Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1325)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (27)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (130)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (263)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

Nhìn Lại Nền Giáo Dục VNCH - Sự Tiếc Nuối Vô Bờ Bến

Nhìn Lại Nền Giáo Dục VNCH - Sự Tiếc Nuối Vô Bờ Bến

 
Sách giáo khoa thời VNCH
Sách giáo khoa thời VNCH
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
1468720_354694488000497_1492264788_n
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. 

Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
https://tuxtini.files.wordpress.com/2013/11/pkc3bd-le1bb85.jpg
Một buổi lễ khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn viên ( công viên 30/4 hiện tại ), nằm trên đường Boulevard Norodom – ( Đại Lộ Thống Nhất trước Dinh Độc Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà ).
 Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.
Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người(không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh.
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
750Thay_Co_truong_QGNT
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này.
Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trongHiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
vnch-giao-duc6
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốclấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
vnch-giao-duc1 (1)
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.

Mục tiêu giáo dục thời VNCH:

Bích chương của Bộ Y Tế VNCH
Bích chương của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
Thanh nữ VNCH
Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận nhữnggiá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường  chiến sĩ)
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường Chiến Sĩ) 

Giáo dục tiểu học:

Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa.

Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).   Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
1955 400.865 8.191
1957 717.198[9]  
1960 1.230.000[9]  
1963 1.450.679 30.123
1964 1.554.063[10]  
1970 2.556.000 44.104
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa.
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.
Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dân và Đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản

 Giáo dục trung học:

Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).
Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…
Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
trước 1971sau 1971
lớp năm lớp một
lớp tư lớp hai
lớp ba lớp ba
lớp nhì lớp tư
lớp nhất lớp năm
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
lớp đệ thất lớp sáu
lớp đệ lục lớp bảy
lớp đệ ngũ lớp tám
lớp đệ tứ lớp chín
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
lớp đệ tam lớp mười
lớp đệ nhị lớp 11
lớp đệ nhất lớp 12
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trung học đệ nhất cấp:
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.
Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.
Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.
Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp.
Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Sân trường Marie Curie
Sân trường Marie Curie
Trung học đệ nhị cấp:
Nam sinh Võ Trường Toản
Nam sinh Võ Trường Toản
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.
Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.
Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học[8]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
1955 51.465 890
1960 160.500[9]  
1963 264.866 4.831
1964 291.965[10]  
1970 623.000 9.069
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.
Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Thầy trò trường Gia Long
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinhvà các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đencòn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.
Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960
Bổ sung ( theo góp ý của đọc giả Nguyễn ):
Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).
Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.
Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975
Trung học kỹ thuật:
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B'Lao
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ;  tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Hiệu trưởng Cao thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.

Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử

Các trường tư thục và Bồ đề:
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.
Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.
Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.
Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Le Collège Fraternité - Bac Ai datant de 1908, se situe 4 - rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Saigon 17 March 1971 - Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học:
VienDaiHocVanHanh Saigon
 
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là  Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.
Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học:
Niên họcSố sinh viên
1960-61 11.708[45]
1962 16.835[10]
1964 20.834[10]
1974-75 166.475[46]
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ).
Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.

Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):

VNCH có nhiều trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:
normale11
Thạc Sĩ người Việt đầu tiên là ông Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩPhạm Duy.
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ôngPhạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou
Theo hệ thống của Pháp (ngày trước):
-  Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).
Theo hệ thống của Hoa Kỳ:
- Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ(PhD).
Khó có thể so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau.   ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).
Từ “ Thạc Sĩ ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.
Luat Khoa Sai gon
Đại học Luật khoa Sài Gòn

Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).
Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).
Trong mỗi Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.
Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).
Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
25-khach_vieng_truong_01
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.
Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện.
Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.

Các viện đại học công lập:

Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.
Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục, Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ). Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965.
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).

Các viện đại học tư thục:

Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975  viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng.
Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.

Các học viện và viện nghiên cứu:

Viện Pasteur Nha Trang
Viện Pasteur Nha Trang
Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.
Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.

Các trường đại học cộng đồng:

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở  Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.
Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.

Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:

Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trường Cao đẳng Điện học
Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia
Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia

Các trường nghệ thuật:

Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu Trần Thanh Tâm (đờn kìm) Phan Văn Nghị (đờn cò) Trương Văn Đệ (đờn tam) Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ  (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.

TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA

Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Trang bìa cuối sách Địa Lý lớp Ba
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.
Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
KohoReader
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.

NHÀ GIÁO

Đào tạo giáo chức:

Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.  Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.
Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.
Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.
Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như AnhPhápHoa KỳNhậtĐức, v.v…

Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Đời sống và tinh thần giáo chức:

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470.
Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà.
Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.
Scan_Pic0046
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm.

THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP

Chứng chỉ Tú Tài 1
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.
Chứng chỉ Tú tài 2
Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.

Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:
Phan_Huy_Quat
Ông Phan Huy Quát

ĐÁNH GIÁ

hocba1950
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.

Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét)
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…[106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.[107]
(Nguồn: Wikipedia, )
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)'
 

Nguyễn Ngọc Quang (ST)

 Đại Học Khoa Học Sàigòn
Xem thêm...

Bộ ảnh thiếu nữ Việt Nam trong tà áo dài từ xưa đến nay

Bộ ảnh thiếu nữ Việt Nam trong tà áo dài từ xưa đến nay

Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 sắp đến. Designs.vn xin giới thiệu đến độc giả bộ ảnh thiếu nữ Việt Nam trong tà áo dài từ xưa đến nay. Dù cho ở thời kì nào, áo dài luôn tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Áo dài lần đầu tiên xuất hiện vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, tức chúa Vũ (1738 - 1765)

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Năm 1922, trường Gia Long đã chọn áo dài tím làm đồng phục nữ sinh

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Cảnh những nữ sinh trường Đồng Khánh ở Huế tới trường bằng đò trong chiếc áo dài

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Một bức ảnh về áo dài nữ sinh thuộc thập niên năm 70

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Ảnh chụp những nữ sinh trường Trưng Vương trong tà áo dài duyên dáng và nữ tính năm 1974

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Các nữ sinh mặc áo dài trắng, đạp xe tới trường là hình ảnh lãng mạn, không hề hiếm thấy trong những năm đầu thập niên 70

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Hiệu trưởng Đàm Thị Ngọc Thơm cùng các cô giáo trường phổ thông trung học Hồ Thị Kỷ là những người có công lớn trong việc vận động, thuyết phục cho các nữ sinh mặc áo dài tới trường

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Trong thập niên 90, áo dài chính thức được công nhận là đồng phục nữ sinh đẹp nhất Việt Nam

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

Sự trẻ trung năng động của nữ sinh thời nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh ta ao dai Viet Nam tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay

anh thieu nu viet nam trong ta ao dai tu xua den nay 

Giữa cuộc sống bộn bề với guồng quay chóng mặt, hình ảnh người con gái - phụ nữ Việt trong tà áo dài vẫn đủ làm xuyến xao bao trái tim. Dù đã có nhiều cách tân trong thiết kế áo dài, nhưng những nét đặc trưng của áo dài Việt vẫn mãi còn đó!

Tê Hát st

Xem thêm...

Thái Thanh - Em Hát Tan Vàng, Ca Nát đá.. - Hoàng Hải Thủy

Em hát tan vàng, ca nát đá

Hoàng Hải Thủy

Khi được tin Thái Thanh bị bệnh Quên, Thái Thanh vào sống ở Nursing Home, tôi đăng bài viết này về Nàng. Phần đầu của bài này được tôi viết ở Sài Gòn khoảng năm 1970.

