn chùm đầu giấu tóc và trang phục dài che thân.

 

Kim Kỳ st

 

 

 

Xem thêm...

PETRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ (Kính xin Tạ Ơn Ông)

 

 

PETRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ ( Kính xin Tạ Ơn Ông )

 

Sài Gòn – Petrus Ký là một nhà bác học VN về ngôn ngữ, giỏi tiếng Hán, Nôm và Pháp, người đã có công trong phát triển chữ Quốc ngữ.

VRNs (08.08.2014) – Sài Gòn – Petrus Ký là một nhà bác học VN về ngôn ngữ, giỏi tiếng Hán, Nôm và Pháp, người đã có công trong phát triển chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên vì là một tín đồ Thiên Chúa nên không được triều đình Huế vinh danh, đến thời kỳ cách mạng dù rằng Cụ Pétrus Ký đã là người thiên cổ nhưng vẫn bị gán cho là theo Pháp. Chúng ta trân trọng tài năng của một nhà bác học Việt Nam đã làm cho chữ quốc ngữ trong sáng ở thời kỳ đầu và trường Trung Học P.Trương Vĩnh Ký Saigon đã đào tạo biết bao thế hệ trí thức và khắp năm châu, các tài năng từ trường Petrus Ký đã đóng góp rất lớn cho trí tuệ khoa học của cả thế giới chứ không riêng gì VN. (Trí Vịnh)

Kể từ khi giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Việt Nam truyền đạo vào năm 1625, Đắc Lộ đã là người tiền phong trong việc quốc ngữ hoá tiếng việt từ gốc hán sang mẩu tự La mã mà tác phẩm nổi tiếng là cuốn tự điển Việt-Bồ-La (Việt-Bồ đào Nha-Latin) ra đời vào năm 1651.
Với hàng trăm tác phẩm, Pétrus Trương Vĩnh Ký là một trong những người đã đóng góp vào việc canh tân và hoàn thiện tiếng việt, một ngôi trường lớn ở Sài Gòn đã lấy tên ông đặt cho trường học nổi tiếng, nơi đã đào tạo những người con ưu tú của miền Nam VN trước 1975 – Ngôi trường đã bị đổi tên sau khi miền Nam được giải phóng – tuy nhiên tên tuổi của Pétrus Trương Vĩnh Ký vẫn còn ngự trị trong tiến trình xây dựng văn hoá và văn học Việt Nam, một vài người đã viết về Pétrus Ký:
Thanh Lãng nhận xét: Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn… Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói tiếng An Nam ròng” và viết “trơn tuột như lời nói”. Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.
Lê Thanh nhận xét: Ông là người, từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.
Trương Vĩnh Ký (6 tháng 12 năm 1837 – 1 tháng 9 năm 1898) khi mới sinh có tên là Trương Chánh Ký, tự Sĩ Tải, theo đạo Công giáo nên có tên thánh: Jean-Baptiste Pétrus, nên còn gọi tắt là Pétrus Ký. Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19. Ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật.
Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam. Ông sáng lập, là tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên, cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác. Vì thế có thể xác định rằng Trương Vĩnh Ký là người tiên phong trong làng báo chí Việt Nam – hay còn gọi là ông tổ của ngành báo chí việt, phương tiện truyền thông đại chúng đầu tiên ở Việt Nam, trước khi có đài phát thanh và truyền hình.
Tiểu sử
Trương Vĩnh Ký, người tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre – Kiến Hoà cũ). Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Năm ông 3 tuổi, thân phụ ông được triều đình cử đi sứ sang Cao Miên rồi mất ở bên ấy.
Đi học
Nhờ mẹ tần tảo, lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán, do thầy đồ dạy tại Cái Mơn. Đến năm lên 9 tuổi, ông được linh mục Tám đem về nuôi, vì nhớ ơn lúc nhà Nguyễn cấm đạo Công giáo gắt gao; ông Thi, tức cha của Pétrus Ký, đã hết lòng che giấu ông.
Ông Tám mất, có hai nhà truyền giáo người Pháp, thường gọi là Cố Hòa, Cố Long, biết Pétrus Ký vừa có trí thông minh vừa chăm học, nên đem về trường dòng ở Cái Nhum dạy chữ Latin. Năm 1848, Cố Long đưa Pétrus Ký sang học tại Chủng viện Pinhalu ở Phnom Penh, Cao Miên.
Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có Pétrus Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Giáo Hoàng ở Pinang thuộc (Malaysia). Đây là một trường chuyên đào tạo các tu sĩ cho vùng Viễn Đông…
Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức linh mục, thì vào lúc giữa năm, ông phải vội vàng về nước vì được tin người mẹ hiền qua đời.
Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn giữa lúc Pháp đem quân vào chiếm Việt Nam, bắt đầu từ Đà Nẵng ngày 1 tháng 9 năm 1858, rồi Sài Gòn ngày 17 tháng 2 năm 1859, đến Gia Định, tiếp theo là việc mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vì thế, việc cấm đạo công giáo cũng diễn ra gay gắt hơn. Lúc ấy, Pétrus Ký phân vân rồi quyết định không trở lại chủng viện nữa.
Cộng tác với Pháp
Để tránh bị bắt bớ, Trương Vĩnh Ký chạy lên Sài Gòn vào tá túc nhà vị giám mục người Pháp Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20 tháng 12 năm 1860.
Năm 1861 Pétrus Ký thành hôn với bà Vương Thị Thọ (con gái ông Vương Ngươn, hương chủ làng Nhơn Giang, Chợ Quán) do linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang mối mai và dời về cư ngụ ở Chợ Quán, Sài Gòn.
Ngày 8 tháng 5 năm 1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn (Collège des Interprètes), ông được nhận vào dạy.
Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông, Phan Thanh Giản xin Trương Vĩnh Ký đi theo làm thông ngôn.
Sang Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Napoléon III, gặp nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến Giáo hoàng tại La Mã.
Về nước, năm 1865, Trương Vĩnh Ký viết cho tờ Gia Định báo (tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên) do ông Ernest Potteaux làm quản nhiệm.
Năm 1866, ông thay thế linh mục Croc làm hiệu trưởng Trường Thông ngôn. Ngày 15 tháng 9 năm 1869, ông được thủy sư đô đốc Pháp là Ohier bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo và tờ An Nam chính trị và xã hội.
Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư phạm (École normale) được thành lập, Pétrus Ký được cử làm hiệu trưởng.
Ngày 1 tháng 4 năm 1871, Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn.
Năm 1873, Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu Bổ (Collège des administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng bắt đầu viết sách.
Năm 1876, thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn.
Năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier d’Académie).
Năm 1886, Paul Bert – nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học – được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc.
Đến Huế, Pétrus Ký được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ.
Ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách…
Cuối đời
Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Trương Vĩnh Ký vẫn bị người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Rồi năm 1888, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp.
Và khi trước, lúc còn được ưu ái, những sách của Trương Vĩnh Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho học sinh. Nhưng từ khi bị hất hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ.
Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888 – 1889).
Sống trong hoàn cảnh buồn bã, túng quẩn, bệnh hoạn luôn, Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898.
Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc Quận 5, Sài Gòn.
Chức vụ, huân huy chương
Không những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng. Trong quá trình hoạt động, ông đã được nhận các chức việc và huân huy chương:
Nhận huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863.
Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu.
Năm 1874, được phong giáo sư ngôn ngữ Á Đông, vì Pétrus Ký đã thông hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới.
Trong cuộc bầu chọn “Toàn Cầu Bác Học Danh Gia” vào năm 1874, Pétrus Ký đã được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 “Thế giới Thập Bát Văn Hào”.
Nhận huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1886.
Trở thành hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15 tháng 2 năm 1876.
Trở thành hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm 1878.
Nhận huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng 5 năm 1883.
Nhận Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều ngày 17 tháng 5 năm 1886.
Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886.
Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887
Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt.
Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.
Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
Trước đây, ông được Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa công nhận là một học giả, có công lao góp vào việc hoàn thiện tiếng việt nên đặt lại tên cho một ngôi trường trung học lớn nhất miền Nam (chuyển từ Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký sang Trường Trung Học Pétrus Ký). Sau năm 1975, trường này được đổi tên là trường trung học Lê Hồng Phong ở Sài Gòn.
Hiện nay tại Sài Gòn cũng có 1 trường mang tên Trương Vĩnh Ký là Trường THPT Tư thục Trương Vĩnh Ký.
Một số tác phẩm
Ông có rất nhiều tác phẩm (118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm), lược kê một số như:
- Truyện đời xưa
- Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam)
- Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên)
- Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine
- Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam)
- Voyage au Tonkin en 1876 (Đông Kinh du ký)
- Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam)
- Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
- Lục súc tranh công
- Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng tiếng quan thoại hay chữ Trung Quốc)
- Cours d’histoire annamite (Bài giảng lịch sử An Nam)
- Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
- Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
- Cours de littérature annamite, 1891 (Bài giảng văn chương An nam)
- Cours de géographie générale de l’Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông Dương)
- Grand Dictionnaire Annamite-Français (Đại tự điển An Nam-Pháp) v.v…
Hiện còn nhiều trước tác của Trương Vĩnh Ký đã bị thất lạc, không còn đầy đủ hoặc nằm ở thư viện nước ngoài.
Nỗi lòng
Hay tin Pétrus Ký, một con người tài giỏi, sẽ ra làm việc với Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều toan tính, ông nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc ấy, Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn câu châm ngôn Latin Ở với họ mà không theo họ (Sic vos non vobis), để biện minh cho việc nhận lời làm thông ngôn cho Jauréguiberry.
Ngày 8 tháng 11 năm 1870, ông có lời di huấn: Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong….

