Thế giới quanh ta

Thế giới quanh ta (626)

“Nước Mắt Trước Cơn Mưa”

Nước Mắt Trước Cơn Mưa | Tương Tri
 
 

  Chuyến Bay Cuối Cùng Từ Đà Nẵng  

- Larry Engelmann - Bản Dịch Nguyễn Bác Trạc

Ngày 29/3/1975 đáng lẽ nhân viên khách sạn Sài Gòn phải đánh thức tôi dậy lúc 5 giờ sáng. Tôi là tiếp viên trưởng của một chuyến bay khứ hồi ra Đà Nẵng. Nhưng 5 giờ sáng hôm ấy không có ai đánh thức tôi dậy. Khoảng 6 giờ sáng mới có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: “Chị xuống ngay phòng đợi khách sạn trong vòng 5 phút.” Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hãng tin CBS cũng đã có mặt. Tôi bảo Bruce: “Bọn này phải ra Đà Nẵng”. Anh ta nói: ’’Có tin thành phố này rơi vào tay Bắc Việt rồi”. Tôi nói: “Nếu thành phố này đã mất thì chúng tôi đâu có đi”. Bruce yêu cầu được đi theo chuyến bay. Ông Daly bảo: “Muốn đi thì đi. Có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất trong vòng một giờ đồng hồ nữa.”

 

Bruce tập họp Mike Marriotte, chuyên viên quay phim và Mai Văn Đức, chuyên viên âm thanh, rồi chở họ ra phi trường. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Là tiếp viên trưởng, tôi được thông báo là sẽ có một hay hai tiếp viên người Việt đi thông dịch, sẽ có binh sĩ bảo vệ để đương đầu với đám đông. Hôm trước, chúng tôi đã gặp khó khăn ở Đà Nẵng, và chúng tôi cũng sẽ phải mang theo nước ngọt, nước cam, bánh mì săng-uých cho hành khách.

Vừa vào phi cơ, tôi nói với Val và Atsako Okuka, một nữ tiếp viên khác: “Các bạn hãy xem xét ngay mọi thứ.” Chúng tôi thấy không có đồ ăn thức uống. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết một cái gì bất thường đang xẩy ra… Không nước ngọt, không nước cam, không bánh mì, không đồ ăn thức uống trên phi cơ. Cũng không có tiếp viên người Việt, cũng chẳng có binh sĩ bảo vệ nào hết.

Chúng tôi thảo luận xem có nên bay ra hay không. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đã lên phi cơ rồi. Dunning và toán làm tin CBS cũng vậy. Hai nhân viên cơ quan USAID leo lên. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi, không cần gì đến binh sĩ bảo vệ.

Lúc đó 8 giờ sáng, quá muộn so với giờ ấn định máy bay cất cánh. Ông Daly quyết định cứ đi Đà Nẵng để đón một số người tỵ nạn gồm đàn bà và trẻ em mà khỏi cần đến binh lính hộ tống hay thông dịch viên.

Chuyến bay ra khá êm. Chúng tôi mang theo một nhà báo người Anh và một người nữa của hãng tin UPI. Trong chuyến bay chúng tôi chuyện trò thân mật với nhau.

Phi cơ bắt đầu đổi cao độ để hạ xuống Đà Nẵng. Theo kế hoạch, sau chúng tôi 20 phút sẽ có một chuyến World Airway 727 khác do Don McDaniel lái. Sau anh ta, lại một chuyến 727 nữa do Dave Wanio điều khiển. Chúng tôi dự tính sẽ đậu từ 10 đến 15 phút để lấy khách rồi cất cánh, để chuyến thứ hai, rồi thứ ba đáp xuống. Với cách ấy chúng tôi có thể đem đi được 3 chuyến trong vòng dưới một tiếng đồng hồ.

Nhưng khi hạ cánh có một cái gì rất lạ lùng.

Không hề thấy một bóng người.

Không một ai, cả phi trường hoàn toàn hoang vắng. Đột nhiên trong lúc phi cơ đang “chạy taxi” trên đường vào bến, đoàn người chợt xuất hiện. Họ chạy ào ra từ những nhà chứa máy bay. Hàng ngàn con người – tôi nói đúng nghĩa là hàng ngàn con người đua nhau chạy đến chúng tôi – Họ chạy bộ, chạy xe gắn máy, chạy xe thùng, xe Jeep, xe hơi, xe đạp… Họ chạy đến phía chúng tôi bằng bất cứ phương tiện nào họ kiếm được.

Chúng tôi đã có một kế hoạch là ông Daly và Joe Hrezo, trưởng trạm của hãng World Airways sẽ ra khỏi phi cơ. Họ sẽ lo việc sắp hàng hành khách ở lối vào cầu thang phía sau. Tôi sẽ đứng ở phía trước phi cơ, Atsaco ở giữa còn Val đứng ở khoảng sau.

Chúng tôi cho phi cơ chậm lại. Lúc ấy tôi đang đứng trong phòng lái nhìn ra cửa sổ trước, chợt thấy có điều kỳ lạ. Một nhóm người lái chiếc xe vận tải nhỏ đuổi bên cạnh chiếc tàu bay. Một người đàn ông nhảy khỏi xe, chạy đến trước chúng tôi. Tôi nhìn về phía anh ta, lúc ấy chúng tôi đang đi chậm, anh ta rút một khẩu súng lục, bắn vào chúng tôi.

Đột nhiên tôi có cái cảm giác kinh dị y như đang đứng giữa khung cảnh của một phim cao bồi. Tôi đã nghĩ rằng: “Tại sao họ bắn chúng tôi? Chúng tôi là những người bạn tốt!”

Chúng tôi cho tàu chạy khỏi người đàn ông có súng và đi chậm lại ở phía xa. Bây giờ tôi bắt đầu chờ người khách đầu tiên lên phi cơ. Chúng tôi dự tính sẽ cho họ ngồi vào ghế, bắt đầu từ những hàng trước, lần lượt đến phía sau, sẽ sắp đặt họ trong vòng trật tự.

Rồi những người lính bắt đầu lên.

Họ chạy xồng xộc với cặp mắt man dại. Chừng chín người lính đã lên, tôi xếp họ ngồi vào ghế. Rồi người thứ mười lên, nhưng hắn không chịu ngồi. Hắn bị kích động, cứ chạy lên chạy xuống la lớn bằng tiếng Anh: “Bay đi! Bay đi! Bay đi! Chúng nó sắp pháo kích vào phi trường kìa!” Hắn cứ la hét như thế mãi. Tôi nắm lấy hắn, tôi cũng hét lên: “Im mồm, tôi bảo ông ngồi đâu thì ông ngồi xuống đó.” Tôi đẩy hắn xuống ghế. 