Hôm nay – ngày 15 Tháng Tư 2015, sống những ngày cuối đời ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi sửa lại bài này, tôi viết thêm một số đoạn vào bài này, để tưởng nhớ Thái Thanh, để thương tiếc Thái Thanh.
Tôi tưởng nhớ Thái Thanh, tôi thương tiếc Thái Thanh ngay khi Nàng sống trong cõi đời này như tôi.
Nay Thái Thanh đang sống những ngày cuối đời nàng.

Nay tôi đang sống những ngày cuối đời tôi.

Thái Thanh trên Trang Wikipedia:
Thái Thanh – Phạm Thị Băng Thanh – sinh ngày 5 tháng 8 năm 1934 tại Hà Nội – được mệnh danh “Tiếng hát vượt thời gian” – là một nữ ca sĩ nổi tiếng, được xem như một trong những giọng ca tiêu biểu nhất của tân nhạc Việt Nam. Bà thành danh từ thập niên 1950. Bà thường được coi là “Đệ Nhất Danh Ca” của dòng nhạc tiền chiến cũng như nhạc tình mien Nam giai đoạn 1954-1975. Bà không theo học một lớp nhạc chuyên nghiệp nào, chỉ tự luyện giọng từ nhỏ theo các lối dân ca của đồng bằng Bắc Bộ và các sách nhạc tiếng Pháp. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì chuyển sang định cư ở Hoa Kỳ. Tại đây bà tiếp tục trình diễn và thâu âm cho đến khi bà nói lời giải nghệ vào năm 2002.
Năm 1946, Băng Thanh tản cư cùng gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến, nơi bà bắt đầu hát lúc 14 tuổi với nghệ danh Thái Thanh. Cũng năm này bà chị của bà là bà Thái Hằng kết hôn với nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1950 gia đình Phạm Duy dinh tê về Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn, Thái Thanh theo vào Sài Gòn.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với diễn viên điện ảnh Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với nhau 3 con gái và 2 con trai. Sau biến cố 1975, bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì sang Hoa Kỳ.

Từ đó, tôi – CTHĐ – thấy Thái Thanh không một lần trở lại Sài Gòn.
thanglongPhạm Thị Băng Thanh bắt đầu sự nghiệp ca hát từ năm 13-14 tuổi..
Thời kỳ đầu, bà đi hát theo chị là ca sĩ Thái Hằng ở các chiến khu Việt Minh với các bài tân nhạc thời kỳ đầu, hay các bài dân ca mới của Phạm Duy. Đến năm 1951, bà chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh cho giống người chị Thái Hằng.

Năm 1951, bà theo gia đình Phạm Duy vào Sài Gòn. Bà nổi tiếng trong thập niên 1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình dân. Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình của Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với ban hợp ca Thăng Long thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách Đêm Màu Hồng.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Thái Thanh ở lại Việt Nam. Bà bị cấm hát suốt 10 năm, cho đến khi rời khỏi Việt Nam.

Năm 1985, Thái Thanh sang Hoa Kỳ định cư. Năm 2000 bà bị tai biến mạch máu não phải vào bệnh viện. Sau đó tuy hồi phục nhưng năm 2002, bà chính thức tuyên bố giải nghệ.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn là tác giả của nhiều bài viết về Thái Thanh, phần lớn là những bài phát biểu cảm tưởng. Theo ông, trường hợp của Thái Thanh là một “trường hợp hãn hữu”, và “Máu lửa, chiến tranh, bom đạn, chia cắt, người sống, người chết, nước mắt, mồ hôi, thấm nhập vào âm nhạc của chúng ta như thế nào, đều được phản ánh qua tiếng hát Thái Thanh.” Giọng ca Thái Thanh là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song hành với Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, từng cho rằng không ai có thể thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác của ông.
Bên cạnh đó, nhiều nhà phê bình, văn nghệ sĩ cũng có những bài nhận định về Thái Thanh, những bài này thường mang tính ca ngợi, như Thái Thanh – tiếng hát trên trời của Thụy Khuê, Thái Thanh – tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi của Đỗ Việt Anh, Nụ tầm thanh của Hoàng Hải Thủy…Giọng hát Thái Thanh được nhà văn Mai Thảo tặng một biệt danh mà sau này thường được người ta nhắc đến, một cách trân trọng, bên nghệ danh của bà: Tiếng hát vượt thời gian.
o O o
Trích “Lời Tác Giả” Phóng Sự Tiểu Thuyết YÊU NHAU BẰNG MỒM:
CTHĐ: Năm 1970 tôi xuất bản quyển “Yêu Nhau Bằng Mồm.” Tôi tặng Thái Thanh quyển này.
Tôi viết “Yêu Nhau Bằng Mồm” để đăng báo tuần năm 1960. Ðến Tháng Bẩy năm 1970, mười năm sau ngày Kiều Ly – nhân vật chính trong Yêu Nhau Bằng Mồm – xuất hiện trên báo, tôi sửa lại bản thảo Yêu Nhau Bằng Mồm để đưa cho Nhà Chiêu Dương xuất bản.
Buổi sáng mùa thu, một mình tôi trong căn phòng nhỏ, bên bàn viêt của tôi là chiếc Akai xoay đều một băng nhạc do Phạm Mạnh Cương thực hiện. Tôi viết, tôi sửa bài, tôi lơ đãng nghe nhạc.
Ðến một phút nào đó tôi ngừng tay trên bản thảo vì tiếng hát của Thái Thanh. Nàng hát bài “Mùa Thu Trong Mắt Em” của Phạm Mạnh Cương. Tôi xúc động vì tiếng hát và tôi chợt nhớ từ lâu rồi, từ nhiều năm nay, tiếng hát Thái Thanh đã làm tôi nhiều lần xúc động; tôi yêu đời, yêu người nhiều hơn, đời tôi sung sướng hơn, đẹp hơn, một phần là nhờ sự ca tụng Tình Yêu của Tiếng Hát Thái Thanh.

TÌNH YÊU viết Hoa Bẩy Chữ, Hoa luôn Dấu Huyền, Dấu Mũ.
Tôi nhớ một buổi sáng cách buổi sáng hôm nay, khi tôi viết những dòng chữ này, đã gần hai mươi năm. Ðó là một buổi sáng năm 1952. Buổi sáng đó tôi là một thanh niên vừa hai mươi tuổi, những bước chân tôi đang bỡ ngỡ bước vào đường đời; tôi vừa từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi đang đi tìm việc làm trong những toà báo ở Sài Gòn. Viết rõ hơn: năm 1952 tôi đã bỏ học, tôi chưa có việc làm để sống, tôi chưa biết tôi sẽ làm nghề gì, tôi chỉ biết tôi muốn làm báo, viết truyện. Với tôi năm ấy một chân phóng viên báo chí với số lương tháng hai ngàn đồng bạc là một cái gì thật là lý tưởng và quí báu nhất đời.

Buổi sáng ấy – một sáng Sài Gòn đầu mùa thu – tôi đứng trên con tầu điện từ Chợ Lớn chạy về Sài Gòn, tôi thấy Thái Thanh cùng đi trên con tầu điện ấy. Năm 1952, gần hai mươi năm trước đây, Thái Thanh và tôi cùng rất trẻ – Thái Thanh sinh năm 1934, kém tôi một năm – chúng tôi đang cùng bước vào con đường văn nghệ, nàng ca hát, tôi viết truyện, làm thơ. Năm ấy tôi chưa có chút danh tiếng nào, tôi còn chưa kiếm được tiền, dù chỉ là tiền đi xem xi nê, tiền mua mấy tở báo Cine Revue, Cinemonde được gửi đến Sài Gòn bằng tầu thủy – par bateau – Thái Thanh và Ban Thăng Long đã bắt đầu nổi tiếng. Và năm đó Sài Gòn còn có đường xe điện chạy từ Sài Gòn vào Chợ Lớn trên đường Galliéni, nay là đường Trần Hưng Ðạo.

Xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn năm xưa ấy chạy giữa đường. Khi xe ngừng ở trạm, khách xuống giữa đường nên đề đề phòng tai nạn, khoảng năm 1960 chính quyền Sài Gòn triệt bỏ đường xe điện này.

Và như thế là từ buổi sáng ấy cho đến sáng hôm nay, khi tôi ngồi sửa truyện và nghe Thái Thanh hát qua băng nhựa, thời gian đã hai mươi năm trôi qua đời tôi. Và đời Thái Thanh. Tôi thấy Nữ ca sĩ Thái Thanh, với tiếng hát không có dĩ vãng của nàng, đã làm cho đời tôi đẹp hơn, phong phú hơn là tôi với những truyện ngắn, truyện dài của tôi làm cho đời nàng thêm đẹp. Vậy để trả ơn nàng, tôi trang trọng đề tặng nàng tập truyện này. Bạn đọc thông minh chắc thừa hiểu nữ nhân vật Kiều Ly của phóng sự tiểu thuyết này không phải là hình ảnh của Thái Thanh; tôi chỉ cần nói thêm rằng những đoạn nào “tả chân” về Kiều Ly là tả Kiều Ly, còn những đoạn nào tả thơm, tả sạch về Kiều Ly thì Kiều Ly đó có phảng phất hình ảnh Thái Thanh.
o O o
Bài viết ở Sài Gòn ngày Một Tháng Chín 1970..
Thời gian vỗ cánh bay như quạ.. Thơ Ông Tchya Ðái Ðức Tuấn. Ðây là nguyên thơ bốn câu của ông tôi tìm được trong Hồi Ký “Nhớ Nơi Kỳ Ngộ” của ông Lãng Nhân:
Thì giờ vỗ cánh bay như quạ
Bay hết đường xuân kiếm chỗ ngồi
Rượu đến, gà kêu, cô cuốn chiếu
Quay về, còn lại mảnh tình tôi…

Tôi chỉ đổi tiếng “thì giờ” thành “thời gian..” Ðúng là thời gian vỗ cánh bay như quạ. Năm 1970 tôi trong căn gác nhỏ ở Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn, nghe tiếng hát Thái Thanh, viết những giòng trên đây làm lời nói đầu tập phóng sự tiểu thuyết “Yêu Nhau Bằng Mồm” của tôi. Tôi đăng Yêu Nhau Bằng Mồm từng kỳ trên tuần báo Kịch Ảnh của Quốc Phong. Truyện viết xong được Nhà Xuất Bản Chiêu Dương ấn hành thành sách. Năm 1970 tôi nhớ hình ảnh của Thái Thanh trên chuyến xe điện Chợ Lớn-Sài Gòn hai mươi năm trước – năm 1952, năm ấy hai chúng tôi rất trẻ…
Năm ấy – năm 1952 – Thái Thanh hai mươi tuổi, tôi hai mươi tuổi.

Tôi tặng Thái Thanh tác phẩm Yêu Nhau Bằng Mồm.
o O o
Thế rồi… thời gian vỗ cánh bay như quạ.. năm nay, năm 2000, buổi sáng Tháng Mười, mùa thu về trên đồng đất Virginia của người Mỹ, tôi ở Rừng Phong, viết lại bài tôi đã viết năm 1970 – ba mươi năm trước – bài tôi viết về Thái Thanh, người nữ ca sĩ của vợ chồng tôi, tôi lại tưởng như tôi nhìn thấy tôi ba mươi năm trước ngồi viết về Tiếng Hát Thái Thanh trong căn gác nhỏ của vợ chồng tôi ở Ngã Ba Ông Tạ, Sài Gòn; năm 1970 ấy tôi mới bốn mươi tuổi.

Tính ra thời gian đã qua năm mươi năm kể từ buổi sáng tôi nhìn thấy Thái Thanh – Nàng hai mươi tuổi bận toàn y phục trắng, trên chuyến xe điện Chợ Lớn-Sài Gòn.

Nếu còn sống ở Sài Gòn tôi sẽ chẳng bao giờ được thấy lại, được đọc lại Yêu Nhau Bằng Mồm. Sau cuộc biến thiên 30 Tháng Tư 75 ở Sài Gòn tất cả những sách tiểu thuyết của chúng tôi đều bị tịch thu, cấm tàng trữ, tiêu hủy, chúng tôi mất hết tác phẩm. Ở Hoa Kỳ người Việt ta in lại nhiều sách truyện của những văn sĩ Sài Gòn, trong số sách được in lại ở Hoa Kỳ có quyển Yêu Nhau Bằng Mồm của tôi.

Bánh xe tị nạn khấp khểnh sang Hoa Kỳ tôi lại có quyển Yêu Nhau Bằng Mồm; nhờ vậy hôm nay tôi mới có điều kiện và cảm hứng để viết bài này. Alice và tôi có hai ca sĩ Thái Thanh và Anh Ngọc, với vợ chồng tôi Thái Thanh và Anh Ngọc là nhất. Có lần, cũng những năm 1970, tôi đã viết:
“Tôi quen mở máy nhạc khi ngồi viết, vừa viết vừa nghe nhạc. Nhưng khi tiếng hát Thái Thanh cất lên, tôi phải ngừng viết để nghe.”

Tôi vẫn nghĩ khi Thái Thanh hát mà tôi làm bất cứ việc gì là tôi có lỗi. 30 Tháng Tư 75 đến, số văn nghệ sĩ may mắn bỏ của chạy lấy người được lơ thơ như lá mùa thu, số văn nghệ sĩ kẹt giỏ ở lại đông vô số kể, những ngày tháng đen tối, u sầu, lo âu kéo dài như vô tận.
Một đêm cuối năm 1976 tôi gặp lại Thái Thanh. Ðêm ấy có Hoài Bắc, Lê Trọng Nguyễn. Vi-la số 203 đường Hiền Vương, gia chủ mời chúng tôi ăn bữa tối. Khoảng 11 giờ đêm Thái Thanh ngồi vào piano, nàng vừa đàn, vừa hát. Thấy tôi đến bên đàn, nàng mỉm cười nhìn tôi. Tôi hiểu nàng hỏi tôi:
“Muốn nghe bài gì?”

