Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1325)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (27)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (130)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (263)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

Những nhân vật lịch sử có thật trong phim kiếm hiệp Kim Dung

 

Những nhân vật lịch sử có thật trong phim kiếm hiệp Kim Dung

 

Trong các tác phẩm của mình, Kim Dung đã không ít lần đưa vào nhiều nhân vật lịch sử, với các mức độ hư cấu khác nhau.



Đoàn Dự: Trong lịch sử, Đoàn Dự còn có tên là Đoàn Chính Nghiêm, là vua thứ 16 của Đại Lý, nối ngôi cha là Đoàn Chính Thuần. Ông cai trị đất nước từ năm 1108 đến 1147.



Trong Thiên long bát bộ, Đoàn Dự là con của thái tử tiền triều Đoàn Diên Khánh, nhờ cơ duyên nên học được Lục mạch thần kiếm, Bắc Minh thần công, Lăng ba vi bộ, kết nghĩa huynh đệ với Tiêu Phong và Hư Trúc.



Nếu chiếu theo đúng phả hệ của hoàng tộc Đại Lý, Đoàn Dự là ông nội của nhân vật Nam Đế (Đoàn Trí Hưng) trong Anh hùng xạ điêu.



Khưu Xử Cơ (1148 – 1227), đạo hiệu là Trường Xuân Tử, nguyên là đạo sĩ Toàn Chân giáo cuối triều Nam Tống, đệ tử của Vương Trùng Dương.

Năm 1219, ông được Thành Cát Tư Hãn mời đến đàm đạo, học hỏi phép tu luyện. Những ghi chép của ông về chuyến đi được tập hợp lại trong tác phẩm Trường Xuân Chân Nhân Tây du ký.

v

Trong tác phẩm Anh hùng xạ điêu, Khưu Xử Cơ được hư cấu thành một đạo sĩ giỏi võ nghệ trong Toàn chân thất tử. Ông dạy võ cho Dương Khang để tỉ thí với Quách Tĩnh. Thế nhưng y là kẻ phản bội, nhận giặc làm cha, phụ lòng dạy dỗ của ông.

Thành Cát Tư Hãn: Trong Anh hùng xạ điêu, Thành Cát Tư Hãn là người cưu mang mẹ con Lý Bình - Quách Tĩnh khi họ chạy trốn tới đại mạc Mông Cổ.
Quách Tĩnh từng lập nhiều công lao cho Thành Cát Tư Hãn. Chàng được Đại Hãn yêu quý và hứa gả con gái là Hoa Tranh. Thế nhưng cuối cùng Quách Tĩnh đã chọn Hoàng Dung làm người tri kỷ.

Khi Thành Cát Tư Hãn xâm lược Nam Tống, Quách Tĩnh đã tới thành Tương Dương chống lại quân Mông Cổ. Sau đó chàng và Hoàng Dung về đại mạc vĩnh biệt ông.



Hốt Tất Liệt: Trong lịch sử, Hốt Tất Liệt là đại hãn Mông Cổ, cháu nội Thành Cát Tư Hãn, đồng thời là người tiêu diệt Nam Tống, sáng lập ra triều Nguyên. Trong Thần điêu hiệp lữ, Hốt Tất Liệt được mô tả như một nhân vật phản diện đầy tham vọng, có âm mưu diệt trừ võ lâm Nam Tống.



Hốt Tất Liệt chiêu mộ các cao thủ như Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây để phá đại hội võ lâm do Quách Tĩnh chủ trì, sau đó còn bày kế hãm hại Quách Tĩnh nhưng không thành công.



Chu Nguyên Chương: Phần lớn tình tiết về hoàng đế đầu tiên của nhà Minh trong Ỷ thiên đồ long ký là hư cấu. Trong tiểu thuyết, ông là một giáo đồ Minh giáo, nhờ cầm quân thắng trận nên gây dựng thanh thế.



Ở cuối truyện, Chu Nguyên Chương lập mưu khiến Trương Vô Kỵ tưởng lầm là các tướng muốn làm phản, vì vậy chàng bỏ đi cùng Triệu Mẫn.



Chu Nguyên Chương sau đó khống chế Minh giáo, đánh bại người Mông Cổ. Trong một số phiên bản, Chu Nguyên Chương bị Trương Vô Kỵ ép phải thề không được hãm hại giáo chúng Minh giáo. Cái tên “nhà Minh” cũng là từ chữ “Minh giáo”.



Lý Tự Thành: Lý Tự Thành (1606-1645) nguyên là một lãnh tụ vĩ đại của khởi nghĩa nông dân thời Minh mạt. Ông lật đổ được nhà Minh nhưng sau đó bị người Mãn Châu đánh bại.



Lý Tự Thành được nhắc đến trong tới 3 bộ tiểu thuyết Kim Dung. Trong Bích huyết kiếm, ông được nhân vật chính Viên Thừa Chí phò trợ, nhưng cuối cùng chàng bỏ ra hải ngoại vì nhận ra Lý Tự Thành không phải là minh chủ.



Trong Lộc đỉnh ký, ông đi tu, vẫn còn sống tới đời Khang Hy và là cha của A Kha (vợ Vi Tiểu Bảo). Bộ Tuyết sơn phi hồ lại kể về mối thù hận trăm năm của bốn gia tộc nguyên là vệ sĩ của ông.



Ngô Tam Quế: Ngô Tam Quế nguyên là đại tướng nhà Minh, là kẻ mở cửa Sơn Hải Quan dẫn quân Thanh vào biên ải, sau làm tướng nhà Thanh ở Vân Nam. Về sau hắn lại làm phản nhà Thanh và bị Khang Hy diệt trừ.



Trong Lộc đỉnh ký, Ngô Tam Quế là nhân vật bị mọi người khinh ghét vì tội bán nước. Nguyên con trai hắn là Ngô Ứng Hùng có hôn ước với công chúa Kiến Ninh nhưng nàng bị Vi Tiểu Bảo đoạt mất.



Cũng trong tiểu thuyết, Ngô Tam Quế có một trận tỉ võ sinh tử với Lý Tự Thành khi cả hai đều đã ở tuổi xế chiều. Lý Tự Thành giành chiến thắng, và chỉ nhờ Trần Viên Viên cầu xin thì Ngô Tam Quế mới giữ được mạng.



Trần Viên Viên: Trần Viên Viên trong Lộc đỉnh ký là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bà là một đại mỹ nhân cuối thời Minh và bị cho là một trong những nguyên nhân khiến người Hán mất nước.