 
Nước Mắt Trước Cơn Mưa :Chuyến Bay Cuối Cùng Từ Đà Nẵng | OVV

Nhưng có điều lạ: rất ít người lên phi cơ. Vì vậy tôi nghĩ cần phải ra sau xem có chuyện gì… Tôi thấy Daly dưới chân cầu thang đang bị dằn xé. Áo ông rách vụn. Joe Hrezo biến đâu mất. Val đang cố giúp Daly lôi người lên cầu thang trong lúc tàu bay cứ tiếp tục chạy trên phi đạo. Còn dưới chân thang, hàng trăm người tuyệt vọng, điên cuồng, la hét cố bấu víu lấy Val và Daly. Đoàn người tiến đến không ngừng. Họ từ khắp phía, chạy đến cầu thang không ngớt. Tôi leo xuống. Daly ở dưới thang, ông cố lập trật tự bằng khẩu súng lục vung lên trời. Val cố giúp những người đang leo qua cạnh cầu thang. Một gia đình 5 người chạy đến phía tôi cầu cứu. Đó là bà mẹ, ông bố, hai đứa con nhỏ, một trẻ sơ sinh còn ẵm trên tay mẹ. Tôi có thể nhìn rõ nét sợ hãi trên khuôn mặt khi họ cố chạy đến phía tôi. Tôi quay lại định nắm tay người mẹ kéo lên. Trước khi tôi kịp nắm tay bà, một người đàn ông đứng sau đã nổ súng vào 5 người này. Họ ngã gục cả xuống, đám đông đạp ngay lên xác họ. Cái hình ảnh cuối mà tôi thấy là họ biến mất dưới chân đám đông. Chỉ vài tiếng nổ lớn, họ biến mất, tất cả những người ấy. Còn gã đàn ông vừa bắn xong đã đạp ngay lên thân họ để leo tới cầu thang. Hắn đè lên mọi người, chạy vào lòng phi cơ. Tất cả mọi thứ quá sức hỗn loạn điên cuồng. Tôi còn nhớ vào giây phút điên dại ấy, tôi nghĩ: “Chốc nữa sẽ tính chuyện này”, tôi tiếp tục kéo người lên phi cơ. Chợt cảm thấy một người đàn bà đang níu tôi từ phía hông cầu thang, bà nắm cánh tay tôi, cố lọt lên bực thang. Tôi muốn giúp bà ta nhưng cũng sợ bị rơi tuột khỏi thành cầu. Tôi bèn quay lại nắm cánh tay người đàn bà, kéo qua thành cầu. Nhưng một người đàn ông ở phía sau đã níu lấy, giựt bà khỏi tay tôi. Khi bà rơi xuống, người đàn ông kia đạp ngay lên lưng, lên đầu người đàn bà để leo lên thang. Hắn dùng người đàn bà như một hòn đá kê. Daly nhìn thấy chuyện xảy ra. Liền khi gã đàn ông tung được chân qua thành cầu, Daly nắm khẩu súng đập một cú vào đầu gã. Tôi nhớ lúc ấy đột nhiên tôi thấy vòi máu vọt ra, gã đàn ông rơi xuống, người ta đạp lên hắn. Tôi nhớ tôi đã nghĩ: “Đáng kiếp”. Gã đàn ông này biến mất dưới bàn chân dày xéo của đám đông.

 

Lúc ấy người đổ ùn ùn vào phi cơ, tôi chạy trở vào xem Atsatko có xếp nổi chỗ ngồi không. Cô nắm lấy tay tôi, bảo: “Trưởng tàu Ken Healy đang cần chị”. Tôi đến phòng lái gõ cửa. Cửa mở, Trưởng tàu Healy bảo: “Joe Hrezo đã lạc khỏi phi cơ. Khi nào hắn trở lại được cho biết.” Tôi đáp: “OK.” Chuyện xảy ra là Joe và thông tín viên người Anh đã bị đám đông kéo tuột khỏi tàu, không trở vào được nữa. Chúng tôi lạc mất cả hai người. Joe tự chạy tới đài kiểm soát không lưu, người kiểm soát viên cho anh ta vào. Sau đó Joe liên lạc được với máy bay. Ken Healy cho biết chúng tôi sẽ “chạy taxi” đi rà trên đường vào bãi và yêu cầu Joe phóng ra khi máy bay tới gần. Chúng tôi sẽ không dừng một giây nào. Liền khi Joe lọt vào phi cơ, chúng tôi sẽ cất cánh. Trưởng tàu Ken Healy bảo: “Khi thấy chắc chắn Joe vào phi cơ rồi, gõ lên cánh cửa cho tôi hay”. Tôi đi sau, bảo Val: ”Val, canh chừng cầu thang, thấy Joe vào thì giơ tay, tôi sẽ ra hiệu cho Ken biết.”

Trong khi đợi phi cơ chạy qua đài kiểm soát, người ta tiếp tục ào tới. Chúng tôi ấn họ xuống, 5, 6 người một ghế. Trong lúc làm việc, tôi nhớ là đã tự hỏi: “Thế còn đàn bà, trẻ con đâu hết?” Hóa ra, mọi hành khách đều là binh sĩ. Sau đó, tôi đếm chỉ có 11 người đàn bà và trẻ con. Tất cả chỉ có thế! Còn lại đều là binh sĩ…

Mọi người ngồi trên ghế với những bộ mặt căng thẳng. Gã khùng vẫn tiếp tục la lối: “Bay đi! Bay đi! Bay đi!”

Khi tàu đến gần đài kiểm soát. Daly vẫn còn đâu đó dưới cầu thang để kéo người vào. Tàu chạy rà qua đài kiểm soát được một lát, Val quay người lại, giơ tay lên. Tôi gõ vào cửa phòng lái. Phi cơ bắt đầu rồ máy. Chúng tôi gia tăng vận tốc. Gã khùng lúc trước la lối đòi bay, bây giờ sợ hãi thét lên: “Ối! Ối! Tàu bay đang cất cánh trên cỏ.”

Thật ra, chúng tôi chạy để cất cánh từ phi đạo, lối vào bãi đậu, và Ken đã rồ máy để cảnh cáo người ta tránh ra, nếu không chúng tôi sẽ cán qua mà chạy.

Phi cơ leo lên cỏ vì đã vào cuối đường bến, không còn cách nào trở lại được. Chúng tôi cứ tăng tốc lực bay vượt lên, do đó đã đụng phải một chiếc xe và một cọc hàng rào gây hư hỏng cho cánh phi cơ. Nhưng hư hỏng trầm trọng nhất là do đạn và lựu đạn ném vào một bên cánh. Ở trong phi cơ, chúng tôi không thấy được hư hại, không rõ tình trạng thế nào. Nhưng trưởng tàu Ken Healy biết rất rõ.

Dầu thế, chúng tôi vẫn phải bay lên. Phải thoát khỏi Đà Nẵng. Chưa một giây phút nào tôi nghĩ là không thể thoát. Không ai có thì giờ để nghĩ những điều như vậy giữa cơn rối loạn. Sau này tôi khám phá được suýt chút nữa chúng tôi đã không thoát. Đáng lẽ chúng tôi đã mất mạng vì các hư hỏng của phi cơ. Với 358 con người ở lòng tàu, còn lại 60 người khác trong khoang chở hàng, có cả người mắc trên bánh xe. Chiếc máy bay này thật sự chỉ dùng để chở có 133 hành khách thôi.