Bài thơ ông sáng tác lúc gần lâm chung :
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gửi tên con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài!
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.

Và câu ghi nơi nhà mồ bằng tiếng Latinh: Miseremini Mei Satem Vos Amici Mei (Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi).
Về hoa quả ở Cái Mơn
Ông còn được xem là có công trong ngành làm vuờn ở Cái Mơn. Các giống cây ăn trái như là sầu riêng, chôm chôm tróc, măng cụt tróc, bòn bon (Lansium domesticum)… đều do ông đem từ Pinang mỗi khi bãi trường về thăm nhà.
Vài nét về Trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký
Năm 1925 kiến trúc sư Hebrard de Villeneuf được chỉ định lập bản đồ thiết kế một ngôi trường mới tại Chợ Quán.
Ngày 28-11-1927 Toàn quyền Đông Dương G.Gal ra một nghị định thiết lập tại Chợ Quán một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat dành cho học sinh người bản xứ lấy tên là Collège de Cochinchine. Phân hiệu này đặt dưới sự điều hành của Ban Giám Đốc trường Chasseloup Laubat và một giáo sư phụ trách tổng giám thị của phân hiệu.
Năm 1928 khi các khu trường mới xây dựng xong,ngày 11-8-1928 Toàn quyền Đông Dương tạm quyền René Robert ký nghị định số 3116 gồm 6 điều,thành lập tại Chợ Quán ,kể từ kỳ tựu trường 1928-1929,một trường Cao Đẳng Tiểu học Pháp bản xứ, chuyển giao phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat nói trên vào trường này,và được mang tên là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký.
Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký , thường gọi tắt là Lycée Petrus Ký khai giảng ngày đầu tiên là ngày 01-10-1928 . Hiệu trưởng đầu tiên là Ông Sainte Luce Banchelin, giám học là Ông Boulé, phát ngân viên là Ông Mahé. Chủ tịch hội đồng quản trị là Ông Gazano và các ủy viên người Việt Nam là Ông Nguyễn Thành Giung, tiến sĩ hóa học, giáo sư khế ước, Ông Hồ Bảo Toàn và Trần Lê Chất, quan chức, là hai phụ huynh học sinh, ủy viên người Pháp là hai Ông Sainte Luce Banchelin và Mahé.