Trần Viên Viên nguyên là kỹ nữ, sau trở thành ái thiếp của Ngô Tam Quế. Khi Lý Tự Thành đánh chiếm kinh đô đã chiếm đoạt bà, khiến Ngô Tam Quế nổi giận dẫn quân Thanh vào biên ải.

Trong Lộc đỉnh ký, Trần Viên Viên đi tu ở ngoài thành Côn Minh. Dù đã ngoài tuổi 40, nhan sắc của bà vẫn khiến Vi Tiểu Bảo phải ngất ngây. Thậm chí hắn phải thừa nhận rằng bà còn tuyệt sắc hơn nhiều so với con gái A Kha (người đẹp nhất trong 7 cô vợ của Vi Tiểu Bảo).



Khang Hy: Hoàng đế nhà Thanh Khang Hy là một trong những nhân vật quan trọng trong Lộc đỉnh ký. Do cơ duyên mà Vi Tiểu Bảo được gặp gỡ và trở thành bạn thân của Khang Hy.

Khang Hy được mô tả là một hoàng đế trẻ tuổi nhưng thông minh, khôn ngoan. Hoàng đế từ lâu đã biết Vi Tiểu Bảo có quan hệ với Thiên Địa Hội nhưng vẫn ngầm trọng dụng anh ta.

Ở cuối truyện, Vi Tiểu Bảo nhận ra anh ta không thể dung hòa được mâu thuẫn giữa Thiên Địa Hội và triều đình nên đã bỏ về Giang Nam. Khang Hy nhiều lần cho tìm kiếm người bạn của mình nhưng không gặp.



Càn Long: Thư kiếm ân cừu lục là tác phẩm đầu tiên của Kim Dung. Nó cũng khắc họa hình ảnh một vua Càn Long khá khác biệt so với lịch sử.



Càn Long trong tiểu thuyết là người Hán, con của Trần Thế Quan bị Ung Chính đánh tráo làm con. Thật trớ trêu khi ông chính là anh ruột của Trần Gia Lạc, tổng đà chủ Hồng Hoa hội với lý tưởng phản Thanh phục Minh.



Sau khi biết thân thế của mình, Càn Long ước hẹn với Trần Gia Lạc việc phục Hán. Thế nhưng ông bội ước và giăng bẫy định tiêu diệt Hồng Hoa hội. Chỉ nhờ có Hương Hương công chúa liều chết báo tin nên Trần Gia Lạc mới thoát nạn.

 

Hoàng Anh Dũng st

Xem thêm...

THÁNG TƯ NGÀY ĐÓ.

 

THÁNG TƯ NGÀY ĐÓ.

di tàn 3

Tháng ba Đà Nẵng trong cơn sốt. Ngôi trường tôi dạy tạm thời cho học sinh nghỉ học.

Đoàn người tị nạn từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị chạy vào lũ lượt. Trường mở cửa để làm trại tiếp cư.

Căn nhà tôi ở đối diện với trường học,  rất gần nhà nên đó là lý do tôi nhất định xin về dạy tại đây. Dù bên Ty Giáo Dục Đà Nẵng đã bố trí tôi dạy tại trung tâm thành phố. Con nhỏ tên Khanh dạy chung trường với tôi đã khuyên tôi từ tháng trước:

- Em nói với riêng chị, Đà Nẵng sẽ mất về phía bên kia. Chị nên rút hết tiền nhà băng ra và tìm cách cho anh ở nhà đừng về đơn vị. Quân Giải phóng sắp về.

Tôi nhìn Khanh bằng đôi mắt nghi ngờ. Đã từng ở vùng xôi đậu, tôi hiểu hai bộ mặt của một con người. Tôi nói:

- Em làm việc cho phía bên kia hả?

Nó cười:

-vEm mà làm gì. Em nghe người ta nói.

Thế là Khanh rút tiền ngân hàng, dẫn nhóm tôi đi Chợ Cồn ăn uống một bữa thịnh soạn, mua tặng cho mỗi đứa một bộ áo dài đồng màu hoa và lơi dần không đi dạy. Khi đoàn người tị nạn về trường. Khanh chỉ có mặt tại trường vài lần để xem tình hình và nhắc tôi lần nữa:

- Chị đã làm như lời em dặn chưa? Hãy tin em. Em coi chị như chị ruột nên mới nói. Xem em nè.

Nói xong Khanh xòe hai bàn tay đã cắt móng sạch sẽ không sơn màu mè đỏ rực như lúc trước. Nó ôm tôi thật chặt. Cho địa chỉ nhà dặn khi nào cần tìm nó. Xong nó biến mất không tới trường.

Tôi lúc đó chạy qua chạy về phụ sắp xếp và giúp đỡ cho bà con trong nỗi lo sợ. Thế nhưng tôi nói ra thì mẹ chồng không tin, còn chồng thì ở mãi đơn vị với bao nhiêu tin xấu từ hậu cứ đưa về.

Đêm đêm pháo dội về ầm ĩ vì nhà tôi gần phi trường Phước Tường. Đêm nào cũng ôm con chạy xuống hầm trú ẩn. Tôi cũng như mọi người dân ở đây sống trong hồi hộp vô cùng.

di tan 1Tin từ radio loan về quân ta đã tháo chạy nhiều nơi và Đà Nẵng trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Thiên hạ đua nhau tháo chạy về bến tàu, nhà cửa bỏ trống, mọi người không còn màng làm ăn. Chợ thưa dần và dường những tên nằm vùng đã chính thức lộ mặt. Chồng tôi vẫn còn ở bộ chỉ huy trung đoàn. Mọi tin tức về anh chập chờn. Ai chạy mặc ai, chúng tôi chỉ ngồi nhà chờ tin anh.Đà Nẵng hổn loạn, bọn hôi của nhào vào những nhà chạy loạn lấy đồ, những chiếc xe đạp, xe Honda, xe ba gạc xuôi ngược với đủ thứ đồ dùng gia đình trên đó . Và Đà Nẵng đã xuất hiện những người mang trên tay những băng đỏ và tin xấu đưa về. Chồng tôi vẫn bặt tăm

Nhà tôi cũng là một trại tạm cư, ba gia đình bên chồng từ Quảng Trị vào lánh nạn. Gia đình Mụ Xếp với cô con gái thật đẹp. Gia đình anh Bi với hai vợ chồng và 5 đứa con nhỏ. Gia đình chú Đen, 2 vợ chồng với đứa con. Mẹ chồng tôi đã mua gạo và thức ăn khô dự trữ để phòng khi hữu sự. Gia đình mụ Xếp bán vải nên đồ đạc mụ đem gửi không phải ít. Vợ chồng anh Bi sáng sớm là bỏ đi ra ngoài, bầy cháu tôi phải lo chăm sóc.