 

Sau này Ken Healy gởi cho hãng Boeing những con số thống kê liên hệ đến chuyến bay. Người ta cho chạy điện toán rồi bảo chúng tôi: Theo cách tính của họ, phi cơ chẳng thể nào cất cánh. Vậy mà chúng tôi đã cất cánh được. Sau Ken cũng gởi cho Boeing một điện tín khác, nói: “Quý ông quả đã chế được một cái tàu bay tốt hết xảy.”

Sau khi cất cánh, tôi bắt đầu đếm hành khách. Tôi chú ý một người ngồi ghế trước, mặt tái xanh, bị thương nặng, ruột đổ lòng thòng. Tôi dùng tay nhét đại ruột vào, giật cái khăn trên cổ một người nào đó quấn quanh bụng ông ta lại. Tôi kéo thùng cứu thương xuống. Thuốc men mất đâu cả từ Sài Gòn. Chúng tôi không có bất cứ một vật dụng y khoa nào trên tàu. Trống trơn. Không thuốc men bông băng gì. Sau khi tạm ổn thỏa với người đàn ông ghế trước, tôi nhìn ra lối đi, thấy một người khác đang bò lết đến bên tôi. Tôi nhận ra gã, đầu bê bết máu. Máu vấy đầy mặt. Chính là gã đàn ông đã kéo người đàn bà ra khỏi tay tôi. Đó là gã đàn ông bị Daly nện với khẩu súng lục. Lần sau chót tôi thấy hình ảnh người đàn bà bị nghiến trên mặt đất. Cũng lần sau chót tôi thấy gã đàn ông này bị đám đông đạp lên. Vậy mà sao gã cũng lết được vào phi cơ? Bây giờ gã đang bò. Tôi nhớ đó là lần duy nhất trong ngày tôi đã cầu nguyện, tôi cầu: “Lạy chúa. Xin đừng để cho gã này tiến lại gần con”. Gã cứ lồm cồm lết đến. Gã nắm lấy ống quần tôi. Gã nhìn lên tôi. Gã chỉ nói: “Xin cứu tôi”

Thế là tôi nắm đại một người, kéo khỏi ghế, tôi giúp gã ngồi vào ghế. Đầu gã nứt, tôi có thể nhìn thấy bên trong máu lầy nhầy. Không có gì để cầm máu cả. Tôi biết nếu tôi không giúp cho máu cầm lại, gã sẽ chết ngay trên tay tôi. Một người lính ngồi bên cạnh mặc cái áo tác xạ. Tôi xé toạc cái áo, bốc một nắm mạt cưa nhét vào vết thương. Tôi cứ nhồi mãi mạt cưa vào để chận vòi máu. Chắc chắn giới Y khoa Mỹ sẽ giật mình với phương pháp này, nhưng nó đã tỏ ra hữu hiệu. Tôi giật lấy cái sơ mi của một người khác, buộc quanh đầu gã để giữ mạt cưa lại…

Gã được bình yên suốt chuyến bay. Gã thật mạnh, không bị bất tỉnh lần nào. Tôi đi về phía sau lần nữa, thấy Val, Daly và Joe Hrezo đang cố kéo một người đàn ông mắc kẹt trong cầu thang sau. Cửa máy bay sau không đóng được. Người ấy bị kẹt trong thang, gẫy chân. Sau cùng họ lôi được người này ra, mang vào trong phi cơ. Val và tôi cố bó cái chân gẫy với một miếng gỗ – Lúc ấy Joe bảo tôi rằng thông tín viên người Anh không trở lại được. Anh ta bước ra phi đạo Đà Nẵng để thu hình đám đông, rồi vô phương trở vào phi cơ trong lúc rối loạn. Anh ta còn ở trong đài kiểm soát. Ken Healy hứa sẽ có một chiếc trực thăng Air America đến đón. Về sau, anh ta cũng đã trở vào được Cam Ranh. Val, Atsako và tôi tiếp tục cấp cứu cho mọi người trên tàu. Việc này chiếm hết thì giờ và tôi đoán là khi đã bay được một giờ đồng hồ thì chúng tôi mới bắt đầu nhìn đến các hành khách khác không bị thương. Tôi thấy vẻ kinh sợ trên mặt họ. Cuối cùng, họ nhận thức được họ đã làm những gì. Họ bắt đầu hỏi: “Còn những chuyến bay khác nữa không?”

 

Chúng tôi trấn an bằng cách nói thác: “Còn chứ, còn nhiều chuyến nữa.” Những người này bây giờ đã hiểu ý nghĩa việc bắn giết đồng bào để leo vào chuyến bay. Bây giờ họ ân hận. Đành nói dối thôi, chứ chúng tôi cũng biết sẽ không còn chuyến nào ra Đà Nẵng nữa. Đây là chuyến chót. Những người đi sau không ra nữa. Ken Healy đã liên lạc với Don McDaniel của chuyến 727 kế, bảo anh ta đợi chúng tôi ở Phan Rang, và bảo anh ta điện cho Dave Wanio quay lại Sàigòn để sửa soạn việc hạ cánh khẩn cấp. Tàu chúng tôi hư hỏng nặng, Ken không dám chắc bánh xe buông xuống được khi chúng tôi xuống Sàigòn. Tôi hiểu điều đó có nghĩa gì.

Trong lúc ấy, phi cơ nóng kinh khủng mặc dù thang máy bay phía sau vẫn hạ xuống, cửa sau vẫn mở trống hốc. Người ta không thể thở nổi trong máy bay với chừng ấy con người – chúng tôi nhờ Đức, chuyên viên âm thanh của CBS luôn luôn nhắc nhở bằng tiếng Việt trên máy phát thanh là “Yêu cầu đừng hút thuốc.” Hành khách tuyệt đối cấm hút thuốc, và nếu có người hút thuốc là hỏa hoạn sẽ xảy ra lập tức.

Sau công tác cứu thương cho hành khách, tôi nhận ra trên máy bay không có gì cho họ uống. Nhưng có một ngăn nước đá đã chảy, bây giờ đầy nước lạnh. Tôi bảo Bruce Dunning xé tấm màn ra từng miếng vải vuông nhỏ, nhúng nước. Tôi lấy những mảnh vải ướt, đi lên đi xuống chuyển cho hành khách tạm thời lau mặt. Người nào cũng nhễ nhại mồ hôi. Tôi bảo Val và Atsako làm một cái gì để nâng tinh thần những người này. Sau những gì họ đã làm với chính các bè bạn, chiến hữu họ, sự xúc động đang chậm chạp kéo đến dày vò họ. Họ đã bỏ gia đình. Họ đã giành giật, bắn giết nhau để lấn vào tàu. Bây giờ cơn náo loạn biến mất, nhận thức về cái ghê tởm đã xảy ra đang ngấm dần.

Vì thế, chúng tôi đi quanh, nói chuyện, vỗ vai, chùi mặt mày, lau tay, cố làm một vài điều giúp họ thoải mái đôi chút.