Từ 1949 đến 1950 học sinh Petrus Ký tham gia các phong trào đấu tranh của học sinh Saigon như chống độc lập giả hiệu, tẩy chay cuộc viếng thăm hai trường Petrus Ký và Gia Long của Bảo Đại vào tháng 9-1949, đòi học tiếng Việt trong nhà trường. Ngày 23-11-1949 toàn trường bãi khóa đòi thả 5 học sinh của trường bị bắt. Ngày 24-11-1949 nhà cầm quyền lúc bấy giờ ra lệnh đóng cửa trường vô thời hạn. Đến tháng 12-1949 phụ huynh và học sinh đòi nhà cầm quyền mở cửa trường trở lại cho học sinh đi học. Nha học chánh Saigon bắt buộc học sinh muốn học lại phải làm cam kết. Cuộc đấu tranh dằng co đến ngày 9-01-1950 học sinh các trường đồng loạt hẹn nhau đi biểu tình yêu cầu Giám đốc Nha học chánh và Thủ hiến giải quyết. Chánh quyền không giải quyết được và lúc 12g30 theo lệnh của thực dân Pháp đưa lính đến giải tán và đàn áp cuộc biểu tình dẫn đến cái chết của Anh Trần Văn Ơn, học sinh lớp Seconde (lớp 10 bây giờ) của trường Petrus Ký.

Cái chết anh Trần Văn Ơn dấy lên làn sóng căm phẩn cả nước. Ngày 12-01-1950 gần cả triệu người ở Saigon và nhiều tỉnh về dự đám tang anh Ơn, hầu như cả Thành phố Saigon ngưng hoạt động, ngưng họp chợ, các cửa hàng đóng cửa, công chức không đến Sở làm việc, học sinh, sinh viên trường công tư, công nhân, người buôn bán, xích lô… đến dự lễ truy điệu anh Ơn tại trường Petrus Ký. Sau đó trường mở cửa lại và nhà cầm quyền Pháp bãi bỏ chế độ nội trú của trường.

Muốn vào học trường Petrus Ký học sinh ưu tú của Saigon và các tỉnh phía Nam phải qua kỳ thi tuyển rất gay go, từ khi mới thành lập cũng vậy mà sau này cũng vậy. Vì thuộc thành phần chọn lọc như vậy cho nên học sinh Petrus Ký đậu rất nhiều và rất cao trong các kỳ thị Kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp năm 1959 chẳng hạn là kỳ thi rất hóc búa, toàn quốc chỉ có một người đậu hạng Bình mà thôi, và người đó là học sinh Petrus Ký. Về phương diện kỷ luật và trật tự thì có lẽ không có trường nào có kỷ luật và trật tự chặt chẽ, tốt đẹp bằng trường Petrus Ký. Ngày đầu tiên vào trường, đứng xếp hàng dưới những tàn cây sao cao ngất bên hông những dãy lớp học đồ sộ uy nghi, khi các lớp học sinh chỉnh tề theo hàng ngũ lần lượt đi vào sân trong và dừng lại ở trước cửa mỗi lớp một cách rất có trật tự và kỷ luật trong không khí trang trọng.

Học sinh Petrus Ký cũng chọc phá thầy cô, cũng đóng vai thứ ba học trò không khác gì những học trò các trường khác, nhưng chúng ta phải hãnh diện mà nói rằng cái phá hay cái đùa của học trò Petrus Ký có phần nào trí thức, ý nhị, và thông minh, chớ không quá quê mùa cục mịch, vô ý thức như một số học sinh các trường khác.

Phần đông giáo sư Petrus Ký là giáo sư được chọn lọc, rất có căn bản chuyên môn và cũng rất đạo đức. Các giáo sư được bổ nhiệm về trường Petrus Ký và một số các trường lớn khác ở Saigon thường phải là những người đậu đầu hay thật cao trong danh sách tốt nghiệp CĐSP hay ĐHSP sau này, hoặc những người đã dạy lâu năm ở tỉnh. Quý thầy đều rất tận tụy với việc giảng dạy, rất thương học sinh, và rất chú tâm đến việc bảo vệ uy tín và thanh danh của trường. Một số giáo sư Petrus Ký đã đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục sau khi dạy ở trường một thời gian.

 

Vĩnh An (chuyển)

BKT st

Xem thêm...

Ca khúc "Ly Rượu Mừng"

 

Ca khúc "Ly Rượu Mừng"

 

Ca khúc "Ly Rượu Mừng" là một bài hát thịnh hành trong dịp Tết. Bài hát mời mọi người cùng uống rượu mừng Xuân và nói những lời chúc Tết đến toàn dân và đất nước. Tuy bài hát không mô tả những cảnh tượng và sinh hoạt Tết như pháo nổ, hoa tươi sặc sỡ, bánh kẹo, bài hát tiêu biểu cho Tết Việt Nam vì chúc Tết là một tục lệ quan trọng trong Tết Việt Nam. Cộng với điệu nhạc vui tươi, giai điệu tiết tấu sống động, và lối diễn tả bình dị với vài điểm đặc sắc, "Ly Rượu Mừng" là một bài hát bất hủ trong dịp Xuân về.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương viết ca khúc "Ly Rượu Mừng" là một bài hát Xuân gồm có những lời chúc Tết đến mọi người và đất nước. Bài hát rất thịnh hành trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Hầu như năm nào các đài phát thanh, truyền hình đều trình bày "Ly Rượu Mừng" trong suốt mấy ngày Tết. Trong các bữa tiệc, người ta thường hát bài này khi cụng ly chúc mừng Tết. Bài hát vẫn còn thịnh hành hiện nay ở hải ngoại trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Tuy nhiên, ca khúc "Ly Rượu Mừng" không còn được ưa chuộng bởi giới trẻ tại Việt Nam hiện nay (Xem, thí dụ như, Anh 2015; Chị 2015).

image

image
 

Có vài chữ trong bản gốc in năm 1966 có lẽ viết sai. Thí dụ "tuông rơ" thay vì "tuôn rơi"; "Muông người" thay vì "Muôn người"; "đang phơi phới" thay vì"dâng phơi phới."

Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình thức của "Ly Rượu Mừng." Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của lời nhạc, nhưng sẽ có phần nói về các khía cạnh âm nhạc của bài hát. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.

Thời điểm bài hát được viết không được rõ. Trong tài liệu từ Wikipedia, năm viết được ghi là 1952 (Wikipedia 2015). Tuy nhiên, tờ in nhạc bản gốc ghi có giấy phép in ngày 28-12-1966 (Dòng 2014). (Nhạc sĩ miền Nam thường in lại những tác phẩm viết trước đó.) Bài hát có nhắc đến chiến tranh, hoà bình, và lời chúc các binh sĩ. Nhưng Việt Nam hầu như lúc nào cũng có chiến tranh trong các thập niên 1950 và 1960. Do đó chi tiết này không cho biết rõ thời gian bài hát được viết.