Trong cơn hổn loạn đó, chồng tôi về với một đoàn lính tráng mặc mày xơ xác đầy mõi mệt và kinh sợ. Họ còn súng ống đầy đủ vì từ căn cứ về. Chồng tôi ở Trung tâm hành quân không liên lạc được với Đại đội cũ của mình, anh đích thân lên đồn để kéo họ về vì tình tình đã không bảo vệ được. Lịnh trên tuyên bố bỏ Đà Nẵng.

Tôi  lo làm cơm nước thức ăn cho một đại gia đình tối tăm mặt mũi. Ăn cơm xong, chồng tôi quyết định cùng anh em ra bến tàu về Sài gòn.

Tin về là ở bến tàu rất hổn loạn, quân nhân và dân tràn về không còn chỗ chen chân. Mọi người tranh nhau tìm một chỗ để thoát khỏi Đà Nẵng.  Nghe nói có nổ súng và có người chết.

Má chồng tôi lưỡng lự không muốn đi vì còn phần mộ tổ tiên ở quê. Mấy gia đình tạm cư nhà tôi họ ở lại chờ tình hình. Gia đình tôi nói lời từ biệt và gửi nhà lại cho họ. Mấy người lính đi thành một vòng  cung bảo vệ đưa gia đình ông thầy ra bến tàu. Đi được một quảng đường , hòa mình vào dòng người di tản má chồng tôi không đi tiếp. Dừng ngay giữa đường, bà nói:

- Thôi! Vợ chồng mi đi đi. Mạ không đi nữa, mạ về có chết ở cươi mạ cũng chịu. Còn sống thì mạ về quê lo phần mộ tổ tiên ông bà.

Là con một, mẹ anh ấy đã ở vậy nuôi con từ lúc chồng mất thật sớm, chồng tôi không thể làm đứa con bất hiếu. Anh quyết định ở lại, từ giã đồng đội, vợ chồng tôi rẽ đoàn người chạy đi, để  ngược lại về nhà. Đó là ngày 28/3/1975.

Về nhà được một chút, mừng vì nhà không bị người ngoài vào hôi của. Chưa biết phải làm gì trong tình thế hổn loạn, thì xe chở người bên kia, cờ xí rợp trời, reo la inh ỏi chạy ngang đường. Đà Nẵng đã thật sự thất thủ. Tới tối, những người lính lục đục trở về nhà tôi trong sự sợ hãi, mọi việc đã kết thúc. Tôi lôi đồ thường dân của chồng phân phát cho họ. Mấy anh em quăng  quân trang, súng, đạn xuống  cái hố kế ao rau muống sau nhà. Cuộc đời binh nghiệp chấm dứt hôm nay.

Chồng tôi cố thủ trong nhà để chăm mấy đứa cháu và con. Tôi đi chợ nấu ăn tất bật cả ngày. Những người lính cũng chỉ biết ngồi nhà nghe radio, thỉnh thoảng ra ngoài nghe ngóng. Không khí trong nhà trầm lại, nặng nề. Dường như có một bàn tay vô hình siết chặc cổ. Đau đớn, ngộp thở không thể vẫy vùng. Những người cùng quê ra khỏi nhà mỗi ngày, chôm đồ cũng có, tìm bà con cũng có và họ dọ dẫm tìm đường về lại Quảng Trị.
Cuối tháng ba, đầu tháng tư  những người bà con bên chồng tôi từng đi tập kết đã có mặt ở Đà Nẵng. Họ tìm cách liên lạc và nhắn tin khuyên má chồng tôi về lại quê . Những người tạm cư nhà tôi lần lượt về nhà họ ở Quảng Trị. Khi đi họ ít đồ. Khi về nhiều hơn. Chỉ có nhà tôi gạo cũng lưng, thức ăn cũng hết và tiền bạc cũng không còn là bao. Bây giờ đã đến lúc mạnh ai nấy bơi.

Có vài người lính gia đình ở miền Trung đã rời nhà tôi tìm cách về lại gia đình. Những người sống trong Nam vẫn ở lại nhà tôi chờ đợi. Họ là những người bạn, người em chân thành dễ mến. Họ cũng như tôi đang hướng về Sài Gòn với tất cả thương yêu và lo lắng.
Má chồng tôi quyết định về lại quê nhà để ổn định đời sống. Tôi tìm Khanh, nhỏ bạn dạy chung. Đến nhà mới phát hiện nhà Khanh  là ổ nằm vùng. Ba em ấy là thành ủy và  gia đình thuộc thành phần  cốt cán của chính quyền mới.

Khanh khuyên tôi đừng về quê, hãy ở lại Đà Nẵng vì ở thành phố chính sách cho "lính ngụy" sẽ khác hơn. Tôi không thể cưỡng lại quyết định của mẹ chồng và chồng nên đành phải ra đi. Khanh dẫn tôi đến Ty Giáo Dục Đà Nẵng. Giữa cơn hỗn loạn, giấy tờ văn thư tung tóe mà em vẫn xin cho tôi được giấy thuyên chuyển từ ty giáo dục Đà Nẵng về Quảng Trị. Đưa giấy tờ cho tôi. Khanh dặn:

- Em khó khăn lắm mới có được giấy này. Chị phải giữ kỹ, không thể xin cái thứ hai. Vì khi ổn định, thành phần cán bộ cốt cán sẽ thay đổi . Chị nhớ chỉ trao cho Ty Giáo Dục Quảng Trị, không đưa cho bất cứ ai ở cấp Xã, Huyện. Chị phải đi dạy vì chị là một nhà giáo giỏi.

Khanh ôm tôi lưu luyến và từ biệt. Còn tôi trong vòng tay ấm áp đó tôi chợt rùng mình. Thì ra bên cạnh mình là người của phía bên kia. Thật đáng sợ. Kể từ hôm đó. tôi không hề biết tông tích hay liên lạc với Khanh cho đến bây giờ.