Tôi nói:
“Thôi thì thôi nhé…”
Nàng nhắc lại:
“Thôi thì thôi nhé..”
Và nàng hát cho tôi bài Ðộng Hoa Vàng, Thơ Phạm Thiên Thư, Nhạc Phạm Duy. Đứng bên nàng, tôi lặng người nghe nàng hát cho riêng tôi nghe.
Sau đó tôi làm bài thơ:

TIẾNG HÁT THANH
Tiếng mẹ ru từ thưở nằm nôi,
Mẹ thôi Mẹ không hát nữa,
Khi Anh chân bước vào đời.
Tiếng hát Mẹ nằm trong ký ức
Tung cánh bay khi Em hát cho người!
Ngày xưa xa lắm ở bên trời
Có người xưa hát lúc đi rồi
Mười hôm tiếng hát còn vương vấn
Trên mái nhà xưa âm chửa rơi.
Tiếng hát Em tim Anh nức nở
Hai chục năm rồi Thanh chửa thôi!
Em hát khi Anh vừa bỏ học,
Em hát khi Anh sắp bỏ đời.
Em hát khi Anh hồng tuổi ngọc,
Em hát khi Anh giấc ngủ vùi,
Em hát khi Anh chưa biết khóc,
Em hát khi Anh biết mỉm cười.
Em hát tan vàng, ca nát đá.
Em hát cho Anh biết ngậm ngùi.
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi.
Ðêm tàn Em hát, buồn ơi lá sầu.
Ðộng Hoa Vàng có tên nhau,
Thương thì thương nhé, qua cầu gió bay.
Tiếng Em buồn cuối sông này,
Mây đầu sông thẫm bóng ngày khóc nhau.

o O o
Khoảng Tháng Hai, Tháng Ba năm 1984 người Sài Gòn báo cho nhau biết có người nghe được tiếng nói của đài phát thanh kháng chiến. Nghe nói những người ở Nha Trang đầu tiên vô tình mở radio bắt được đài này. Tháng Tư năm ấy tôi nghe được tiếng nói của Ðài Phát Thanh Hoàng Cơ Minh, đài phát thanh năm lần một ngày, mỗi lần lâu một giờ. Nhạc hiệu của đài là bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông, tiếp đó là Thái Thanh hát bài Quê Em:
“Quê Em miền trung du.
Ðồng quê lúa xanh rờn.
Giặc tràn lên cướp phá.
Anh về quê cũ.
Ði diệt thù giữ quê.
Giặc tan đón Em về..”

Ðêm khuya, khoảng 11 giờ, tiếng Thái Thanh hát Quê Em từ đâu xa lắm vọng về làm Alice và tôi ngây ngất. Nghe tiếng Thái Thanh từ radio phát ra tôi nghĩ:
“Thật lạ kỳ. Giả chân, chân giả. Ðây là tiếng hát Thái Thanh – không ai có thể nói đây không phải là tiếng Thái Thanh – nhưng cũng có thể nói không phải tiếng Thái Thanh vì lúc ấy Thái Thanh đâu có hát. Thái Thanh đang ở Sài Gòn. Nghe tiếng hát của mình từ góc trời nào vọng lại, không biết Thái Thanh có cảm nghĩ gì.”
Thế rồi sau khi đã phải sống đến năm năm trong ba bức tường, một hàng song sắt của nhà tù lớn Chí Hòa, tôi cô đơn, tôi sầu buồn nên tôi làm thơ. Thơ vẩn, thơ vơ thôi.
Năm 2000, thế hệ lão liệt chúng tôi đã và đang dắt nhau đi vào quên lãng. Thời gian tới biết có ai còn xúc động vì tiếng hát Thái Thanh, vì nhạc Phạm Duy, Hoài Bắc, Ðoàn Chuẩn?
Tôi viết bài này để hoài niệm nhau lúc chúng tôi sống; tôi viết nhớ người mà cũng là nhớ những ngày hoa niên, những ngày trung niên của đời tôi:

NỤ TẦM THANH
Tóc mai sợi vắn, sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài tình nhân.
Tiếng Em trời đất vang ngân
Âm vàng, thanh ngọc bội phần xót sa.
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm thanh.
Nụ tầm thanh nở ra cánh biếc,
Em vượt biên rồi, Anh tiếc lắm thay.
Nhớ nhau gọi một chút này
Mất nhau ta tiếc những ngày có nhau.
Nửa hồn thương, nửa hồn đau,
Nửa hồn ta tím ngắt mầu thời gian.
Nghìn trùng xa cách quan san
Biết Em chớp biển, mưa ngàn ở đâu.
Hạc vàng bay mất từ lâu
Mà sao hoàng hạc trên lầu còn Thanh.
Lan huệ sầu ai.. Lan huệ sầu thành…
Quê Em tiếng hát em xanh đất trời.
Từ ly người đã xa người
Còn đây tiếng hát một đời xôn xao.
Ta đốt lên một cành hương dạ thảo
Em biết cho… Tình Ta vẫn nhớ Người.
Thăng Long từ độ Thanh hồng hảo.
Tình khúc, thương ca động đất trời.
Tà áo xanh ngời hương mộng ảo,
Hồ điệp, Trang Châu hát giữa đời.
Người đi mùa ấy thu giông bão,
Tà áo Văn Quân mấy khóc cười.
Mái nhà xưa nhớ trăng huyền thảo,
Viễn xứ thuyền đi, biển nhớ người
Người đi vắng một trời châu bảo,
Vượn hú, chim kêu, nước ngậm ngùi.
Lâu đài tình ái sương dăng ảo
Ðồi tím hoa sim gió ạ…ời…
À… ơi.. ơi.. à …ơi…
Ngày ấy có Thanh, Thanh nhẹ vào đời
Và Thanh ca đến với lời thơ nuối.
Ngày ấy có Tôi mê mải tìm lời..
Và Thanh… Thanh..suốt một đời… Tình ơi..!
Nhớ người mười tám, đôi mươi,
Cỏ hồng, chiều tím, xanh trời, Người đi.
Chúng mình ngày đó xuân thì,
Tiếc không khăn gấm, quạt quỳ trao tay.
Gìn vàng, giữ ngọc cho hay,
Lửa hương ta hẹn kiếp này, kiếp sau.
Áo bay thương lúc qua cầu
Trăng vàng, mây bạc mái đầu thướt tha.
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm thanh.
Nụ tầm thanh nở ra cánh biếc,
Em vượt biên rồi, Anh tiếc lắm thay.
Của tin gọi một chút này:
Tóc mai sợi trắng, sợi phai
Lấy nhau đặng cũng thương hoài ngàn năm!

Thơ làm tai Phòng Giam 20 FG Nhà Tù Chí Hòa Tháng 10, 1988, khi nghe tin Thái Thanh đã sang Mỹ.
o O o
Rừng Phong. Ngày 16 Tháng Tư, 2015.
Tôi viết bài này để ghi dấu : Thái Thanh bị Bệnh Già – Quên – đã bốn năm. Đã hơn 1000 ngày đêm Nàng sống trong một Nursing Home ở Cali. Nghe nói nay Nàng không nhớ, không biết – Nàng đã quên – những người thân quen của Nàng.
Tôi mong trong vài sát-na, Thái Thanh đọc và hiểu những giòng chữ này tôi viết về Nàng.
Trên Wepekeida, trong bài viết về Thái Thanh, người viết kể câu thơ của tôi là:

“Em hát cho tan vàng, nát đá
Em hát cho Anh biết ngậm ngùi..”
Câu Thơ Thái Thanh của tôi là:
“Em hát tan vàng, ca nát đá
Em hát cho Anh biết ngậm ngùi…

CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG

Nguyễn Ngọc Quang (ST)

 Đại Học Khoa Học Sàigòn

 

 

 

 

Xem thêm...

Ký ức vụn 30 Tháng Tư

Ký ức vụn 30 Tháng Tư

 

Bên ngoài Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vào ngày 28 Tháng Tư, 1975, hai ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. (Hình: Getty Images)

Ẩn Danh
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Ðời Tị Nạn)

Thấm thoát đã gần 40 năm kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975. Ngày ấy tôi mới 17 tuổi, tuổi đầy ước mơ và hoài bão, nhưng cũng ngổn ngang những mối lo âu. Ước mơ được vào đại học hoặc đi du học và lo biết đâu mình sẽ bị động viên vào quân đội như bố tôi. Chắc chắn ông không muốn tôi theo binh nghiệp như ông.