Lúc ấy, tôi cũng chết khát. Daly đến bên, mở áo sơ mi ló ra cho thấy một chai coca. Ông bảo “ra phòng lái.” Tôi đi ra phòng lái, ngồi xuống ghế quan sát viên, Daly tiến đến với một chai coca. Ông mở nút đưa tôi. Tôi nhớ tôi đưa chai coca lên miệng, nhưng nước cứ trào khỏi cằm, chảy xuống bộ đồng phục. Tôi không nuốt nổi. Chúng tôi chuyền cái chai coca độc nhất quanh phòng lái. Một lần nữa, Ken Healy nói với tôi về các hư hỏng của chiếc tàu bay. Ông bảo không dám chắc cái bánh xe mũi có thể buông xuống được, nếu nó xuống được, chưa chắc sẽ chịu đựng được thân tàu. Ông báo động: phải sẵn sàng đối phó bất cứ điều gì khi hạ cánh xuống Sàigòn.

 

Tôi trở lại khoang hành khách, phục vụ loanh quanh. Chợt mọi người đều xúc động nhìn qua phía trái. Chúng tôi đã bay đến Phan Rang. Don McDaniel và phi hành đoàn đang bay ở cao độ 35,000 bộ, họ đang chờ chúng tôi. Cuối cùng họ thấy một chấm đen ở phía dưới, họ nhận ra chúng tôi và đang bay xuống phía chúng tôi. Chúng tôi nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, tương phản với bầu trời xanh tuyệt vời, trên đám mây trắng nõn là chiếc tàu bay World 727 xinh đẹp màu đỏ và trắng. Một cảm giác sảng khoái đột nhiên chạy qua khắp chiếc tàu, và lúc ấy tôi biết cái cảm giác này cũng đi suốt qua tôi. Chúng tôi biết một chiếc phi cơ chị em đã tìm ra chúng tôi. Chúng tôi sẽ an toàn vì cô chị chúng tôi nay đang hộ tống chúng tôi trở về bình an.

Thế là anh chàng Don McDaniel lái chiếc tàu bay của anh ta lượn quanh chiếc tàu bay chúng tôi để lượng giá những hư hỏng. Anh ta gọi Ken Healy, bảo “’Hình như có một xác chết lủng lẳng trên bánh xe của bạn.” Ken đã hỏi anh ta về việc đó. Một người bị cán khi bánh xe lùi lại. Nhưng cái chết của người này đã cứu mạng sống của tám người khác dưới guồng bánh xe vì xác chết đã cản cần máy lại, không làm cho bánh xe lùi thêm nữa.

Như vậy lúc đó chúng tôi biết sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề gây ra bởi bánh xe. Các cửa khoang chở đồ mở toang, cầu thang sau còn treo thòng xuống, cửa sau cũng mở trống, vành xếp của cánh máy bay bị đạn bắn sẽ không hoạt động khi hạ cánh. Chúng tôi đang ở tình trạng khó khăn nghiêm trọng.

Phi cơ tiếp tục bay về Sàigòn.

Tôi nói với Val “vào phòng rửa mặt,” ở đây tôi nói cho Val biết những cái trục trặc của tàu bay. Lúc hạ cánh, tôi sẽ ngồi hàng ghế trên, Val sẽ ngồi sau khoang phi cơ. Tôi bảo không biết chúng tôi thoát được không. Tôi dặn dò vài điều nhắn cho gia đình tôi trong trường hợp Val sống sót và nếu tôi không thoát được. Tôi bảo “Hãy cho gia đình tôi biết mọi sự cũng ổn thôi. Tôi đã không hề sợ hãi gì.“ Tôi không khóc. Cô cũng vậy. Người ta không có thì giờ dành cho xúc cảm, mà hiển nhiên đây là lúc đầy cảm xúc, nhưng người ta đành phải giấu đi thôi.

Thế rồi phút cuối cùng của chuyến bay phải đến. Từ sau thân tàu, tôi bắt đầu đi lên, và đây là lúc một hành động tự phát xuất hiện. Một người đàn ông trao vào tay tôi khẩu M.16. Anh không nói tiếng Anh, tôi không nói được tiếng Việt, tôi không rõ anh ta muốn gì. Nhưng rồi tôi hiểu: anh muốn tôi hãy nhận lấy khẩu súng của anh. Vì thế tôi khoác cái khẩu súng khốn nạn lên vai, trong lúc bước đi, người ta bắt đầu trao thêm cho tôi mọi thứ khác. Khi đến phòng lái, trên vai tôi đã có vài khẩu M.16 lủng lẳng, một băng đầy đạn, một nắm đạn rời. Một vài người đã trao một hay hai viên, vài người khác trao cho tôi nhiều hơn, tôi còn có hai khẩu súng lục treo trên ngón tay. Chính lúc ấy – khi tôi đang nắm những viên đạn nhỏ và những thứ vũ khí trong tay – đột nhiên một cảm giác rõ rệt bừng ra – cuộc chiến của những người này đã chấm dứt. Họ không muốn súng đạn hay bất cứ gì nữa. Điều ấy thực chua chát: chính họ cũng đã ở cuối đường.

Khi tôi gần đến phòng lái, một gã khùng đặt một quả lựu đạn lên trên các thứ trong tay tôi. Tôi nhìn xuống, tự nghĩ “Trời ơi – một quả lựu đạn!” Phản ứng bản năng tôi là định xoay người, ném xuống phía sau máy bay. Nhưng tôi sợ nó đụng cầu thang phát nổ, tôi nghĩ “Chúa-ơi-tôi-sẽ-làm-gì-với-những-thứ-này?” Tôi đi về phòng lái, đá cửa. Charlie Stewart, kỹ sư chuyến bay mở ra. Tôi nói với anh: “Charlie, cầm lấy mấy cái này!” Tôi chưa bao giờ từng chạm tay đến một quả lựu đạn. Charlie cầm lấy. Anh ta và Mike Marriott vội tìm băng keo quấn lại. Họ quấn băng keo quanh quả lựu đạn, và mọi thứ tôi mang vào. Nếu lỡ có gì phát nổ, họ muốn bọc bớt lại càng nhiều càng tốt.

 

Đã đến lúc hạ xuống Sàigòn. Tôi gọi Mike Marriott tới bên cửa hông, chỉ cho anh cách mở cửa khẩn cấp và cách bung cầu tuột. Thông thường, đó là việc của Atsako, nhưng cô là tiếp viên mới, tiếng Anh không thạo, không chắc cô sẽ đối phó được trường họp khẩn cấp. Cho nên tôi muốn có một người đàn ông ngồi đấy.

Lúc tôi đang ngồi ở ghế trên với Bruce Dunning thì Daly từ phòng lái bước ra, ông yêu cầu Bruce xuống phía sau tàu. Ông muốn Bruce mang các phim ảnh quay được ở Đà Nẵng ra phía sau, nếu không ai sống sót thì các phim ảnh vẫn phải được bảo toàn. Tất cả đều cảm thấy mãnh liệt: Nếu chúng tôi không thoát, thế giới vẫn cần phải biết những gì xảy ra hôm ấy.