 Đúng như Khanh đã nói, tiền gửi ngân hàng của gia đình tôi không lấy được một đồng. Nhưng với tính cả tin, mẹ chồng tôi vẫn nuôi hy vọng chính phủ mới sẽ trả lại cho mình, vì mình gửi ngân hàng nhà nước. Mình là dân, nhà nước nào, chính phủ nào cũng đối xử với dân như nhau mà thôi.
Căn nhà của tôi đã được tháo gỡ, đồ đạc chất một đống trước sân. Che vài tấm tôn làm chỗ ngủ ban đêm và trưa nắng. Tôi như người mộng du làm việc liền tay mà đầu óc không tỉnh táo. Tôi sẽ về đâu, gia đình tôi ra sao. Có còn tiếp tục đi dạy không? Dạy cái gì khi mình không còn chỗ đứng.
Mẹ chồng tôi mừng vui ra mặt. Bà chỉ có một thằng con trai. Bây giờ im tiếng súng không còn chiến tranh. Hòa bình về rồi, quê hương là vòng tay ấm áp ôm những người xa xứ về lại bên mồ mã tổ tiên, ông bà.  Sum họp với bà con, làng nước. Sửa sang lại nhà từ đường và vun quén lại mãnh đất bà từng sinh ra và lớn lên. Những ý nghĩ đó làm mẹ chồng tôi rộn rã mừng vui.

Những người bên kia tìm cách liên lạc về:

- Mụ trở về làng mền đi. Không răng mô. Chi chứ việc của hắn có bầy choa lo, vợ hắn đi dạy tại làng. Mụ chừ yên tâm khỏi lo chi súng đạn. Đảng sáng suốt lắm. Mụ sợ chi.

Chú chồng tôi từ quê cũng nhắn vào:

- Mụ về làng đi. Tui cho một sào lúa sắp chín ngoài đồng. Mụ về gặt mà ăn, chờ mùa sau.

Ôi! những tin thật tốt, những tấm lòng mở ra như như hoa như gấm xóa đi bao nhiêu lời khuyên chân tình của tôi. Tôi khuyên gia đình chồng tôi khoan về quê, cứ ở lại đây chờ tình hình. Người ta sao mình vậy. Xem sao đã rồi hãy tính. Nhưng tiếng nói của tôi rơi vào vô vọng. Khi mẹ chồng tôi buông một câu như đinh đóng cột với sự đồng tình củachồng tôi:

- Mi muốn ở lại thì ở. Tao và hắn sẽ đem con bé về quê. Mi mần răng thì cứ làm.

Tôi ở lại ư? Nhà đâu mà ở, tứ cố vô thân biết sống với ai. Còn con tôi, núm ruột yêu thương tôi không thể xa cách. Tôi ngậm ngùi buông xuôi số phận.

Mẹ chồng tôi cả tin nên không mua gạo đem về quê. Gạo nhà dự trữ đã  gần hết, Má chồng tôi chỉ cần gạo đổ vào các thùng đạn để chén, dĩa kiểu cho khỏi bể mà thôi. Khi tôi nói bà mua vài bao gạo đem về quê, bà lắc đầu cười rạng rỡ:

- Về làng mình ăn gạo mới con hè! Chi chớ lúa mới gặt về ,chà ra, nấu cơm ăn với ruốc và rau luộc thì ngon chi lạ. Ai lại chở củi về rừng.

 Một người lính miền Nam là đệ tử ruột của chồng tôi, theo chuyến xe tải má chồng tôi mướn, cùng chuyển đồ đạc gia đình tôi về quê. Em ở lại phụ dựng nhà xong mới từ giã tìm đường về với gia đình. Chúng tôi sau này ở trong Nam cũng cố gắng đi tìm nhưng không gặp lại. Chúng tôi đã biệt tin em tới bây giờ. 

Chúng tôi trình diện chính quyền địa phương. Ông Bí thư, ông Chủ Tịch đều là người làng. Cả hai nhìn chúng tôi như những con vật bị ghẻ lở. Họ soi mói nhìn tôi, một người phụ nữ ngụy quyền miền Nam có một đứa con lai Mỹ. Dù đứa con gái ấy tôi không sinh ra nhưng tiếp tay nuôi dưỡng tàn dư Đế quốc thì tội còn nặng hơn lỡ bước có con với Mỹ. Ông Chủ tịch xã giơ hàm răng vàng khè cáu thuốc lào cười vào mặt tôi:

- O có tội. Tội nặng lắm. Phải đi học tập, phải học tập thông suốt mới được.

Chồng tôi bị đòi phải đưa ra tất cả huy chương anh đã được. Phải bằng vàng, bằng đồng thực sự. Họ không tin những huy chương đó chỉ là tượng trưng. Giấy tờ chứng minh chúng bảo không hợp lệ. Lại một phen cãi vã sôi nổi của chồng tôi và nhóm cán bộ ngu ngốc mới từ miền Bắc vô. Chồng tôi bị ghi sổ bìa đen vì dám cãi tay đôi với cán bộ.

Các Chú và cậu chồng tôi phán những câu thật mới mẻ:

- Mi là đại úy, có tội với Đảng với đồng bào. Mi đi học tập cải tạo tư tưởng tốt sẽ được chính phủ khoan hồng về sum họp gia đình. Gia đình mi ở nhà có bầy choa lo.

Thế là chồng tôi khăn gói đi tù tận miền Bắc thâm sơn nước độc suốt hơn 8 năm trời.

Má chồng tôi bán nữ trang để mua gạo ăn ngay tuần đầu tiên dọn về. Bà bị rơi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Bà không còn cười sảng khoái như trước. Bà khóc tức tưởi và bệnh thật nặng. Trong bà niềm hối hận  thương con, thương dâu xen lẫn với sự cực khổ lo nuôi gia đình làm bà đau yếu triền miên.

Tôi bị trấn lột hết giấy tờ tùy thân kể cả giấy thuyên chuyển đi dạy.  Họ cho tôi đi học tập chính trị tại Đông Hà 3 tuần. Ở nhờ  nhà dân, mọi sự tự túc.  Con bé ở nhà khát sữa không có mẹ. Không có sữa Similac để bú, sữa hộp mua cũng dè sẻn. Bà nội cho uống nước cháu pha đường đỡ đói. Ở đây tôi lên cơn sốt vì sữa căng cứng không biết sao giải quyết. Cuối cùng phải cho con người dân bú thép dùm. Những buổi học chính trị nhàm chán, những bài giảng huấn vô lý và ngang ngược. Nuốt vào lòng bao bất mãn tôi chịu đựng để còn về với con. Một người trong khóa học hỏi một câu ngô nghê:

- Xin hỏi cán bộ.  Mặt trận giải phóng miền Nam đặt thủ đô ở nơi nào?