Vào những ngày giữa Tháng Ba, những tin không hay từ chiến trường đã dồn dập xuất hiện trên báo chí, đài truyền hình, và đài phát thanh. Buôn Mê Thuột mất, rồi đến Huế, Ðà Nẵng cũng mất, sau đó Qui Nhơn, Tuy Hòa.

Sang đầu Tháng Tư, các tỉnh chung quanh Sài Gòn dần dần cũng mất, Dinh Ðộc Lập bị ném bom bởi một trung úy phi công nằm vùng. Tôi và chúng bạn vẫn đi học bình thường nhưng ai nấy đều lo lắng về số phận chính mình vì linh cảm rằng ngày mất Sài Gòn không xa.Mẹ tôi đã thoát khỏi Tuy Hòa về Sài Gòn trên một chuyến bay dân sự trước khi thành phố này thất thủ. Bố tôi vẫn còn kẹt lại cho đến cuối Tháng Ba mới có mặt ở Sài Gòn. Khi Tuy Hòa mất, ông đã phải di tản bằng đường bộ vào Nha Trang, nhưng lúc đó Nha Trang đã rơi vào tay đối phương. Nhờ người quen giúp, ông lên được chiếc ghe liều lĩnh ra khơi không biết đi về đâu, nhưng may mắn nhóm người trên chiếc ghe đã được chiến hạm Mỹ vớt đưa về Phú Quốc rồi từ đó ông về Sài Gòn.

Những ngã Sáu, ngã Bảy dựng đầy những kios tuyển quân với số tiền thưởng đầu quân hậu hĩnh. Rõ ràng tình hình chiến sự ngày càng căng thẳng, người ta rất đang cần lính. Một người bạn trong lớp tôi đã đầu quân. Lớp làm bữa tiệc nhỏ tiễn bạn mình mà cứ giống như tiễn Kinh Kha qua Dịch Thủy. Tiễn “anh” đi, chưa bao giờ buồn thế… (1)

Gia đình tôi đang phân vân việc đi hay ở lại. Bố mẹ tôi đều là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954. Mẹ tôi khăng khăng nhất định rời Việt Nam bằng mọi cách. Bà có lẽ đã chứng kiến cảnh ông ngoại tôi bị đấu tố và hành hạ đến khi đưa về nhà thì chết nên rất sợ Cộng Sản. Bác Cả, chị lớn nhất góa chồng và hơn mẹ tôi gần 20 tuổi, đã dắt con trai duy nhất của mình và đưa cả đàn em hơn chục người với gia đình con cái họ chạy khỏi quê Phủ Lý, Hà Nam để xuống chiếc tàu há mồm di cư vào Sài Gòn.

Bố tôi cũng một lần di cư cùng với ông bà nội tôi và các em từ Phúc Yên ra Gia Lâm, Hà Nội để vào Nam. Nhưng bây giờ ông bà nội tôi đã già, bố tôi không nỡ bỏ đi, hơn nữa ông còn khoác áo lính, không muốn mang tiếng đào ngũ. Tâm niệm “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm” của người lính đã làm ông băn khoăn.

Giữa Tháng Tư tình hình trở nên nguy kịch. Ngày 21 Tháng Tư, Tổng Thống Thiệu từ chức, cụ Trần Văn Hương chấp chánh. Chính quyền Sài Gòn đã có dấu hiệu suy sụp.

Bố tôi điện thoại cho cô Út tôi đang ở Mỹ tìm cách lo giấy tờ cho gia đình để di tản. Cả nhà hy vọng chồng cô là luật sư Mỹ có thể lo liệu giấy tờ được, nhưng tất cả cần thời gian.

Ngày 28 Tháng Tư, Cụ Trần Văn Hương từ nhiệm giao quyền lại cho ông Dương Văn Minh. Ngày 29 Tháng Tư, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, vòng vây Sài Gòn đang khép chặt, trường ốc đóng cửa, mà có đi học cũng chẳng thể học. Phương án cuối cùng là chạy vào tòa Ðại Sứ Mỹ.

Em chồng của dì tôi là nhân viên tòa Ðại Sứ Mỹ. Gia đình cô ấy thuộc diện được bốc đi. Thế là những người thân khác có thể hy vọng đi theo với sự giúp đỡ của cô.

Qua đám người đông nghịt, tôi được đẩy vào cổng sau tòa đại sứ trên đường Phan Ðình Phùng. Lúc đó khoảng 10 giờ sáng ngày 29 Tháng Tư. Hành trang chỉ là chiếc valise nhỏ Samsonite màu xanh lá cây mà tôi vẫn giữ làm kỷ niệm. Trong túi giấu hai lạng vàng làm vật tùy thân. Vào đến sân sau tòa đại sứ tôi đã thấy một hàng người san sát nối đuôi nhau uốn lượn như rắn bò vào ra một hai căn nhà nhỏ rồi quanh co bên hồ bơi để đến gần nơi trực thăng đáp xuống.

Tôi gặp lại gia đình bác Cả, dì Út tôi, mẹ tôi, và sau đó là cô kế út của tôi. Bố tôi không vào. Mọi người lo lắng, ai cũng từng di cư, ai cũng từng nếm mùi Cộng Sản, ai cũng mong đến phiên mình được bước lên trực thăng càng sớm càng tốt.

Mẹ tôi nhất quyết ra đi dù không có bố tôi và giận tôi vì tôi có vẻ thờ ơ với mọi việc có lẽ vì tôi chưa nếm mùi Cộng Sản mà mãi sau tôi tôi mới hiểu thêm “chuyên chính vô sản” là gì. Tôi vẫn chậm chạp tiến lên trong khi mọi người cố đi nhanh. Tôi và người anh họ tên C, con trai duy nhất của bác Cả tôi dắt theo từ Bắc vào Nam, đã từ từ tách xa những người thân phía trước. Hết đứng rồi lại ngồi nghỉ, mệt mỏi, không ăn trưa, không ăn chiều, chỉ uống nước và chờ đợi. Trời đã tắt lịm, đèn trong sân sau đã thắp sáng. Ðoàn người vẫn đi quanh bờ hồ, đường rất ngắn mà xem chừng thật xa, cả tiếng đồng hồ mới có một chiếc trực thăng đáp xuống và bay lên.

Gần 10 giờ tối, nhóm người thân đi trước đã được bốc đi. Trong đó có mẹ tôi, cô tôi, bác Cả tôi và người con dâu với hai đứa cháu nội, một đứa mới sinh và một lẫng cẫng biết đi, và gia đình dì tôi gồm 7 người với cậu em họ bị polio liệt hai chân phải cõng.

Ðến nửa đêm trực thăng không đáp xuống sân sau nữa. Chúng tôi được đưa vào bên trong tòa đại sứ để lên sân thượng nơi cuối cùng mà trực thăng có thể đáp xuống, hàng người vẫn nối dài đi qua từng bậc cầu thang của 6 tầng lầu, rất chậm và rất chậm. Qua từng tầng lầu, tôi lén nhìn vào khung cửa kính nhỏ thấy nhân viên Mỹ đang hủy giấy tờ và thấy một người cao ốm đi đi lại lại trong phòng mà tôi đoán đó là ông Ðại Sứ Martin vì tôi đã thấy đâu đó trên TV hay báo chí.