Tiểu sử vắn tắt của tác giả (Wikipedia 2015).

image

Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc. Cha ông là Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được hai người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Người con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.

image

Phạm Đình Chương học nhạc từ năm 13 tuổi, bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 17 tuổi. Năm 1951, ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với tên Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ra ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Năm 1967, ông thành lập phòng trà "Đêm Mầu Hồng" tại Sài Gòn rất nổi tiếng (Robertino147 2006). Ông viết khoảng sáu mươi ca khúc, gồm nhiều thể loại như dân ca, tình ca, nhạc phổ thơ. Những ca khúc nổi tiếng của ông gổm có: Tiếng Dân Chài, Anh Đi Chiến Dịch, Ly Rượu Mừng, Người Đi Qua Đời Tôi, Nửa Hồn Thương Đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng Dưới Hoa (thơ Đinh Hùng).

Năm 1979, ông vượt biên và đến định cư tại California, Hoa Kỳ (Robertino147 2006). Ông mất vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại California.

A. "Ly Rượu Mừng" tiêu biểu cho nhạc Xuân vì bài hát chú trọng vào lời chúc Tết và có điệu nhạc vui tươi sống động

 

"Ly Rượu Mừng" có nội dung đơn giản, là ca khúc mừng xuân với những lời chúc Tết tới mọi người được hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình tự do. Bài hát không có những mô tả hình ảnh hoặc sinh hoạt trong những ngày quanh dịp Tết (thí dụ, pháo nổ, màu hoa sặc sỡ, kẹo bánh) nhưng rất tiêu biểu cho ngày Tết Việt Nam. Đó là vì bài hát chú trọng vào điểm quan trọng nhất trong dịp Tết: chúc Tết. Ngoài ra, bài hát được viết với điệu nhạc Valse, đem lại nét vui tươi sống động trong mùa Xuân. Giai điệu vả tiết tấu có nhiều khía cạnh linh hoạt theo nội dung, rất thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

1. "Ly Rượu Mừng" gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do:

Bài hát mở đầu với lời mời nâng chén rượu để chúc mọi người ở khắp nơi ("Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi"), từ anh nông phu được mùa lúa thơm, người buôn bán có lợi tức, cho tới công nhân lao động thoát được cảnh nghèo khó ("Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi/ Người thương gia lợi tức/ Người công nhân ấm no/ Thoát ly đời gian lao nghèo khó.") Với các chữ "nông (phu)," "thương (gia)," và "công (nhân)," ta không thể không liên tưởng đến "sĩ nông công thương," được coi là bốn giai cấp xã hội Việt Nam thời xưa. Không rõ tại sao Phạm Đình Chương bỏ "sĩ" (người học hành). Trong đoạn sau, ông có nhắc đến "sĩ," nhưng đó là "nghệ sĩ" là những người sinh sống qua nghệ thuật, chứ không phải là những người sinh sống qua học hành hoặc hành nghề chuyên môn như bác sĩ, kỹ sư, luật sư. Có thể lúc bấy giờ, số người "sĩ" không nhiều trong xã hội bằng ba giới "nông, công, thương."

Với "nâng chén," tác giả mở đầu bằng hành động giơ cao ly rượu khi chúc mừng. Tác gỉả dùng "chén" và "ly" như nhau trong toàn bài hát. Ta nên nói thêm về "chén" và "ly" trong tiếng Việt.

Chữ "chén" có nhiều nghĩa trong tiếng Việt. Nghĩa thông thường của "chén" là vật dùng để uống nước, rượu, trà, thường bằng sành hay sứ. Một chữ có nghĩa tương tự là "tách" (do tiếng Pháp "tasse") nhưng "tách" thường có tay cầm trong khi "chén" thường không có tay cầm. Nghĩa thứ hai là vật dùng để ăn, như chén cơm, chén cháo. Trong nghĩa này, người miền Nam dùng "chén" thay cho "bát" hoặc "tô" mà người miển Bắc thường dùng. "Chén" còn có thể dùng với nghĩa bóng, hàm ý chứa đựng ý tưởng, tâm tình (như "chén tình" trong bài hát).

"Ly" khác "chén" ở hai điểm: "ly" thường làm bằng thủy tinh và sâu hơn "chén." Để uống rượu, người Tây phương thường dùng "ly" và rất ít khi dùng "chén." Ngược lại, người Việt dùng "ly" và "chén" tùy vào loại rượu. Nguyễn Dư (2014) viết một bài lý thú về nguồn gốc các dụng cụ uống rượu (chén, bát, ly, cốc).

 

Ta cũng nên để ý là khi uống rượu chúc mừng, người ta thường nói "nâng chén" hoặc "cụng ly" chứ ít ai nói "cụng chén." Có thể vì thói quen "cụng ly" là tạo âm thanh cho thêm phần vui nhộn, và thường thì thủy tinh pha lê của ly mới tạo ra được âm thanh trong vắt, chứ không có mờ đục buồn tẻ như sành sứ của chén. Thực ra có nhiều nguồn gốc giải thích cho thói quen "cụng ly." Một giải thích theo thói quen Hy Lạp là khi cụng ly, ta có thể làm văng thuốc độc bỏ vào ly rượu của mình vào ly rượu của kẻ đang muốn hại mình (Xem, thí dụ như, Etiquette International; Upton 2010). Một lý thuyết khác là khi cụng ly, ta đuổi ma quỷ ra khỏi rượu và do đó uống rượu an toàn hơn (Etiquette International; Upton 2010). Một giải thích nữa là một ly rượu ngon khơi mạnh các giác quan về nhìn, đụng chạm, vị, và mùi. Do đó, khi cụng ly, ta tạo thêm cảm nhận âm thanh, cho đầy đủ ngũ quan (Etiquette International). Với hai lý thuyết đầu, "cụng ly" hay "cụng chén" đều có ý nghĩa. Nhưng với lý thuyết thứ ba, "cụng ly" có lẽ đúng hơn "cụng chén" vì như trình bày trên, âm thanh tạo bởi hai ly thủy tinh va chạm nhau nghe thánh thót và vang vang hơn chén sành.