Thế là hôm sau anh ta khuất bóng. Nghe nói đã được lịnh thuyên chuyển đi học tập nơi khác rồi. 

Sau hơn 3 tuần đi học chính trị tại Đông Hà tôi chính thức gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Ông chủ tịch nói với tôi :

- Giấy tờ đi dạy của O tui giữ. O phải tập lao động chân tay. O lao động tốt thì chồng O sớm về. O ngoan cố, chồng O không được khoan hồng.

Cái mắc xích giữa người ở nhà và đi tù ràng rịt như vậy nên tôi đành chịu nhịn sang sông. Tôi đã biết thế nào là lao động vinh quang. Biết thế nào là chăn trâu, cắt cỏ, đạp nước ruộng sâu,  cấy lúa sâu bao nhiêu cho mỗi vụ mùa. Nhất là biết thế nào là đỉa đeo hay cầm vằng cắt lúa.

Tôi tham gia hợp tác xã, làm xã viên ăn cơm nhà đi lao động, lúa chỉ được chia khi vụ mùa kết thúc. Sau khi đóng thuế cho Xã, trả nợ phân, lúa giống, thuốc trừ sâu... còn lại mới chia cho xã viên. Lúa được chia theo công điểm lao động cộng lại suốt vụ mùa. Điểm  lao động được bình bầu sau mỗi ngày làm việc. Mà bình điểm lao động mới nhiêu khê. Sau một ngày làm việc, cả nhóm ngồi lại và mỗi người tự nhận xét mình làm hôm nay đáng bao nhiêu điểm. Mỗi xã viên nhận xét số điểm ấy có xứng đáng hay không. Đồng ý thông qua hết, thư ký mới ghi vào sổ. Bình tới bình lui, tranh nhau từng điểm một. Hôm nào về nhà cũng tối om. Tôi đi bờ ruộng không quen cứ bị sụp chân lọt xuống ruộng hoài.  Hai chân mốc cời, gót chân nứt nẻ. Ôi còn đâu cái thời điệu đàng mang guốc cao đứng trên bục giảng.

Tôi là dân chưa hề biết ruộng đồng nên công điểm có là bao.  Nhất là cái khoản bình điểm tôi thấy như tập cho người ta tranh chấp nhỏ mọn với nhau . Tôi không bao giờ tự cho điểm mình. Tôi nói tôi tới học làm, ai cho bao nhiêu cũng được. Do đó cuối mùa lúa tôi chỉ được 100 ký thóc và vài gánh rơm đem về chụm lửa.

Mẹ chồng tôi phải bán lần nữ trang để mua gạo và thức ăn. Bà bắt đầu buôn bán lại để có đồng ra đồng vô nuôi cả gia đình. Mọi sinh hoạt đều nhờ vào sự bươn chải của bà mẹ già tội nghiệp. Tôi không biết buôn bán, tôi không quen ai ở đây, lại phải đi lao động hợp tác xã nên thật tội nghiệp mẹ chồng tôi cực khổ nuôi con, nuôi dâu và nuôi cháu.

Một lần cả ba bà cháu đều bệnh. Mẹ chồng tôi đau buồn, sức yếu không ngồi dậy được, toàn thân đau nhức. Tôi đun rơm nấu ba nồi nước. Một nồi nước lá thuốc, một nồi nước chè xanh, một nồi nước trà tươi để bà cần thứ gì thì có. Sáng sớm lo cho mẹ chồng xong, tôi để con bé nằm bên nội, cõng con bé lớn đi trạm xá. Đoạn đường làng thật xa. Hai chân con như muốn quẹt dưới đất. Những cơn ho làm con bé như muốn ngất đi. Làn da trắng tái lại tội tình. Đến nơi khai bệnh để lấy vài viên xuyên tam liên đem về. Buổi chiều bồng con bé em đi trạm lần nữa cũng để lấy vài viên xuyên tam liên tán ra cho uống. Biết rằng thuốc cũng chẳng trị được gì, nhưng có sự chứng nhận của trạm, tôi mới được phép ở nhà chăm con. Nhìn căn nhà trống vắng, nhìn ba người nằm rũ riệt vì đau. Tôi muốn chết cho xong. Tôi ra giữa trời khấn tứ phương, tôi xin cho tôi một lối thoát, tôi xin cho mẹ chồng và hai đứa con tôi bình an. Tôi như muốn điên lên vì bao nghịch cảnh. Tôi như một người máy ra vườn hái đủ loại cây cỏ kể cả dây tơ hồng. Tôi chặt ra, phơi khô rồi rang thủy thổ. Tôi nấu nước cho cả ba người cùng uống. "Liều mạng". Tôi nhủ thầm. Thế mà mẹ chồng tôi ngồi dậy được, con bé lớn giảm ho, con bé em bớt sốt, những ban đỏ nổi lên rồi từ từ lặn. Một sự trả lời diệu kỳ từ ơn trên. Tôi cảm thấy mình vững tin hơn về sự sắp đặt an bài từ cõi vô hình. Tôi mạnh dạn đối diện thực tế. Tôi cứng cỏi hẳn lên. Tôi phải gánh vác cùng mẹ chồng thăm nuôi chồng nơi rừng sâu nước độc và lo nuôi con khôn lớn.

Tôi được tin Sài Gòn thất thủ vào một buổi chiều trên đường từ ruộng về nhà. Xa xa đã nghe loa của Xã vang vang báo tin toàn thắng.  Tôi khựng lại để nghe một lần nữa rồi lặng người đi. Vậy là toàn cõi VN đã là của Cộng Sản. Đành chấp nhận như một định mệnh đã an bài. Trong tôi nhen nhúm một niềm vui đoàn tụ song thân. Bên bờ sông Ô Lâu nhìn dòng nước êm đềm trôi tôi lại nghĩ đến Sài gòn trong cơn hổn loạn như Đà Nẵng trước đây. Nhưng tôi thật sự không thể tưởng tượng được sự hỗn loạn đó kinh khủng đến thế nào.

Chồng tôi vẫn biền biệt. Hình như anh đã được chuyển ra Bắc nhưng nơi nào chưa có tin về. Tôi ôm con vào trong lòng. Con bé ốm yếu xanh xao tội nghiệp. Mọi thứ đã chấm dứt hôm nay. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ được trở lại nghề dạy học. Tôi biết con đường phía trước sẽ đầy dẫy chông gai và tủi nhục. Tôi hoàn toàn không biết tin tức chính xác về Sài gòn. Chỉ biết tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và toàn cõi VN đã rơi vào tay Cộng Sản.