 

Daly đến, ngồi xuống cạnh tôi. Ông hỏi tôi có biết gì tình trạng chiếc máy bay không. Tôi nói biết. Ông hỏi tôi có sợ không. Tôi nói “Không, tôi không sợ chết.” Ông choàng cánh tay ôm tôi, nói “Cô bảnh lắm. Tôi sẽ đãi cô nhậu một chầu nếu mình thoát tới Sàigòn.” Tôi nói “Ông Daly, nếu sống sót, xin ông mua cho tôi một két bia.” Ông ta cười.

Rồi Daly lại bảo tôi “Những người này không hề biết súng của tôi trống rỗng.” Ông đã bắn hết đạn trong lúc cố duy trì trật tự ở cầu thang máy bay tại Đà Nẵng. Ông bảo “Tôi sẽ giữ khẩu súng để kiểm soát họ khi hạ cánh, như thế cô sẽ có thì giờ mở cửa và bung cầu tuột.” Tôi đáp “Tốt lắm.”

Chúng tôi bắt đầu một cuộc hạ cánh khá dài để xuống Sàigòn. Phi cơ bay hơi nhanh, tất nhiên không nên bay nhanh như vậy để hạ cánh, nhưng chúng tôi không điều chỉnh được vành xếp ở cánh. Và tôi ngồi ở cái ghế đặt ngay vị trí bánh xe mũi, ngồi đấy, tôi có thể cảm thấy bánh mũi có hạ xuống không? Có chống được thân tàu hay không? Rồi tôi cảm thấy bánh xe chính chạm phi đạo, tôi thấy phi trường bay vượt qua. Tôi cố chờ để cảm thấy cái bánh xe mũi hạ xuống mặt đường. Nhưng Ken đã giữ cho mũi máy bay cách khoảng mặt đất thật lâu. Tôi không hiểu làm thế nào anh đã giữ được như thế. Bỗng tôi thấy các tòa nhà vút qua. Tàu chúng tôi đang chạy ngay trên phi đạo. Tôi hiểu bánh mũi đã hạ và chịu đựng được. Thế mà tôi không cảm thấy nó hạ xuống lúc nào. Ken đã khéo léo điều khiển chiếc 727 đáp xuống Sàigòn một cách nhẹ nhàng như thế. Rồi phi cơ cứ vùn vụt chạy trên phi đạo, vì chúng tôi không thể ngừng. Cảm ơn Thượng Đế, Sàigòn có được cái phi đạo dài 14,000 bộ! Bốn chiếc xe cứu hỏa chạy nhanh, kèm bên chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi quẹo qua đường vào bến. Phi cơ ngừng, không tỏ dấu hiệu rõ rệt nào là có sự nguy khốn cả. Tôi nhảy ra, mở cửa, nhưng không bung cầu cấp cứu. Joe Hrezo đã đứng trên mặt đất, hẳn anh ta đã chạy xuống bằng thang sau. Cùng một lúc, Joe và tôi la lên: “Xe tải thương, cáng cứu thương! Chúng tôi cần xe tải thương, cáng cứu thương.”

Người ta mang cầu thang đến cửa trước. Mọi người bên trong ngồi im lặng. Qua máy phóng thanh, Đức nhắc đi nhắc lại: “Ngồi yên, đừng di chuyển.” Không ai nhúc nhích. Sau đó chúng tôi bắt đầu chuyển người ra. Tôi nhớ có một người đàn ông châm một điếu thuốc. Ngay khi anh ta tới cửa trước, tôi yêu cầu anh không được hút thuốc vì có xăng. Anh ta ném điếu thuốc, dí chân lên điếu thuốc cháy đỏ. Tôi thấy anh ta đi chân không. Tôi nghĩ “Chúa ơi, thế thì đau lắm.” Nhưng anh không cảm thấy. Không ai trên tàu còn cảm thấy gì nữa.

Nước Mắt Trước Cơn Mưa. | OVV 
 

Hầu hết hành khách được lùa sang một bên. Cáng tải thương mang vào tàu, họ khiêng người đàn ông với vết thương nặng trên đầu, rồi khiêng người đàn ông bị đổ ruột. Khi mọi người ra hết, chúng tôi bắt đầu kiểm điểm. Val và tôi bước qua lối đi, nhặt nhạnh súng, đạn, những quả lựu đạn bỏ lại trên ghế. Tôi nhận ra chúng nặng quá sức. Tôi bảo Val “Thôi kệ – Bỏ lại – sẽ có người khác đến lo chuyện ấy.”

Tôi và Val rời tàu. Chúng tôi là hai người cuối cùng rời tàu. Nhìn những chỗ hư hỏng của chiếc máy bay, chúng tôi sợ hãi khi thấy những mảng kim khí đã toác ra. Chúng tôi cũng sợ hãi nhìn những lỗ đạn trên cánh. Lúc ấy tôi nói với Val “Thật đáng ngạc nhiên là chiếc phi cơ này đã có thể bay được.”

Val và tôi được đón đến ban phi vụ, rồi đến khách sạn Caravelle. Người ta đưa chúng tôi tới văn phòng ông Daly, nơi đây thông tín viên NBC đang phỏng vấn tất cả mọi người. Tôi ngồi trên chiếc ghế dài uống bia trong lúc họ quay phim.

Trong phòng bên, vài chục phóng viên khác đang chờ. Họ đều muốn phỏng vấn chúng tôi. Tôi hỏi Daly “Chúng ta nên nói gì?” Ông ấy bảo: “Cứ nói sự thật.”

Daly đưa tất cả chúng tôi đi ăn tối hôm ấy. Khi về lại khách sạn, tôi tắm rất lâu. Tôi nằm xuống giường, nhưng không ngủ được. Tôi cứ nhìn thấy mãi hình ảnh những người buổi sáng hôm ấy ở Đà Nẵng. Tôi thấy người đàn bà bị đẩy đạp đến chết. Tôi có thể thấy cả quần áo của bà ta và cái xác máu me nát bấy. Tôi thấy gia đình năm mạng người bị bắn từ sau lưng ngã gục xuống. Rồi người đàn ông bò lồm cồm ở lối đi trên máy bay, lết đến bên tôi. Tôi nhận ra suốt đêm tôi sẽ không thể ngủ được. Tôi nhỏm dậy, ra ngồi ở bàn viết. Tôi nghĩ có lẽ tôi có thể viết lại. Tôi đã cố. Tôi viết được đôi chút. Nhưng thật khổ, chuyện ấy quá lớn đối với chữ nghĩa. Tôi không biết viết thế nào về câu chuyện đã xảy ra.