Ngoài ra, tiếng Việt ta dùng "nâng chén" và "nhấc ly" chứ không dùng "nâng ly" hoặc "nhấc chén." Đó là vì "nâng" là hành động trịnh trọng, hàm ý dùng sức (thực sự hay bề ngoài). Trong lúc uống rượu bằng chén thời xưa, người ta thường dùng hai tay để "nâng" chén rượu mời với ngụ ý trịnh trọng hoặc bày tỏ sự kính trọng. "Nâng" trong "nâng khăn sửa túi" hoặc tiếng lóng "nâng bi" có ý nghĩa kính cẩn trịnh trọng tương tự. Ngoài ra, vì chén thường không có tay cầm, dùng hai tay để "nâng" chén giữ cho chén thăng bằng, không đổ hoặc rớt. Ngược lại, "ly" thường có hình thể thon dài, có bầu sâu chứa rượu và chân ly dài, và nhẹ, nên cầm ly dễ dàng và không dùng sức nhiều. Do đó, khi đưa ly rượu lên cao, người ta thường dùng một tay để "nhấc" thay vì "nâng." Một điểm nữa, có lẽ hơi lạc đề, là cách "nhấc" ly hoặc cầm ly rượu. Cách đúng nhất là cầm chân hoặc thân (stem) ly, và không bao giờ cầm bầu (bowl) ly (Xem, thí dụ như, Real Simple). Lý do là khi cầm chân hoặc thân ly rượu, tay người cầm ly sẽ không che rượu trong ly (để màu và mức trong của rượu được nhìn thấy), và thân nhiệt ở tay sẽ không làm thay đổi nhiệt độ rượu. Vì cầm ly rượu ở chân hoặc thân ly và bằng một tay, hành động đưa ly lên thường không cần phải có sự trịnh trọng hoặc nặng nề. Do đó, "nhấc ly" nghe hợp lý hơn "nâng ly." Tuy nhiên, "nâng ly" hoặc "nâng cốc" vẫn được dùng để ngụ ý trịnh trọng, lễ phép, trong lúc chúc tụng.

  Trở về với "Ly Rượu Mừng," mọi người cùng nhấp chén rượu đầy vơi, chúc vui mọi người ("Á A A A Nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui.") Trong dịp Xuân về, ai cũng nao nao với những mối duyên nợ cuộc đời ("Á A A A Muôn lòng xao xuyến duyên đời.") Với quãng "Á A A A," bài hát khuyến khích mọi người cùng ca. Có lẽ đó là lý do "Ly Rượu Mừng" thích hợp cho hợp ca và trong cuộc họp mặt đông người khi mọi người cùng nâng ly rượu chúc lẫn nhau.

Ly rượu được rót tràn đầy để chúc người binh sĩ lên đường ra nơi trận mạc xa xôi được thành công, làm tươi sáng cuộc đời dân lành ("Rót thêm tràn đầy chén quan san/ Chúc người binh sĩ lên đàng/ Chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành/ Mừng người vì nước quên thân mình.") Ta hiểu "quan san" là quan ải và núi non, thường để chỉ những nơi xa xôi, hoặc ở biên giới, đồn trú cho binh lính. Lời chúc cũng được gửi tới những bà mẹ già nơi xa xôi, nhớ thương con cháu mong mỏi được gặp lại người con đi xa, sẽ có dịp gặp lại con trở về hội ngộ chan hòa niềm yêu thương ("Kìa nơi xa xa có bà mẹ già / Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa/ Chúc bà một sớm quê hương/ Bước con về hòa nỗi yêu thương.") Mọi người cùng hát bài hát vui vẻ làm tươi thắm đời người chiến sĩ, và để cho người mẹ già không còn lo âu buồn bã vì con nữa ("Á A A A Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính/ Á A A A Chúc mẹ hiền dứt u tình.")

Ly rượu mừng cũng gởi đến những cặp tình nhân hoặc vợ chồng đang xây tổ ấm cùng nhau ("Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương/ Xây tổ ấm trên cành yêu đương.") Điều đó không có nghĩa là chúc mừng những cặp vợ chồng mới cưới. Ta biế̉t ít ai làm đám cưới trong mùa Xuân vào dịp Tết. "Đôi uyên ương" chỉ có nghĩa cặp tình nhân, hoặc cặp vợ chồng trẻ đang tạo dựng gia đình nhỏ. Với người nghệ sĩ, chúc mừng họ đem lời ca, tiếng nhạc, câu thơ văn, và nét họa tô điểm cuộc đời thêm mới mẻ tốt đẹp ("Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ/ Tiếng thi ca nét chấm phá tô nên đời mới.") Như trình bày ở trên, "nghệ sĩ" đây không phải là giai cấp "sĩ" trong "sĩ nông công thương" mà là những người theo ngành nghệ thuật như nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, ̣điêu khắc gia, v.v.

image

Nhưng lời chúc thiêng liêng nhất là lời chúc cho đất nước hòa bình, không còn chiến tranh, thịt rơi máu đổ. Đó là ngày quê hương được yên vui và những người lính trở về với chén rượu ấm chứa chan đầy tình thương yêu ("Bạn hỡi, vang lên/ Lời ước thiêng liêng/ Chúc non sông hòa bình, hòa bình/ Ngày máu xương thôi tuôn rơi/ Ngày ấy quê hương yên vui/ đợi anh về trong chén tình đầy vơi.") Có thể đây là lý do ca khúc "Ly Rượu Mừng" không còn được thịnh hành tại Việt Nam hiện nay nữa, vì lời chúc hòa bình có vẻ mất ý nghĩa. Tuy nhiên, với tình trạng thế giới hiện nay và thái độ ngang ngược của Tàu cộng, chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Ngoài ra, chiến tranh không nhất thiết là về quân sự, mà còn có ý nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội, v.v. Với những ý nghĩa đó, Việt Nam hiện nay vẫn còn chiến tranh trên toàn đất nước dưới sự thống trị tàn bạo của cộng sản.