Con bé lớn tôi đi học. Tờ giấy khai sinh kèm theo hồ sơ đóng một cái mộc đỏ "Con ngụy quân, ngụy quyền" của nhà trường làm tôi chới với. Làm sao thoát khỏi mấy chữ đỏ này trong suốt cuộc đời. Con bé em lớn dần và bập bẹ nói. Mỗi khi đi ngang cỗng chào của xóm có hình ông Hồ và bảng "Độc lập, tự do, hạnh phúc" Cháu lại bập bẹ "Muôn năm, muôn năm". Trời ơi! những câu hô hào khẩu hiệu hàng ngày trên cái loa trước trụ sở Ủy Ban đã dạy con tôi hai chữ này. Mọi thứ nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ cho tôi thấy sự khác biệt của nền giáo dục tôi từng học và dạy nó khác bây giờ như thế nào.

Học tập  và giáo dục chính trị dường như thường xuyên cho mọi người dân. Buổi tối đi làm về chưa kịp ăn cơm đã nghe kẻng đội vang lên báo tin lên Ủy Ban học tập.  Có khi không kịp tắm rửa thay đồ, mọi người tay cầm con cúi (là rơm bện thật chặc dùng để đốt lên làm đuốc đi đêm) để đi họp. Trên chiếc bàn con, đèn dầu leo lét, cán bộ miền Bắc quần chẻn áo ngắn nói như vẹt. Vừa dai, vừa dài vừa vô lý kéo dài trong cái ngáp mệt mõi và ngủ gật của bà con xã viên. Tan buổi họp, từng đoàn người như những bóng ma với đóm lửa lập lòe đi vào từng xóm. Những hàng tre  trúc thấp thoáng ánh lửa như âm hồn phảng phất trở về.

Tháng tư năm 1975, người con gái Biên Hòa hoàn toàn đổi đời để sống cho chồng và cho con. Tôi quên hết quá khứ và dần dần giọng tôi cứng lại. Tôi nói bằng âm hưởng của người Quảng Trị, gương mặt sạm đen, chân mốc cời nứt nẻ. Tôi đã biết chăn trâu, ra lịnh cho trâu đi hay đứng lại. Tôi đã quen với đỉa và những câu nói tục tỉu của những người nông dân nói trây khi xuống đồng hay gặt lúa. Tôi đã biết cười mỉm khi nghe những bài lên lớp thần thoại Liên Sô vĩ đại hay sự trù dập của những người cầm quyền. Nhất là tôi đã biết thế nào là bão lụt và cái lạnh cắt da miền Trung để rèn luyện bản thân mình.

Bây giờ đã là 40 lần 30/4 lại về. Biết bao oan khiên đã xảy ra cho dân tộc VN. Bao nhiêu xác người bỏ thây trên biển đông vì hai chữ tự do, bao nhiêu mạng tù nhân CS chết ức oan trên núi rừng Việt Bắc, bao nhiêu người con gái đã bị làm nhục vì hải tặc Thái Lan. Những vết hằn chiến tranh thành sẹo, thành hậu chấn theo mỗi mùa tháng tư lại về. Những khúc phim cũ được quay lại ngay chính từ mỗi con người để khắc khoải không nguôi.

Tôi đang ở đây, một nước Mỹ xa lạ trở thành quê hương. Những người láng giềng nhiều chủng tộc khác nhau. Con tôi bây giờ đang là những người quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ. Màu cờ con tôi phục vụ không phải là màu cờ của Tổ Quốc VN.

Các cháu tôi đã được sinh ra và lớn lên với quốc tịch Mỹ, nói tiếng Mỹ và sống theo người Mỹ. 40 năm cho hơn nửa đời người, con bé 5 tháng tuổi trong ngày 30/4/75 bây giờ là một phụ nữ trung niên. Chồng tôi bây giờ là một người lính già bệnh hoạn. Thân xác và tâm thần sa sút nặng nề. Những ám ảnh những ngày tù tội đè nặng quá khứ vô phương vùng vẫy. Tôi sống trong sự tuyệt vọng về bệnh tình của chồng dù đây là một nước văn minh có điều kiện về y tế tiên tiến nhất trên thế giới

40 năm qua thời gian cũng làm phôi phai nhiều thứ. Tuổi đời chồng chất và tôi cũng hiểu được nghĩa của hai chữ vô thường.Cuộc sống mỗi người đều do nghiệp và duyên của mình tạo thành. Tôi chấp nhận những gì đã xảy ra cho mình, cho gia đình và cố gắng làm tốt bổn phận mình.

Tôi  cám ơn đất nước đã cưu mang gia đình tôi để chúng tôi có cuộc sống tự do. Các con và cháu tôi đến trường mà không bị cái lý lịch ngụy cản bước tương lai. Tôi đã có quá nhiều thứ trong cuộc sống nhờ bàn tay giúp đỡ của những người không hề quen biết. Ông Trời đã xếp đặt cho những kẻ thua cuộc lại có thể đứng thẳng lên hảnh diện vì lý tưởng của mình. Những chiếc áo lính, những cái nón, những bản nhạc... Tất cả những gì của Mỹ Ngụy bây giờ lại là những món đồ giá trị được yêu thích và đáng trân trọng. Những người con Ngụy thế hệ thứ hai đã làm rạng danh cha ông tham gia vào dòng chính của quốc gia tạm dung. Đã là những con người tài năng, giỏi giang đóng góp tài sức và trí tuệ cho đất nước cưu mang mình. Con tôi hãnh diện vì lý tưởng Quốc Gia của cha mình và dù lá cờ vàng không được tung bay tại quê hương VN nhưng nó lồng lộng rực rỡ mọi nơi trên thế giới.

Xin cám ơn những người đã tranh đấu cho người lính được đến Mỹ theo diện HO. Cám ơn những người đã dũng cảm đứng lên cất cao tiếng nói tự do của người Việt Nam. Cám ơn  anh, cám ơn chị, cám ơn mọi người đã cho chúng tôi đến đây để sống một cách lương thiện và đầy tình người.

Cám ơn với tất cả ngậm ngùi vì VN sau 40 năm vẫn còn là một quốc gia nghèo đói không có bình đẳng và tự do.

 

Nguyễn thị Thêm.

09/4/15

Kiều Hạnh st

Xem thêm...