 

Thời gian trôi. Tôi mất ý niệm về thời gian. Chợt chuông điện thoại reo. Tôi bốc máy trả lời. Điện thoại viên bảo có một cú điện thoại viễn liên quốc tế. Tôi nhìn đồng hồ, nhận ra đã 7 giờ sáng. Rồi giọng một người đàn bà, nói trong điện thoại từ một đài phát thanh ở Los Angeles. Bà ta muốn phỏng vấn tôi. Bà đã xem cuốn phim CBS về chuyến bay Đà Nẵng trong mục tin tức. Thế là tôi kể cho bà nghe tất cả những gì đã xảy ra. Cuối cuộc phỏng vấn, bà ta nói một câu ngu ngốc nhất. Chưa bao giờ trong suốt đời tôi nghe ai có thể nói một câu ngu ngốc thế. Bà ta bảo: “Cô Wollett, nghe chừng cô còn buồn bực lắm!” Tôi không thể tin được sự ngây ngô như thế trong nhận xét của bà ta. Lúc ấy, biết bao ý nghĩ diễn ra trong trí. Nhưng tôi chỉ còn có thể nói: “Thưa bà, hãy đặt vấn đề như thế này: Đây không phải là câu chuyện mà người ta có thể chứng kiến mỗi ngày.”

Bà ta nói “Thôi, cảm ơn, cô Wollett. Nhân tiện, xin chúc cô một lễ Phục sinh vui vẻ.

” Đến lúc ấy, tôi mới nhận ra: đó là ngày chủ nhật mùa lễ Phục sinh.

 

(Trích từ “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” của Larry Engelmann; bản dịch Nguyễn Bác Trạc) 

Nuoc Mat Truoc Con Mua by Larry Engelmann | Goodreads
 
 
 
  Sưu tầm và tổng hợp by Ban Chấp Hành  
 
 
Xem thêm...

TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH (March12,1990 - March12, 2025)

TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH (March12,1990 - March12, 2023)

Sao Mai Hành Khúc

- Liên Trường Quảng Đà Houston 2013

TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH (March 12,1990 - March 12, 2025)

     SAO MAI    
 
 là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời, báo hiệu cho sự bắt đầu tốt đẹp, rực rỡ và một ngày mai tươi sáng.
 
 
HD wallpaper: silhouette photo of trees under purple shining star, sky,  mountain | Wallpaper Flare

 ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ۩ ۩ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
 
 
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ۩ ۩ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
 
 
 

      TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH      

(March 12, 1990/March 12/2025)

 

Đi về nhà Chúa

Đi về nhà Chúa tim con reo hoan lạc Chúa ơi,

đi về nhà Chúa ôi bao nhiêu mến thương ngập trời

Lạy Chúa, đi về nhà Chúa tim con reo hoan lạc Chúa ơi,

đi về nhà Chúa đi về nhà Chúa

Ôi bao nhiêu mến thương ngập trời.

Đi về nhà Chúa như dân xưa đi về Thánh đô.

Đi về nhà Chúa tâm tư con đã bao đợi chờ.

Lạy Chúa ,đi về nhà Chúa như dân xưa đi về Thánh đô.

Đi về nhà Chúa tâm tư con đã bao đợi chờ.... 

 

 ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

 

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa tác sinh muôn loài. Vì yêu con tay Chúa thương an bài. Cho con một đời vui sống thiết tha.

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa chết treo khổ hình. Vì yêu con nên đã quên thân mình. Cho con được làm con Chúa suốt đời. 

   Chúa (Chúa) chính là gia nghiệp đời con (gia nghiệp đời con). Con xin được đáp lại tình yêu (xin được đáp lại tình yêu). 

   Sông nào chẳng đủ miền xuôi. Con người có thủa nằm nôi. Thời gian đưa chiếc lá bay qua rồi. Đời vương vương như áng mây bên trời. Tim con bồi hồi xao xuyến mãi thôi. 

   Ân tình Chúa đủ chẳng vơi. Con nào thấu lòng trời cao. Tình yêu thương vẫn thiết tha tuôn trào. Tình dâng cao trong ngất ngây tâm hồn. Gieo vui một niềm cảm mến vô bờ. 
 
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
Tưởng nhớ Cha Antôn Vũ Như Huỳnh
▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬
 
Tưởng nhớ và tri ân
Cố Linh mục Antôn Vũ Như Huỳnh

(1990 - 2025)

▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

Tưởng nhớ CHA ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH

▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬ ஜ ۩  ۩ ஜ ▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬▬

TƯỞNG NHỚ CỐ LM. ANTÔN VŨ NHƯ HUỲNH

(March 12, 1990/March 12, 2025)

Kính Thưa Quý Thầy Cô cùng toàn thể cựu học sinh Sao Mai trên khắp các nẻo đường thế giới,
 
   “Uống nước nhớ nguồn” là đạo lý làm người được đúc kết từ bao đời nay. Đối với học sinh chúng ta, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi là cách đền ơn thiết thực nhất với công lao của Cha Mẹ, Thầy Cô và xã hội.
 
   Thấm thoát đã 35 năm trôi qua (1990-2025) kể từ ngày Cha Cố Antôn Vũ Như Huỳnh được Chúa thương gọi về. Trong tâm tình thương tiếc, quý mến, chúng ta bày tỏ lòng tri ân đến Cha Cố Antôn Vũ Như Huỳnh, Hiệu Trưởng trường Trung Tiểu học Sao Mai Đà Nẵng - Việt Nam từ 1965 đến 1975 .
 
   Chúng ta cùng nhớ về hình ảnh người Cha kính yêu, người Cha đã cho chúng ta trọn niềm vui của thời thanh xuân, của tuổi học trò dưới mái trường thân thương Sao Mai Đà Nẵng. Ở đây, chúng ta đã được Cha cùng quý Thầy Cô hướng dẫn, dạy bảo và luôn đồng hành trên con đường học vấn, để chúng ta có thể tự tin bước vào những cuộc hành trình mới.

   Biến cố lịch sử thăng trầm của đất nước khiến chúng ta phải chia tay nhau mỗi người một hướng theo dòng đời trôi. Sau bao nhiêu năm thất lạc, chúng ta đã có Duyên may được gặp lại nhau trên trang  Góc Nhỏ Sân Trường  yêu thương này để nối kết lại tình Thầy Trò, nghĩa Bạn bè đã một thời bên nhau...


   Và hôm nay,chúng ta cùng hướng lòng về người Cha kính yêu - Cố LM. Antôn Vũ Như Huỳnh nhân ngày Giỗ lần thứ 33.

   Tri Ân - Tiếc Thương và Tưởng Nhớ đến Ngài, chúng con tha thiết nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho Linh Hồn Cha Cố Antôn qua những công lao sâu nặng Ngài đã dành cho chúng con là đoàn con học sinh của Ngài.

   Chúng con tin tưởng rằng Chúa Nhân Lành đoái thương nhậm lời nguyện cầu của chúng con, đón nhận Linh Hồn vị Cha Cố đáng kính Antôn vào hưởng hạnh phúc Nước Trời.
 
 
 
 3 Photos phía trên by anh Nguyễn-Ngọc Quang
 
 
 
 
Anh Nguyễn-Ngọc Quang đứng cạnh người chị mặc áo dài xanh
 
 
 
 
 

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa tác sinh muôn loài. Vì yêu con tay Chúa thương an bài. Cho con một đời vui sống thiết tha.