Cuối cùng tôi và người anh họ cũng lên đến tầng cuối. Lúc đó khoảng 2 giờ khuya. Trước mặt tôi là cầu thang chót dẫn lên sân thượng. Chỉ mươi bước nữa thôi tôi sẽ xa Sài Gòn để sống một nơi xa lạ, xa người thân, xa bạn bè. Trong lúc suy nghĩ vu vơ thì một người lính Mỹ bắt đầu đếm chúng tôi, họ cho mười người bước sang bên kia chân cầu thang. Tôi là người thứ mười một và kế tiếp là anh họ tôi. Tôi hiểu rằng nhóm bên kia sẽ được lên sân thượng trước, tôi liều nói dối họ bằng tiếng Anh bập bẹ của mình “our relatives are on other side, please let us join them.” Thế là họ cho chúng tôi qua cùng dăm ba người khác.

Ðộ hơn ba giờ sáng họ bắt đầu lại đếm người và cho lên sân thượng. Nhưng khốn thay, họ cho mười người bên nhóm này rồi mười người bên nhóm kia lên sân thượng. Tôi và anh tôi bị chặn lại và tất cả lại chờ đợi. Ðến bốn giờ sáng vẫn không thấy nhúc nhích, nỗi lo lắng và mệt mỏi mỗi lúc mỗi tăng, suốt đêm không ai ngủ, chỉ chờ đợi và chờ đợi. Thế rồi những người lính Mỹ ra dấu và nói với chúng tôi trực thăng bây giờ đáp ở dưới sân và yêu cầu chúng tôi đi xuống. Có lẽ mọi người khác cũng như tôi cảm thấy một điều gì bất thường nhưng không thể cưỡng lại yêu cầu của họ.

Tất cả lục đục đi xuống. Vừa ra khỏi tòa nhà, tôi ngoái đầu nhìn lại thấy độ hai chục lính Mỹ đang chĩa súng về phía đám đông. Khi người Việt cuối cùng vừa ra khỏi tòa nhà thì những người lính Mỹ rút dần vào trong theo hình chữ V và cánh cửa sắt hạ xuống. Tôi biết thế là hết và chợt cảm thấy mắt mũi cay xè. Họ đã tung hơi cay và lựu đạn khói để giải tán đám đông. Mọi người chạy dạt khỏi tấm cửa sắt. Tôi vừa chạy vừa bịt mũi miệng để tránh hít hơi cay. Chỉ mươi phút sau khói và hơi cay cũng tan biến đi.

Cuối Tháng Tư, mới năm giờ, trời le lói sáng, ánh đèn điện vẫn chưa tắt. Trên mặt đất và hồ bơi ngổn ngang giấy rác. Cổng đã bị phá, người bên ngoài ùa vào để hôi của, lấy tất cả những gì mà họ có thể lấy, tủ lạnh, TV, nồi niêu xoong chảo, v.v… Bất chợt tôi thấy một người Mỹ chạy vội vã, tay cầm điện thoại vô tuyến cố gắng liên lạc với bên trong tòa đại sứ. Lẽo đẽo theo ông ta là một phụ nữ người Việt, có lẽ là vợ hay bạn gái. Ông ta cũng bị bỏ rơi như tôi. Ông ta thỉnh thoảng quay lại lớn tiếng với người phụ nữ dường như trách móc vì bà mà ông bị bỏ lại. Tôi cũng không hơn gì, anh họ tôi khóc và trách vì tôi mà anh ấy lạc mẹ và vợ con. Tôi chẳng có gì để phân trần với anh ấy. Thôi thì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, tất cả tại tôi mọi đàng” (2) và tôi lẳng lặng ra cổng sau nơi tôi đã chen vào sáng hôm qua để về nhà.

Trời sáng hơn dẫu chưa 6 giờ, đường sá vắng tanh và yên lặng một cách kỳ lạ, giống như một thành phố bỏ hoang. Tôi đi vội vã trên con đường Phan Ðình Phùng quen thuộc mà tôi vẫn đạp xe đến Hội Việt Mỹ học Anh văn hàng tuần. Tôi chỉ muốn về nhà thật chóng, thỉnh thoảng bắt gặp một vài người đạp xích lô hỏi tôi muốn đi không, nhưng tôi từ chối khéo rằng tôi sắp đến nhà vì tôi không chắc họ thật lòng đưa mình về nhà hay đi đâu và rất có thể bị cướp. Tôi đang lo đến sự an nguy của ông bà nội và bố tôi. Trong đầu tôi hiện lên lời ông nội tôi nhắn nhủ “ông bà đã già, chỉ cần cho cháu đi thoát được, nếu ‘họ’ vào thì ông bà quyết không để cho ‘họ’ làm nhục ông bà.”

Tôi hiểu ông nói gì. Trong tủ thuốc có sẵn hàng chục viên thuốc ngủ và sẽ được dùng khi cần. Ông tôi, từ một thầy giáo tiểu học thời Pháp thuộc đã đến với Việt Minh qua phong trào “Truyền bá chữ quốc ngữ” do cụ Nguyễn Văn Tố khởi xướng. Nhưng ông tôi cũng sớm rời bỏ kháng chiến để dinh tê (re-entré) về vùng của Pháp. Cụ đã nhận thấy cái ác, cực ác của chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng thanh toán, thủ tiêu bất cứ ai khác chính kiến (3). Họ có thể trả thù, đấu tố, trừng phạt những người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến như ông nội tôi. Không ai biết được những gì sẽ xảy ra (4).

Ði ngang chợ Vườn Chuối, rồi chợ Bàn Cờ. Hàng quán thưa thớt lạ lùng mà lẽ ra giờ này phải đông đúc tấp nập. Thoáng trong đầu tôi một sự tưởng tượng ghê sợ: mình sẽ là đứa trẻ mồ côi khi về nhà không còn thấy ai sống. Tôi cố gắng đi càng nhanh càng tốt, dù rất mệt hầu như không còn sức. Ðến nhà, nhìn vào không thấy đèn sáng, tôi gõ mạnh liên tục vào tấm cửa kéo rồi nghe tiếng chân bước ra hỏi “ai đấy.” Nỗi lo sợ tan biến đi, tôi vội nói rõ to “cháu đây bà ơi.” Bà tôi vội mở cửa và nói vọng vào trong nhà “cháu nó về, ông à.” Cả nhà vội ra cửa nhìn tôi ngạc nhiên.

Câu nói đầu tiên của tôi là “cháu cần đi ngủ.” Thức trắng cả đêm và không có gì trong bụng suốt ngày hôm qua. Tôi rất mệt và cần ngủ.

Nhưng tôi không ngủ được nhiều. Ðầu óc vẫn bàng hoàng. Lúc tôi thức dậy bà đã nấu cho tôi tô cháo đậu xanh như mỗi lần tôi ốm. Vừa ăn tôi kể lại những gì xảy ra trong đêm qua. Không ai nói gì, một yên lặng bi thương.

Chiếc radio vẫn để mở liên lục để theo dõi tin tức. Rồi tin đúng trưa hôm đó là lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Cuộc chiến Nam Bắc đã chính thức chấm dứt. “Hòa bình” đã đến. Quá trưa tôi đạp xe đến nhà cô P, em kế bố tôi, ở gần cổng xe lửa số 6 đường Trương Minh Giảng mới hay cả nhà đi hết với người em chồng mà sau này mới biết họ đi từ cơ quan DAO (Defense Attaché Office). Và tôi cũng ghé đến gia đình bác T, một người chị khác của mẹ tôi, ở ngã ba Ông Tạ. Cả nhà cũng đi hết. Họ đã xuống Vũng Tàu từ vài ngày trước. Tôi lủi thủi đạp xe về, lòng dạ trống trải kỳ lạ.