Quốc hội Canada thông qua Luật '30/4'

Quốc hội Canada thông qua Luật '30/4'

Luật sư Vũ Đức Khanh

Thượng nghị sĩ gốc Việt ông Ngô Thanh Hải (bên phải) là người hỗ trợ việc trình đạo luật '30/4'.

Cuối cùng điều chờ đợi 40 năm nay đã tới như câu nói kinh điển rằng “Hãy trả cho César những gì của César”.

Dự luật S-219 “Ngày Hành trình đến Tự do” do Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải bảo trợ đã được Quốc hội Canada chính thức biểu quyết thông qua chiều ngày 22/4/2015 lúc 19 giờ 15 phút giờ Ottawa, Canada, tức 7 giờ 15 phút sáng ngày 23/4/2015 giờ Hà Nội, kết thúc quy trình lập pháp kể từ ngày 10/4/2014.

Đạo luật này chính thức công nhận ngày 30 tháng 4 là ngày quốc lễ Canada để tưởng niệm những nạn nhân cộng sản Việt Nam đã liều chết vượt biên ra đi tìm tự do và cũng để cảm ơn chính phủ và nhân dân Canada đã rộng lượng dang rộng vòng tay cưu mang họ gần 40 năm qua.

Điều 2 quy định rằng “Khắp đất nước Canada, hàng năm và mỗi năm, ngày thứ Ba mươi của tháng Tư (30/4) sẽ được biết đến như là “Ngày Hành trình đến Tự do”.

Đạo luật này theo một số Thương nghị sĩ và Dân biểu Canada rằng nó cũng ghi nhận sự trỗi dậy mãnh liệt và những đóng góp to lớn của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Canada.

Một đạo luật không những làm ấm lòng hàng trăm ngàn người Việt tại Canada mà còn là một niềm an ủi, động viên lớn lao cho cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản trên toàn thế giới.

Những mất mát đau thương như đang được chia sẻ và làm lành lại hầu tạo thêm niềm tin cho họ vào công cuộc đấu tranh cùng đồng bào quốc nội cho một tương lai Việt Nam mới, tự do, dân chủ và thịnh vượng.

Một đạo luật dù trong toàn bộ quá trình lập pháp còn có những dư luận trái chiều nhưng là một đạo luật nhận được sự ủng hộ rộng rãi của hầu hết tất cả các Dân biểu và Thượng nghị sĩ Canada.

Đạo luật “Ngày Hành trình đến Tự do” một lần nữa để nhắc nhở mọi người chúng ta nên có cái nhìn trung thực và khách quan về lịch sử. Chúng ta có thể không cùng quan điểm, thậm chí chúng ta có thể đã từng là những đối thủ không đội trời chung với nhau nhưng chúng ta không thể chỉ viết lịch sử cho riêng những người thắng cuộc.

Lịch sử phải luôn công bằng và chỉ nhìn nhận những diễn biến trung thực. Việc đánh giá phê phán lịch sử nên cần hết sức cẩn trọng hầu giúp những thế hệ mai sau tránh đi những cái nhìn lệch lạc, một chiều.

Ngày hòa hợp, hòa giải

Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải (trái) trong lần tiếp đoàn quan chức Việt Namtới Quốc hội Canada.

Ngày 30 tháng 4, ngày hội hòa giải, hòa hợp

Đối với nhiều đảng viên đảng cầm quyền thì “Nhiều người Canada không biết những câu chuyện của thuyền nhân Việt Nam. Ngày này, 30 tháng 4, là ngày [chế độ] Sài Gòn sụp đổ, ngày mà cuộc chạy [tỵ nạn] của người dân miền Nam Việt Nam bắt đầu, ngày mà người Canada sẽ tìm hiểu những gì những người này sẽ làm và đến mức độ nào để họ thoát khỏi những cuộc đàn áp, để nắm lấy sự tự do cho bản thân và cho gia đình của họ”, ông Mark Adler, người đồng bảo trợ dự luật trên cho biết.

Và ông cũng muốn người Canada đừng bao giờ quên rằng đã có hàng triệu Việt Nam sau ngày này đã “chạy trốn sự đàn áp của cộng sản, chạy trốn tù đày, chạy trốn trong rất nhiều trường hợp, cái chết”. Và còn có rất nhiều người khác đã chết mà điển hình trong đó có trên 250.000 thuyền nhân đã vùi sâu vĩnh viễn thân xác họ dưới lòng đại dương bao la.

Ông Dân biểu Mai Hoàng, một chính trị gia Canada gốc Việt trẻ tuyên bố như sau: “Để được rõ ràng, tôi sẽ ủng hộ dự luật. Tôi đã bỏ phiếu thuận ở vòng hai và tôi sẽ bỏ phiếu cho thuận ở vòng ba (cuối cùng). Như tôi đã nói, đối với tôi đó là một cách để tưởng nhớ cội nguồn, nhớ nguồn gốc của tôi, để ghi nhớ nơi quê hương của cha mẹ tôi, và nhớ những người từ Việt Nam. Đó là một cách để tôi hiểu vì sao Canada nơi tôi đang sống là một xứ sở tuyệt vời, nơi mà họ thực sự mở cửa và nơi mà người dân có nguồn gốc khác nhau đều được chào đón.”

Vì thế ngày 30 tháng 4 phải là ngày hội hòa giải, hòa hợp hơn là một ngày chia rẽ, hơn thua, hận thù. Canada không phải là một quốc gia như thế; Canadađược thế giới biết như một sứ giả thiện chí của hòa bình; Canada kêu gọi tình người, kêu gọi thương yêu, xây đắp tương lai tươi sáng.

Đó cũng là ý nghĩa trọn vẹn của hai chữ “Tự do”. Chúng ta sẽ không thể có tự do, nếu như chúng ta không biết tha thứ vì chỉ có tha thứ chúng ta mới vứt bỏ được ưu phiền mà an nhiên tự tại. Chúng ta sẽ được tự do khi tất cả các sận si, thù hận đã được hóa giải, nằm yên trong quá khứ.

Cuối cùng, ngày 30/4 đã, đang và sẽ tiếp tục là một ngày trọng đại trong lịch sử Việt Nam, một ngày mà bất cứ ai dù buồn hay vui đều có cơ hội bình đẳng để hồi tưởng, để suy ngẫm về những bước thăng trầm của đất nước, để rút tỉa những bài học đớn đau của quá khứ, để từ đó có thể vượt qua được những hố sâu ngăn cách, những vũng lầy thù hận, tiến đến bên nhau trong tình tự dân tộc, cùng nhau tiến về phía trước vì tiền đồ sáng lạng của Việt Nam.