   Chúa là tất cả đời con. Con là tất cả của Chúa. Vì yêu con Chúa chết treo khổ hình. Vì yêu con nên đã quên thân mình. Cho con được làm con Chúa suốt đời. 

   Chúa (Chúa) chính là gia nghiệp đời con (gia nghiệp đời con). Con xin được đáp lại tình yêu (xin được đáp lại tình yêu). 

    Sông nào chẳng đủ miền xuôi. Con người có thủa nằm nôi. Thời gian đưa chiếc lá bay qua rồi. Đời vương vương như áng mây bên trời. Tim con bồi hồi xao xuyến mãi thôi. 

   Ân tình Chúa đủ chẳng vơi. Con nào thấu lòng trời cao. Tình yêu thương vẫn thiết tha tuôn trào. Tình dâng cao trong ngất ngây tâm hồn. Gieo vui một niềm cảm mến vô bờ.

✬▬▬▬▬ஜ۩ ۩ஜ▬▬▬▬✬

Tưởng nhớ và tri ân cố Linh Mục

Antôn Vũ Như Huỳnh

(1990 - 2025)

   Một Thánh lễ Misa cầu nguyện cho ngày giỗ Cha Cố Antôn Vũ Như Huỳnh - một vị Cha già đã từng là một thời lèo lái con thuyền Sao Mai của những cơn sóng gió. Một Thánh lễ đơn sơ nhưng đã chứa đựng thật nhiều tình thiêng liêng cao cả... đốí với những "người con Sao Mai hôm nay" tại quê nhà... chúng tôi vẫn nhận thấy đầy đủ mọi thành phần của ngôi nhà mẹ Sao Mai của ngày ấy và hôm nay... Thánh lễ diễn ra không tiếng chuông nhà thờ báo hiệu, một buổi lễ diễn ra trong sự im lặng và tưởng nhớ, không chỉ với những "người con của nhà mẹ" mà còn có cả những "cô dâu, chú rễ của Sao Mai ngày hôm nay" 

   Một sự cảm xúc và thiêng liêng trân trọng - duy chỉ trong một căn phòng nhỏ chưa trọn vẹn mười mấy mét vuông thực tế, nhưng trong đó đã chứa đựng cả một sự huyền bí lớn lao về cõi tâm linh và sự trung thành của khoảng hai mươi mấy người con Sao Mai đã vinh dự đại diện cho cả một ngôi trường mấy ngàn cựu học sinh của ngày ấy... 

Không cao sang, không quyền quý
Không là trong ngôi thánh đường cao sang và lộng lẫy. 
Không là nơi đài các khuê văn, cũng không là nơi chốn lầu hoa danh vọng...

Mà chỉ là một căn phòng nhỏ trong căn nhà hưu dưỡng của giáo xứ Thái lạc, Long Thành... 

Lời kinh trầm lắng mở đầu cho Thánh lễ Misa... 

Giây phút "sám hối" - mở đầu cho Thánh lễ

   Cũng với đầy đủ mọi nghi thức của một thánh lễ Misa bình thường theo truyền thống tôn giáo, cũng với một chí hướng và đồng tâm hiệp lực từ một cõi vô hình để cùng nhau đưa đến một triết lý vĩnh hằng của "một đời người" mà ngày hôm nay Thượng Thiên đã "gọi về" - bỏ lại trần gian một đôi chút vướng bận về một sự tưởng nhớ... duy không có những dòng lệ rơi, không có những tiếng than khóc "Cha ơi...", không có những sầu thương đau đớn, nhưng hầu như "tất cả những người con" hiện diện hôm nay trong ngày 18/03/2012 này đều cùng nhau cất lên cho chính mình từ một cõi hư không nào đó để trong suốt thánh lễ giỗ tưởng niệm... ai ai cũng "cầu xin Chúa mau sớm dẫn đưa linh hồn Cha Cố Anthony cũng như linh hồn Cha Cố Giuse được hưởng phúc Nhan Thánh"

   Ngày hôm nay - tuy chỉ là tại "nhà hưu dưỡng của Giáo xứ Thái Lạc - Long Thành" tuy không là "tiếng chuông thánh thót của một ngôi đại giáo đường báo hiệu giờ kinh nguyện cầu... tuy không là những hồi chuông báo hiệu trong giây phút Thánh Thể... tuy không là những âm vang của một Ca đoàn đại quy mô trong một thánh lễ tưởng niệm lớn lao nào.... nhưng trong cái không gian tĩnh mịch này, chỉ trong cái ngày 18/03/2012 vào lúc 10.00h... đã cất lên chỉ vài câu kinh nguyện sau một cử chỉ "làm dấu thánh giá" - chúng tôi nghĩ rằng: tại phương trời xa xôi nào đó bên tận trời Âu Philadelphia, Pennsylvania ... linh hồn Cha Cố Anthony cũng như tại nơi an nghỉ vĩnh hằng Đại Chủng viện Giuse Xuân Lộc linh hồn Cha Cố Giuse "chắc cũng đã mỉm cười tại nơi cung vàng chín suối... 

   Ngày xưa là "một người thầy" - hôm nay "là một vị linh mục già đã về hưu" - Cha Đỗ Văn Nguyên - có lẽ cũng đã mãn nguyện cho chính mình một sự hài lòng, cũng như "mấy chục con người trần thế hôm nay" đại diện cho mấy ngàn con người để rồi cùng nhau cất lên lời kinh thắm thiết, những lời ca như đã bay bổng để mong cầu xin nơi chốn thiên quốc một Hồng ân trong cõi tâm linh sống của những con người mà chính vào giờ phút thiêng liêng này trở thành một triết lý sống - một triết lý sống chứa đựng rất đầy đủ ý nghĩa của một cõi đời với những con người hôm nay đang còn trên con thuyền Sao Mai tại trần gian này... 

   Chúng tôi còn nhớ - ngày 12/03/2012 tại Giáo xứ Ngọc Lâm với những nghi thức "còn vang mãi những lời kinh..." thì hôm nay - ngày 18/03 tại một nơi chốn "nhà hưu dưỡng Thái lạc, Long Thành" một thánh lễ Misa duy chỉ đơn sơ và đạm bạc.... hoặc một nơi nào đó bên trời Âu cũng đã "tưởng niệm về cho vị Cha già của ngày xưa..... tất cả đều cũng chỉ là một hướng đi, tôi còn nhớ một đoạn Kinh Thánh nào đó mà ngày xưa Thánh Phaolo viết trong thư gửi cho cộng đoàn tín hữu Corhinto: Anh em hãy yêu thương nhau như Cha trên Trời đã yêu thương anh em, anh em hãy luôn luôn chú tâm vào sự thờ phượng duy chỉ có một Thiên Chúa là Cha chung của chúng ta.....