Tôi trở lại trường tiếp tục học. Vài thầy cô và bạn bè vắng mặt, trong đó có người bạn gần nhà mà tôi đã đến giã từ trước khi vào tòa đại sứ, nhưng bây giờ chính anh là người đi thoát còn tôi thì kẹt lại. (Sau này tôi biết anh đã cố gắng giúp mẹ tôi tìm tôi bên đảo Guam mà không được. Tôi vẫn tri ân điều đó.)

Mươi ngày sau bố tôi được gọi lên trình diện với chính quyền mới. Ban đầu được sáng đi học “cải tạo,” chiều về. Rồi sau đó được lệnh mang theo lương thực đủ cho bốn năm ngày vì học lâu hơn. Ai cũng ngỡ chỉ một tuần thì “học” xong. Nhưng không, ngày về không có. Ðó là bài học đầu tiên cho tôi và người dân miền Nam về sự dối trá của chính quyền mới. Và rồi đây chính tôi sẽ phải biết nói dối, phải biết cảm ơn Bác và Ðảng đã giải phóng tôi. Tôi sẽ không còn là tôi nữa. Bằng không, tôi sẽ không tồn tại. Làm sao có thể suy tư là tồn tại theo kiểu của René Descartes, “Je pense, donc je suis”?

Mấy ngày sau sinh hoạt hàng ngày có vẻ bình thường lại, chính quyền mới tổ chức ăn mừng chiến thắng. Học sinh, sinh viên được quy tụ lại mít tinh mừng chiến thắng, mừng lễ Lao Ðộng, mừng sinh nhật “bác Hồ.”

Trong lúc đó người đưa thư quen thuộc đến giao gia đình tôi bức điện tín từ Mỹ. Tin ngắn gọn yêu cầu tòa đại sứ cho gia đình tôi vào. Nhưng tất cả đã muộn. Không còn tòa đại sứ Mỹ nữa.

Rồi ít lâu sau ông bà tôi nhận được thư từ miền Bắc gửi vào, đó là thư của bác ruột, anh cả của bố tôi. Sở dĩ bác biết được địa chỉ gia đình tôi là nhờ cụ HT ở Hà Nội vẫn đôi khi thư từ với người con gái cụ ở Sài Gòn trước năm 75 qua trung gian bên Pháp.

Bác tôi đã mất liên lạc với gia đình khi ông bà tôi di cư vào Nam năm 54, tôi không biết hoàn cảnh của bác có giống tôi ngày nay không? Nhưng qua thư tôi biết thêm anh chị họ tôi và những người thân khác bên kia vĩ tuyến 17. Cũng qua thư bác, tôi mới thấy một nghịch cảnh trong gia đình: hai anh em hai chiến tuyến. Bố tôi ‘lính của cụ Ngô,’ còn bác tôi ‘bộ đội cụ Hồ.’ Chỉ có một điều may mắn là hai anh em đã không chĩa súng vào nhau mà bắn. Cả hai đã sống sót qua cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn.

Bác tôi cũng ngạc nhiên khi biết tôi không phải như những gì mà báo chí miền Bắc tuyên truyền: thanh niên miền Nam hư đốn, sa đọa, đồi trụy bị Mỹ đầu độc, v.v…

Ngày bác tôi và tôi đi thăm bố tôi trong trại “cải tạo” Long Giao, bác tôi và bố tôi đã không nói được nhiều dẫu có thể muốn nói rất nhiều, đã không ôm nhau, tay bắt mặt mừng sau hơn 20 năm xa cách.

Phải chăng chiến tranh và các chủ nghĩa ngoại lai đã làm cho hai anh em khác chiến tuyến lãnh đạm, thờ ơ với nhau. Nhưng tôi vẫn tin rằng dẫu có thể khác nhau nhiều về chính kiến nhưng cả hai vẫn có tình anh em, máu mủ ruột thịt, cùng bố cùng mẹ.

Ðiều mà tôi quí bác là sự thành thật ban đầu. Bác quan tâm việc học của tôi, lo lắng vấn đề lý lịch của tôi sẽ bị ảnh hưởng việc thi vào đại học. Tôi đoán chừng bác tôi cũng bị xem xét lý lịch khi có bố mẹ và các em di cư vào Nam. (Phải chăng bác tôi đã phải trung thành với chế độ để con cái đỡ cơ cực về lý lịch? Phải chăng đó là cách hy sinh đời bố, củng cố đời con?)

Mà đúng như vậy, tôi đã rớt kỳ thi vào Y Khoa sau khi tốt nghiệp trung học năm 76. Chị họ tôi cũng từng nói qua kinh nghiệm của chị: họ chỉ ưu tiên cho những thành phần “cơ bản” vào đại học. “Thành phần cơ bản là gì?” Tôi hỏi. Chị trả lời: Là thành phần ba đời ăn củ chuối. Tôi chẳng biết củ chuối ra sao và có lẽ tổ tiên ông bà tôi cũng chưa bao giờ phải ăn củ chuối.

Bố tôi đã đi “cải tạo”. Cô tôi đã di tản và tiệm cho thuê sách của cô đã đóng. Hơn mười một ngàn cuốn sách bị tịch thu vì bị xem là “văn hóa phẩm phản động và đồi trụy,” kể cả những sách “Học Làm Người” của Nguyễn Hiến Lê. Nhà chỉ còn tôi và ông bà nội. Cuộc sống vẫn bình thường mặc dù thiếu thốn hơn xưa. Không thể nào dễ dàng mua miếng thịt bó rau như trước. Lương thực, thực phẩm, vải vóc được phân phối theo đầu người. Ði lại cũng khó khăn hơn, phải xin phép mới được. Thẻ căn cước được thay bằng chứng minh nhân dân. Sổ gia đình được được thay bằng sổ hộ khẩu để dựa vào đó chính quyền mới sẽ kiểm soát chặt chẽ từng người, thậm chí cả cái dạ dày mỗi người. Ðúng là “bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới được phần may ô.” (5).

Chuyện đói no tôi không quan tâm lắm, gia đình vẫn còn đủ dự trữ để sinh sống dù kém hơn xưa. Ðiều tôi lo là mẹ tôi. Tờ báo mới, Sài Gòn Giải Phóng, đưa tin những người Việt ở Guam “đấu tranh đòi trở về nước.” Tôi lo nếu mẹ tôi về thì bà phải đi “kinh tế mới,” nghĩa là phải về vùng quê cày sâu cuốc bẫm. Rất may mẹ tôi rất sợ Cộng Sản và không về, không bao giờ về dẫu cho đến ngày bà qua đời trên đất Mỹ. Tôi không hình dung được cái sợ Cộng Sản của mẹ tôi như thế nào nhưng tôi chắc bà bị ám ảnh ghê gớm bởi ký ức các cuộc đấu tố khủng khiếp, long trời lở đất trên quê hương của bà.

Sau khi rớt đại học tôi hiểu thêm số phận của mình trong chế độ mới. Việc tiếp tục học trở nên diệu vợi.

Một người bạn hàng xóm rủ tôi đi xin việc ở một công ty chất đốt, thực chất là công ty bán than, than bùn được vo lại thành cục mà người ta gọi là than quả bàng.

Ðơn xin việc chẳng qua là tờ khai sơ yếu lý lịch với yêu cầu phải thành thực. Ngày tôi đi xin việc cũng là ngày tôi không bao giờ quên. Trong phòng thu đơn xin việc của tôi là một người đàn ông trung niên môi thâm, da sạm như sốt rét ngã nước trong chiếc áo xanh lá mạ của bộ đội. Mặt lạnh như tiền, ông ta xem đơn của tôi rồi gạt sang bên và bảo tôi đi về. Không biết vô tình hay cố ý, ông gạt khá mạnh và tờ đơn rơi xuống đất. Tôi cúi xuống nhặt và nhìn thẳng vào mắt ông ta không nói nhưng ngầm cho ông biết tôi có khả năng làm hơn cái công việc xúc than đem bán.