Mọi người hãy cùng nhấc cao ly rượu, chúc cho tương lai sáng sủa tràn đầy tự do, đất nước thanh bình, và mọi người được hạnh phúc tràn trề ("Nhấc cao ly này/ Hãy chúc ngày mai sáng trời Tự Do/ Nước non thanh bình/ Muôn người hạnh phúc chan hòa.") Trước hết, ta để ý tác giả dùng "nâng chén" và "nhấc cao ly rượu" (thay vì "nâng ly" hoặc "nhấc chén") như đã đề cập ở trên. Thứ nhì, trong phiên khúc này, tác giả chúc đất nước tự do và thanh bình. Ta phải hiểu Phạm Đình Chương ngụ ý cầu mong nước non thanh bình và sáng trời tự do cho toàn thể đất nước Việt Nam từ Nam ra Bắc. Lúc bấy giờ, miển Nam đã được hưởng nền dân chủ tự do, nhưng miền Bắc bị dưới ách thống trị tàn bạo của cộng sản. Phạm Đình Chương lúc nào cũng tưởng nhớ đến miền Bắc. Tên hát của ông là Hoài Bắc, nói lên tâm tư này. Thứ ba, đây là lời chúc khác với lời chúc trong phiên khúc trước. Trong phiên khúc trước, lời chúc "non sông hòa bình" khác với "nước non thanh bình." "Hòa bình" ngụ ý không còn chiến tranh, chém giết lẫn nhau. "Thanh bình" ngụ ý yên tĩnh, không bị khuấy động. Một đất nước hòa bình không có nghĩa là thanh bình nếu nước đó vẫn còn những bất công, đàn áp bởi kẻ cầm quyền. Thí dụ điển hình là Việt Nam. Tuy không còn chiến tranh, Việt Nam hiện nay còn bị khuấy động nhiều hơn cả lúc đang chiến tranh, vì những bất công, tham nhũng, đàn áp, và tàn bạo do nhà nước cộng sản xảy ra toàn diện trên khắp vùng đất nước. Đó là không kể hiểm họa mất nước có thể xảy ra nay mai.

 

Tổng kết, mọi người mơ ước hạnh phúc ở khắp mọi nơi và hương thơm thanh bình đang dâng cao ("Ước mơ hạnh phúc nơi nơi/ Hương thanh bình dâng phơi phới.") "Phơi phới" hàm ý một khí thế đang lên. Lời chúc "thanh bình" gồm cả "hòa bình" lẫn yên tĩnh, và do đó có ý nghĩa mạnh mẽ hơn "hòa bình."

"Ly Rượu Mừng" là một ca khúc đơn giản, gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do. Bài hát có nhiều khía cạnh khác biệt với những bài hát khác về Xuân.

2. Tuy không mô tả cảnh tượng hoặc không khí Xuân, "Ly Rượu Mừng" tiêu biểu cho ngày Tết vì chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất trong Tết Việt Nam:

Ca khúc "Ly Rượu Mừng" thuần túy là những lời chúc Xuân cho mọi người và đất nước. Bài hát hoàn toàn không có mô tả cảnh tượng đón Xuân, hoặc các trang lễ, chuẩn bị, và không khí của những ngày Tết theo truyền thống Việt Nam. Phạm Đình Chương cố tình gạt bỏ những hình ảnh về Xuân, mà chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất là chúc Tết. Cả toàn bài hát không hề có các cảnh tượng thiên nhiên mùa Xuân như màu sắc hoa (mai, đào), mùi hương thơm hoa, nắng vàng, gíó ngàn, tiếng chim hót; hình ảnh đón Tết và trang hoàng trong nhà như bếp hồng, bánh dầy, bánh chưng, kẹo mức, hạt dưa, trái cây, cây nêu; cảnh tượng đường phố như trẻ em khoe quần áo mới, người đi nườm nượp, phố phường đông đúc; các hình ảnh và âm thanh Tết như pháo nổ đì đùng, trống đập múa Lân, phong bì đỏ lì xì, tiếng nhạc ca hát mừng Xuân, v.v.

 

Những bài hát khác về Xuân luôn luôn có, không nhiều thì it, những hình ảnh hoặc gợi ý cho cảnh Xuân và không khí đón Tết. Thí dụ như: "Rừng hoa mai đua nở" ("Tâm Sự Nàng Xuân" của Hoài Linh); "Ngắm vườn bên thấy mai đào nở," ("Nghĩ Chuyện Ngày Xuân" của Song Ngọc); "Hoa lá nở thắm," "hoa đào hồng thắm," ("Cánh Thiệp Đầu Xuân" của Minh Kỳ & Lê Dinh); "Hoa đào hoa mai," "trẻ thơ khoe áo xinh xinh," "mứt vàng hạt dưa," "bánh dầy bánh chưng," "phong bì thắm tươi" ("Ngày Tết Việt Nam" của Hoài An); "chim hót mừng," "Lập lòe tà áo xanh xanh," "đàn chim non xinh xinh tung bay," "tiếng pháo đì đùng," "Ngàn hoa hé môi cười vui" ("Xuân Đã Về" của Mink Kỳ); "cánh hồng tươi thắm," "Muôn sắc khoe tươi," "Nồng ngát hương thơm" ("Gió Mùa Xuân Tới" của Hoàng Trọng); "nụ hoa vàng mới nở," "lộc non vừa trẩy lá," "bầy chim lùa vạt nắng," "rung nắng vàng ban mai," ("Anh Cho Em Mùa Xuân" của Nguyễn Hiền, thơ Kim Tuấn); "mai đào nở vàng bên nương," "pháo giao thừa rộn ràng," "trông bánh chưng ngồi chờ sáng," "cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe phố phường" ("Xuân Này Con Không Về" của Trịnh Lâm Ngân); "nắng vàng," "nâng phím đàn cùng hát ca," ("Xuân Họp Mặt" của Văn Phụng).

 

Thực ra, cả toàn bài "Ly Rượu Mừng," chỉ có một chữ "Xuân" duy nhất trong câu đầu. Nếu bỏ chữ "Xuân" này và thay bằng một chữ khác như "vui," cả toàn bài chỉ hoàn toàn nói về chúc tụng mọi người và đất nước, và không có một chút xíu gì về Xuân hoặc Tết cả. Nhưng có thật là vậy không?

Tại sao "Ly Rượu Mừng" luôn luôn được coi là bài hát tượng trưng cho dịp Xuân về, Tết đến? Câu trả lời thật đơn giản nhưng cũng có thể gây ngạc nhiên: Chính lời chúc tụng là đặc tính độc đáo của Tết Việt Nam.

Tết Việt Nam có thể không có cảnh tượng thiên nhiên như chim hót, nắng vàng, gió mát, hoặc những hoạt động nhân tạo như pháo nổ, múa rồng, múa lân, hoa mai, hoa đào, bánh chưng, kẹo mứt, quần áo mới, tiếng hát Xuân, phong bì đỏ lì xì.