30 tháng 4: Hãy cùng mơ ước một giấc mơ hoà giải, hoà hợp dân tộc. Một ngày không chỉ riêng người thắng cuộc hỉ hả hay một ngày buồn đau uất hận cho người thua cuộc mà là một ngày của toàn dân Việt Nam hướng đến tương lai một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng.

Cảm ơn Canada đã cho tôi hồi sinh trong giờ tuyệt vọng. Một 30 tháng 4 tràn đầy sức sống, niềm tin và hy vọng.

Hồng Anh st

Xem thêm...

Bốn Niềm Vui Lớn Nhất Trong Cuộc Đời

Bốn Niềm Vui Lớn Nhất Trong Cuộc Đời

“Có một niềm vui chân chính trong cuộc sống, đó là làm cho người mà ta yêu có được niềm vui”

Có bao giờ bạn tự hỏi: niềm vui nào lớn nhất trong đời? Thành công, giàu sang hay có được điều mình mong muốn. Tất cả chúng ta đều cố gắng tìm kiếm cho mình những niềm vui trong cuộc sống. Nhưng khi có được thứ này chúng ta lại muốn có được thứ khác. Quá trình đuổi bắt cứ kéo dài suốt năm này qua năm khác, chúng ta không dễ gì nhận ra, niềm vui lớn nhất trong đời gần gũi và thân thương biết chừng nào.

Ngay từ lúc mới sinh ra, được sống trong vòng tay của cha mẹ chúng ta hạnh phúc và cảm thấy bình yên. Mỗi ngày là một ngày vui, lúc đó, cha mẹ tuyệt vời nhất. Thế rồi, lớn lên, chúng ta muốn thoát khỏi sự kiềm kẹp của mẹ cha. Muốn tự do bay lượn, chê đấng sinh thành giờ đây lạc hậu, không có những suy nghĩ tân tiến, hợp thời. Để rồi xa cách cha mẹ hơn, nhưng bạn ơi, niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là:

1.Được sống cùng cha mẹ 

Trải qua những năm tháng tuổi trẻ bồng bột và ích kỷ, chúng ta trở về với những toan tính của cuộc đời. Không còn tự do bay nhảy, không còn những suy nghĩ ấu trĩ và ngông cuồng. Giờ đây chúng ta có cả một gia đình cần gánh vác. Lúc ấy mới chợt nhận ra rằng, được sống cùng cha mẹ là một niềm hạnh phúc to lớn.

Không chỉ dựa dẫm vào đôi vai gầy yếu của mẹ cha mỗi khi bước chân ta trên đường đời rệu rã, không chỉ được ăn bát cơm mẹ nấu, được cùng cha đàm đạo mỗi lúc chiều tà. Quãng thời gian đó yên bình và hạnh phúc biết bao. Không phải chỉ có cười thật to, hét thật lớn thì mới được gọi là niềm vui. Đôi lúc niềm vui bình dị và nhẹ nhàng biết bao, nhưng nó sẽ ngấm sâu vào ký ức của ta, an ủi vỗ về ta mỗi khi mệt mỏi và đau đớn trong cuộc đời.

2.Được làm công việc mình thích

Niềm vui này sẽ chẳng có niềm vui nào có thể sánh được. Đó là cảm giác thỏa mãn bởi vì chúng ta đã làm được điều mà mình thích. Không ít người không làm được việc mình thích, không dám theo đuổi ước mơ và hoài bão của bản thân. Chán nản, thất vọng để rồi họ nhận ra cuộc sống của mình thật nhàm chán, thật buồn bã.

Chỉ khi chúng ta được làm công việc mình thích, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui đến từ những điều bình dị, những điều tưởng chừng như vốn có của cuộc sống nhưng không phải lúc nào cũng cảm nhận được. Thế nên, nếu bạn cho rằng công việc chỉ là một công cụ để nuôi sống bản thân thì bạn hãy suy nghĩ lại đi nhé. Bởi vì chỉ khi yêu thích công việc của mình chúng ta mới làm tốt nó được. Được làm công việc mình thích là niềm vui lớn nhất trong đời.

3.Lấy được người mình yêu

Bất kỳ ai trong chúng ta đều muốn có được hạnh phúc trong cuộc sống vì vậy chúng ta mới trao đi tình yêu của mình. Có người lấy được người mình yêu, tin tưởng để làm chỗ dựa suốt đời cho mình, có người lại quyết định kết hôn trong lúc nóng vội. Rất nhiều người đã nếm quả đắng vì vội vàng trong tình yêu.

Một trong những niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là lấy được người mình yêu và yêu mình. Khi sống cùng nhau, những bất đồng, những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, nếu không có một tình yêu lớn dành cho nhau, ít khi chúng ta có thể tha thứ và chấp nhận lẫn nhau được. Lấy được người mình yêu là niềm vui lớn nhất trong đời. Lớn hơn rất nhiều những niềm vui do tình cảm tạo ra trước đó. Thế nên, hãy trân trọng cuộc sống gia đình và trân trọng người bạn đã lựa chọn.

4.Sống mỗi ngày trọn vẹn

Đây là niềm vui rất lớn bởi hàng ngày chúng ta đều cố gắng tìm kiếm nó nhưng ít người nắm giữ được nó. Có người lo lắng cho những việc không đâu để rồi cáu gắt với người thân và con cái của mình, làm mất đi một ngày đẹp đẽ. Bạn ơi, hãy đối diện với cuộc sống mỗi ngày, dẫu khó chịu bao nhiêu cũng đừng đổ lỗi lên đầu người khác. Hãy tìm cách chế ngự sự giận dữ của mình và bao dung với người bên cạnh, để mỗi ngày với bạn trọn vẹn hơn. Có thể bạn không nhận ra, nhưng mỗi sớm mai thức dậy, tâm trạng bạn thoải mái bạn sẽ có một ngày ngập tràn niềm vui.

Vậy nên, hãy mỉm cười khi ánh bình minh chiếu qua cửa sổ, bởi vì ít nhất thì chúng ta vẫn còn một ngày để làm những điều mình muốn. Hãy sống trọn vẹn từng ngày một với công việc, gia đình, con cái và những niềm đam mê nho nhỏ của bản thân. Bạn nhé!

Kim Quy st

 

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này