Bài học thứ hai trong đời tôi là sự phân biệt đối xử, con người đã được xem xét qua chủ nghĩa lý lịch chứ không phải năng lực. Ai đó đã nói: Loài người làm nên lịch sử, thì tôi cũng phải thêm vào: Con người cũng là nạn nhân của lịch sử. Không ai có thể chọn một gia đình hay một xã hội để sinh ra, thì cũng đừng dựa vào đó để đánh giá và phán xét.

Tôi không thể ăn không ngồi rỗi mãi. Con đường còn lại dành cho tôi là “thanh niên xung phong” mà vài người bạn cùng trường cũng chịu số phận như tôi. Ngày ra quân tại sân vận động Cộng Hòa với hơn chục ngàn thanh niên, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thanh niên xung phong (TNXP) là trường đại học lớn cho các em.” Tôi không biết đó có phải là đại học hay không, nhưng tôi biết nơi đó không có thầy cô và sách vở, không có bảng đen và phấn trắng, mà chỉ có cuốc xẻng, với hai bộ quần áo, đôi dép râu, và chiếc nón tai bèo. Tôi thầm nghĩ chẳng lẽ đời mình phải ăn củ chuối sao?

Ai đó đã làm hai câu thơ tả Thanh Niên Xung Phong “Ðôi dép râu giẫm nát đời son trẻ/ Nón tai bèo che khuất ánh Thái Dương.” Nhưng tôi vẫn lạc quan tin rằng bĩ vận sẽ qua đi. Còn trời, còn đất, còn non nước/ Có lẽ ta đâu mãi thế này (6).

Năm 78, chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ giữa Việt Nam và Khmer đỏ. Nhiều đơn vị TNXP được chuyển đến chiến trường để hỗ trợ cho bộ đội. Ðơn vị tôi cũng rục rịch di chuyển. Trong lao động có nhiều thanh niên xung phong đã chết hay bị thương vì cuốc phải bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Huống hồ nay chúng tôi sắp sửa bị ném vào nơi bom rơi đạn nổ, khó mà tránh khỏi nguy cơ thương tật hay chết một cách lãng nhách.

Tôi không muốn làm “dân đen bị nướng trên ngọn lửa hung tàn” hay “con đỏ bị vùi dưới hầm tai vạ” (7) nên đã tìm cách xuất ngũ. Ông bà tôi đã xin cho tôi về vì lý do già cả neo đơn. Tôi trở về Sài Gòn làm phụ kế toán của hợp tác xã tiêu thụ phường và tự ôn bài để thi lại Y khoa năm sau. Lần này tôi may mắn được vào đại học, có lẽ do sự nới rộng chính sách tuyển sinh. Ðúng ngày nhập học đầu tiên thì anh họ tôi, người bị kẹt lại với tôi trong tòa Ðại Sứ Mỹ, tới nhà rủ đi vượt biên với bác Th., anh rể của mẹ tôi, và hai người con trai của bác. Tôi không có ở nhà để theo họ. Tất cả đều mất tích ngoài biển. Bố tôi sau đó được thả. Ông quyết định vượt biên. Ông và tôi đi một lần thất bại. Lần thứ hai tôi không đi, còn bố tôi đi thì bị bắt, lại vào tù. Phải chăng số tôi có lẽ không chết, không bị tù, chỉ khó nhọc thôi? Bây giờ thì chỉ chờ mẹ tôi bảo lãnh đoàn tụ gia đình. Cuối cùng bố tôi và tôi đặt chân đến Mỹ cuối năm 1984 sau gần mười năm sống với chủ nghĩa xã hội và hiểu thực chất nó là gì.

***

Bốn mươi năm trôi qua như chớp mắt, từ cậu thiếu niên 17 tuổi ngày nào nay sắp sửa 60. Da đã đốm mồi, tóc đã nhuốm bạc và thưa. Vật đổi sao dời, số phận tôi thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Nhìn lại quãng đời đi qua, tôi cảm thấy mình còn may mắn hơn nhiều người. Không tật nguyền hay chết vì bom đạn, không bỏ xác ngoài biển khơi, không bị tù đày như nhiều người khác. Tôi cũng may mắn tiếp tục học xong đại học, có nghề có nghiệp, không phải tha phương cầu thực ở xứ người. Tôi cũng may mắn được người bạn đời đảm đang, quán xuyến giúp tôi có cuộc sống tươm tất như ngày hôm nay.

Nhưng điều mà tôi mãn nguyện nhất là thế hệ sau của tôi được sinh ra và lớn lên trong môi trường lành mạnh, trong một xã hội nhân bản và tử tế để có cơ hội làm người tử tế, sống ngay thẳng và thành thực với chính mình. Nó được đối xử công bằng, bình đẳng, và không phải đương đầu với những kẻ quyền thế vô lại, không phải xin xỏ sự ban ơn của chế độ toàn trị.

Nước Mỹ đã trở thành quê hương thứ hai của gia đình tôi. Ðất nước Việt Nam nơi tôi sinh ra và lớn lên vẫn còn đó, nhưng xã hội Việt Nam đã tha hóa rồi, nó đi đâu về đâu thì tôi không thể nào biết được.


Chú thích:

(1) Mượn và đổi lời nhạc “Tiễn Em” của Phạm Duy thành “tiễn anh.”

(2) Lời xưng tội “mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa.”

(3) Chuyện ông nội tôi kể lại: Sau khi Việt Minh bắt giết Phạm Quỳnh, họ còn muốn thủ tiêu một trí thức khác và giao cho ông nội tôi đi chặn bắt vị này. Nhưng ông nội tôi đã cố ý bê trễ để vị này đi thoát vì biết đó không những là nhà trí thức có nhân cách muốn khai phóng dân trí mà còn là bạn học đồng môn của bố mình. Ðó không ai khác hơn là cụ Tuần Phủ Hoàng Huân Trung, hội trưởng Hội Khai Trí Tiến Ðức, đồng sáng lập với Phạm Quỳnh. Có lẽ sau vụ đó ông nội tôi quyết định từ bỏ Việt Minh. Kháng chiến giành độc lập là điều tốt, nhưng sát hại các trí thức có tâm huyết là một việc ác nhân bất nghĩa. Hội Khai Trí Tiến Ðức đã bị xóa bỏ sau khi Việt Minh cướp chính quyền.

(4) Khoảng đầu năm 76 có một người trung niên tự nhận là người đồng hương đến thăm ông nội tôi mà ông tôi không biết được gốc gác người này như thế nào. Thực ra người này đến chỉ để hỏi dò ông tôi có tham gia gì cho chính quyền Sài Gòn trước đây hay không. Ông nội tôi từ khi rời bỏ kháng chiến đã không màng đến chính trị nữa và trở lại nghề dạy học rồi làm công chức cho Nha Học Chính đến ngày về hưu năm 1967.

(5) Lời thơ Kim Vân Kiều của Nguyễn Du “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao” đã được ai đó sửa lại.

(6) Mượn lời thơ “Than Nghèo” của Nguyễn Công Trứ.

(7) Mượn lời từ “Bình Ngô Ðại Cáo” của Nguyễn Trãi.

 

Quỳnh Nga st

Xem thêm...
Theo dõi RSS này