Nhưng Tết Việt Nam không thể nào không có lời chúc Tết.

image

Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau gần như là căn bản sinh hoạt ở xã hội Việt Nam. Người Việt hình như bị ám ảnh với chúc tụng. Người ta chúc nhau trong bất kỳ dịp nào: sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi, sinh đẻ, thi cử (trước và sau khi thi), thăng quan tiến chức, mua sắm đồ dùng, mua nhà, mua xe, cưới hỏi, du lịch, nghỉ hè, đau ốm, ra vào bệnh viện, ra mắt tác phẩm, mở cửa hàng, nhận chức vụ mới, thuyên chuyển, trình diễn, trúng thầu, ký khế ước. Trong một buổi họp mặt, cho dù bất cứ có dịp gì, luôn luôn có người đứng lên ngỏ lời chúc mọi người. Trong một bữa tiệc, sẽ có người nói, "Chúc quý vị một bữa tiệc vui vẻ." Trên đài phát thanh hoặc truyền hình hàng ngày, các xướng ngôn viên luôn luôn có lời chúc khán thính giả, lúc thì một ngày vui vẻ, một ngày nghỉ an toàn, hoặc một buổi tối ấm cúng với gia đình. Trong một lá thư hay một e-mail, người viết thường mở đầu hoặc kết luận bằng một lời chúc. Ngay cả trong lúc gặp nhau hàng ngày cũng có lời chúc vui vẻ hoặc mạnh khỏe. Những lời chúc nhiều khi biến thành những lời chào hỏi hàng ngày, thí dụ như "Chúc bạn một ngày vui," tương tự như những câu nói sáo rỗng "Have a nice day!" ở Hoa Kỳ.

Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau không phải chỉ xảy ra thông thường ở Việt Nam. Dân chúng tại nhiều quốc gia khác cũng có thói quen tương tự. Nhưng tại các quốc gia này, chúc tụng thường xảy ra tại các buổi họp mặt, tiệc tùng, ăn mừng một dịp nào đó, và thường không xảy ra giữa cá nhân hoặc qua thư từ, và không có sắc thái hầu như là ám ảnh của người Việt. Tại các quốc gia khác, trong bữa tiệc họp mặt, ngoại trừ các xã hội cấm uống rượu (thí dụ, đạo Hồi), thường có những lời chúc tụng giữa khách và chủ qua cách giơ cao ly rượu và cùng uống (toasting). Đa số những lời chúc tụng là cho sức khoẻ (Etiquette Scholar).

image

Người Việt có lẽ tin tưởng vào các lời chúc tụng sẽ quả thật đem lại may mắn, sức khỏe, tiền bạc, thành công, tình yêu. Trong các dịp lễ long trọng như ngày Tết, lời chúc còn có ý nghĩa "thiêng liêng" hơn các dịp khác vì có sự tin tưởng vào thần thánh, tổ tiên ông bà hoặc những người đã khuất trong gia đình, hội họp trong dịp Tết và sẽ giúp những lời cầu chúc thành sự thật. Phong tục cổ truyền Việt Nam trong dịp Tết có nhiều tục lệ như cúng kiến, xông đất, xuất hành, chúc Tết, hái lộc, biếu quà, kiêng cữ, v.v. nhưng có lẽ chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất. Trong những ngày đầu năm, câu đầu tiên người ta nói với nhau khi gặp nhau là lởi chúc Tết. Ngay cả ngày nào đi chúc Tết ai cũng được quy định rõ rệt: "Mồng một chúc Tết mẹ cha/ Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy."

Do đó, tuy không có những mô tả thiên nhiên, cảnh tượng, nhà cửa, đường phố, thiên hạ, và các hoạt động Tết, ca khúc "Ly Rượu Mừng" biểu hiện một đặc tính quan trọng nhất trong Tết Việt Nam. Đó là những lời chúc Tết trong các ngày đầu năm. Tết Việt Nam sẽ mất ý nghĩa nếu không có những lời chúc Tết và do đó "Ly Rượu Mừng" luôn luôn là một ca khúc được hát trong dịp Tết hàng năm.

3. Giai điệu, tiết tấu, và điệu nhạc valse thích hợp cho lời chúc mừng Xuân với nét vui tươi và sống động:

Bài hát được viết với nhịp 3/4, dưới điệu nhạc Valse có tốc độ/ hành độ (tempo) nhanh và do đó đem lại nét sống động và vui tươi, thích hợp cho dịp vui ăn mừng ngày Tết. Nhạc sĩ thường chọn lựa điệu nhạc (tiết điệu) khi soạn nhạc. Tiết điệu là chu kỳ của các phách mạnh và yếu theo một nhịp điệu nào đó. Tiết điệu cho thấy sự liên kết nhịp nhàng trong chuyển động. Thí dụ: valse, rhumba, fox, slow, tango (Phạm Đức Huyến, 37). Ta nên biết có hai điệu nhạc Valse, hoặc Waltz theo tiếng Mỹ: Waltz chậm (slow Waltz) và Viennese Waltz. Cả hai đều có cùng nhịp điệu căn bản nhưng Viennese Waltz có tốc độ nhanh hơn Waltz chậm, có thể nhanh gấp ba bốn lần. Waltz chậm còn được gọi là Boston, do tên thành phố Boston tại Hoa Kỳ khi điệu Waltz được phát triển và du nhập qua Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 (Xem, thí dụ như, OSLH). Nhạc Việt thường dùng Boston cho Waltz chậm và Valse cho Viennese Waltz. Trong bài "Ly Rượu Mừng," nhạc sĩ Phạm Đình Chương ghi rõ điệu Valse trên tờ nhạc, và bài hát nên được trình bày với tiết điệu nhanh và sống động của điệu Viennese Waltz.

image

Giai điệu và tiết tấu của bài hát thích hợp cho hợp ca, như trong buổi họp mặt. Bài hát có những khúc trầm bổng, ngắn gọn và kéo dài tùy vào nội dung của câu hát, tạo nên nét linh hoạt và sống động. Thí dụ câu "Bạn hỡi/vang lên/ Lời chúc/ thiêng liêng" có bốn ngắt quãng với dấu nghỉ, và ở nốt cao, diễn tả lời kêu gọi mọi người cùng vang lên lời chúc. Lời kêu gọi đó được nhấn mạnh qua bốn ngắt quãng và nốt cao tạo nên khí thế thúc giục mạnh mẽ. Tương phản với câu kêu gọi thúc giục đó, câu "Kìa nơi xa xa có bà mẹ già" có cùng trường độ, nhưng không có dấu nghỉ và lời ca được kéo dài liên tục; do đó tạo ra âm hưởng êm ái nhẹ nhàng, thích hợp cho hình ảnh bà mẹ già mong chờ con.

Bài hát gồm có những lời chúc mọi người và toàn dân đất nước. Do đó, âm hưởng bài hát sẽ có khí thế mạnh mẽ và ý nghĩa khi bài hát trình bày qua hợp ca. Tuy bài hát có thể do một ca sĩ hát, âm điệu sẽ được hay hơn nếu có nhiều ca sĩ cùng hát một lúc. Những quãng Á A A A trong bài hát là dành cho khúc hợp ca, có nhiều người đồng xướng. Bài hát cũng sẽ được trình bày linh động nếu có những khúc hát hợp ca xen kẽ những khúc hát đơn ca, hoặc hợp ca giọng nam xen kẽ hợp ca giọng nữ. Ban Hợp ca Thăng Long phối hợp kỹ thuật hợp ca và đơn ca, và hợp ca giọng nam cùng giọng nữ rất tinh vi, đem nét linh động, vui tươi, và nhiều sắc thái cho bài hát (Xem, thí dụ như, Doppelpass01 2010).

B. Bài hát có lối diễn tả đơn giản thích hợp cho các lời chúc Tết chính xác và có vài nét đặc sắc đem lại nét linh hoạt sống động:

Trong "Ly Rượu Mừng," Phạm Đình Chương không có lối dùng chữ hoặc kỹ thuật trình bày gì đặc biệt. Bài hát có ít mỹ từ. Các từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, không cầu kỳ bóng bẩy. Đó chính là điểm hay của bài hát. Bài hát gồm những lời chúc Tết cho mọi người; do đó, ngôn từ cần phải đơn giản thích hợp với bản chất bình dị và chất phác của đa số dân Việt thời bấy giờ. Không ai muốn nói những lời chúc khó hiểu hoặc bóng bẩy làm mất đi ý nghĩa chân thành của lời chúc đầu năm. Ngoài ra, vì bài hát là những lời chúc Tết và không phải là một câu chuyện hoặc tâm trạng của một người nên không có nhiều những khía cạnh kỹ thuật viết như lối trình bày, "cho thấy, đừng kể," chú trọng vào chi tiết rõ rệt, v.v...

image

Tác giả dùng những lời chúc chính xác, ̣đánh đúng vào nguyện vọng của mọi người. Với người nông phu, còn gì sung sướng hơn là ruộng lúa được mùa; thương gia buôn bán có lời nhiều; người lao động không còn nghèo khó; người chiến sĩ thành công nhiệm vụ, giúp dân lành; bà mẹ già gặp lại con trở về, hết cơn u buồn; cặp tình nhân xây tổ ấm; người nghệ sĩ tô điểm đời thêm tươi đẹp; non sông hòa bình và đất nước hưởng thanh bình tự do. Ta không thấy những lời chúc mơ hồ, sáo rỗng, máy móc, như "sức khỏe sung túc," "sống lâu trăm tuổi," "tài lộc dồi dào," "con hiền dâu thảo," "thăng quan tiến chức," v.v...

Tuy bài hát có lối diễn tả bình dị và đơn giản, cũng có vài điểm đặc sắc đáng ghi. Trước hết, Phạm Đình Chương trình bày cuộc uống rượu mừng là một chuỗi tác động rót rượu, nâng chén hoặc nhấc cao ly, nhấp nháp rượu, uống cạn ly, và rót thêm rượu ("nâng chén ta chúc nơi nơi / Nhấp chén đầy vơi/ Rót thêm tràn đầy chén/ Nào cạn ly/ chén tình đầy vơi/ Nhấc cao ly này"). Mỗi tác động kèm theo lời chúc mọi người. Cách mô tả đó tạo ra cảnh tượng linh hoạt sống động của một bữa tiệc khi mọi người cùng giơ cao ly rượu và chúc lẫn nhau. Thứ nhì, bài hát có vài chỗ dùng "cho thấy, đừng kể," chi tiết rõ rệt, và ẩn dụ nhẹ nhàng. Thí dụ như "mắt vương lệ nhòa," "máu xương thôi tuôn rơi," "chén tình," "thoát ly đời gian lao." Cộng với điệu nhạc vui tươi và giai điệu tiết tấu sống động, các diễn tả này đem lại những nét chấm phá rải rác trên khắp bài hát, giúp khán giả có tâm trạng lâng lâng sảng khoái.

image

Ca khúc "Ly Rượu Mừng" là một bài hát bất hủ cho Tết. Bài hát không có những mô tả thông thường về Tết như pháo nổ, hoa mai hoa đào nở, bánh kẹo trái cây, nhưng đánh đúng vào sắc thái quan trọng trong dịp Tết là chúc Tết. Ngoài ra, với điệu nhạc Valse vui tươi, giai điệu trầm bổng, tiết tấu sống động, và lời ca đơn giản, bài hát thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

Với người Việt, Tết là mùa vui vẻ. Những ngày đầu năm là những ngày ai cũng vui cười, trao quà, chúc nhau những lời chúc tốt đẹp. Ngày Tết thực ra có thể tạo căng thẳng cho một số gia đình phải lo tốn kém chuẩn bị, mua sắm và sửa soạn nhà cửa. Với nhiều gia đình nghèo, ngày Tết cũng như mọi ngày trong cuộc đời. Ngoài ra, có nhiều gia đình thiếu thốn người thương yêu vì họ bị giam cầm cho những tội bịa đặt của nhà nước cộng sản. Do đó, trong khi ta hưởng thụ những ngày Tết hạnh phúc với gia đình, ta cũng nên có chút suy nghĩ đến những người đang chịu khổ cực đọa đầy, nhất là những người đang trong ngục tù cộng sản vì đấu tranh cho dân chủ tự do.

Cao Đắc Tuấn


KP sưu tầm

 

 

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này