   Dẫu cho cuộc đời chỉ là ngắn ngủi, là kiếp phù du, là một cơn gió thoảng, là những con người không phải là có đạo, và không chỉ là những con người SaoMai của "ngày ấy", nhưng chúng tôi cũng luôn luôn có những sự trân trọng và kính phục về cho những "cô dâu và chú rễ Sao Mai" của ngày hôm nay... tuy chỉ là trong một căn phòng nhỏ bé, không tiếng chuông báo lễ, không lộng lẫy đèn hoa, không tiếng nhạc thánh thót của một ca đoàn - nhưng hầu như với những con người hiện diện hôm nay cùng với "vị Cựu Tổng Giám Thị" của ngày nào... có lẽ cũng đã thoả nguyện rất lớn và chứa đựng được nỗi vui mừng vì "đã sống đúng với "đạo làm con" con tinh thần hiếu đễ của nhân bản một con người...

Bài đọc 1 - với "con chiên Bùi Mai"

Bài đọc 2 - với "con chiên Phạm Thanh Long"

Thánh lễ cũng có những lời giảng của "vị Chủ tế"...


   Trong bài giảng Cha Đỗ Văn Nguyên hầu như không còn nhắc đến cái triết lý "sắc có như không..." nữa, mà trong bài giảng tuy ngắn ngủi, nhưng chứa đựng rất nhiều những thâm tình hiếu để của những con người hôm nay... Cha đã nêu cao tinh thần truyền thống Uống nước nhớ nguồn, tinh thần Sao Mai bất khuất của những Cựu học trò, và tinh thần rực lửa bất diệt của những con người Sao Mai của hôm nay.... tất cả cũng chỉ là một sự hiếu để của một đời người đang thực hiện một triết lý sống: Cuộc đời sắc có như không, phải chăng chỉ một tấm lòng mà thôi...

Giây phút "Hiệp nhất Phép Thánh Thể" 

   Từ những điểm nhấn ấy, duy ngày hôm nay 18/03 tại Thái Lạc - Long Thành Đồng Nai, cũng như ngày 12/03 vừa qua tại Giáo xứ Ngọc Lâm, hoặc đã một ngày nào đó phía bên kia bờ đại đương.... cũng đã có những giây phút như thế, một trong những buổi lễ tưởng niệm như thế... nhưng chúng tôi thiết nghĩ "tất cả cũng chỉ là một mà thôi" trong sự thực hiện tinh thần "hiếu đễ của con người" như lời vị Cựu Tổng Giám thị đã nhấn mạnh trong những buổi họp mặt và chuyện trò thân mật ngày nào... thì hôm nay, trong cái căn phòng nhỏ bé này, trong giây phút tưởng nhớ thiêng liêng và huyền bí này... cái đạo làm người của những người con Sao Mai cũng đã một lòng nhớ về cho những người Cha già như thế.... 

Lời cảm tạ của đại diện học sinh Sao Mai với "Thầy Tổng"

   Không chỉ là những miếng ăn ngon, không chỉ là vài ba mâm cổ đầy, không chỉ là những chiếc bánh sake lạ mắt và ngon miệng... mà giờ phút họp mặt có tính mini này cùng với những câu chuyện trò, những kỷ niệm được khơi dậy lại, những ký ức ngày xưa.... hầu như cũng đã nói lên được mối thâm tình hiếu để và tâm giao của những con người của nhà mẹ này vậy... 

   Trên con đường về lại Sàigòn, cũng những có những người con phải quay về xứ núi mây ngàn Phương Lâm... chúng tôi rất bùi ngùi và thật sự xúc động vì chính mình đã làm tròn bổn phận hiếu để của những người con Sao Mai, duy cánh biển Vũng tàu chiều hôm ấy có gió thôi rất nhiều, có những đợt sóng vỗ xô bờ, duy đứng trên một tháp cao bên cạnh ngọn núi Tao Phùng với hình ảnh Chúa Giêsu đang dang tay đón nhận và sẵn sàng ban phép lành cho tất cả những người con như chúng tôi, cũng như trên đoạn đường dọc theo bờ biển bao la và còn mãi lê thê ấy... chúng tôi cũng như vị Cựu Tổng Giám Thị của ngày xưa, ai nấy cũng đã mãn nguyện và mỉm cười vì đã làm tròn cho chính mình hiện diện (cũng ngư những người vắng mặt) đầy đủ một bổn phận trách nhiệm thiêng liêng và cao cả: sự hiếu để của một con người

   Thành phố giờ này đã lên đèn, màn đêm đã buông phủ, không phải những ánh đèn xanh đỏ tím vàng hoa lệ của một thành phố vật chất xa hoa kia đã điểm... mà chúng tôi có thể mãn nguyện và mỉm cười: có lẽ chính trong tâm linh của những người con Sao Mai hôm nay... vẫn còn có hàng triệu hàng triệu ánh đèn đủ sắc màu đang rực cháy, và còn sáng sáng mãi trong một tinh thần Sao Mai hiếu để và thanh cao ấy vậy... 

    Nguyễn Ngọc Hải

Ghi nhận từ buổi lể ngày 18/03 tại Thái Lạc...

●▬▬▬▬▬๑۩      GNST       ۩๑▬▬▬▬▬●

GNST chân thành cảm ơn anh Nguyễn Ngọc Hải.

 

GNST chân thành cảm ơn chị Hồng Vân

 

▬▬▬▬※ Gia đình GNST ※ ▬▬▬▬

▬▬▬▬Peace & Love always▬▬▬▬

✬▬▬▬▬ஜ ۩ ۩ ஜ▬▬▬▬

 
 

 

 

Xem thêm...

Xích lô Huế

Xích lô Huế

Trở lại Huế một chiều tháng 4/2023, tôi đi bộ dọc bên đường Nguyễn Công Trứ, Lê Lợi xuôi xuống Đập Đá thấy khá đông các bác đạp xích lô. Người mặc áo xanh, kẻ mặc áo đen, kẻ khoác áo mỏng… Nhưng chỉ Áo xanh lam có gắn huy hiệu công đoàn của Nghiệp đoàn Xích lô du lịch Huế, tên đơn vị công ty, khách sạn phía trước hoặc sau lưng áo cả trên xe…

Đoàn xe xích lô đưa khách Thái Lan vào thăm Đại nội

Thu nhập bấp bênh

Thành phố Huế có hơn 2,000 xe xích lô hoạt động, có 6 nghiệp đoàn xích lô, xe thồ… Trong đó khoảng gần 300 chủ xe tham gia nghiệp đoàn. Nhiều bác tài xích lô quá trẻ, mặc quần lửng, áo thun…Người đầu trần, kẻ đội mũ bê-rê, mũ phớt …tham gia hoạt động…độc lập, tự do. Giống như cuối tuần xách xe chạy tà tà kiếm ít tiền uống cà phê, ăn sáng! Một anh tuổi chưa tới bốn mươi, đi bộ đẩy xe rà theo, mời chào. Anh ta giới thiệu với tôi về thời gian tour từ nửa giờ đến một tiếng rưỡi, chở đi viếng cảnh trọn gói.

Sẽ chở đến nào là làng nghề, phố cổ, đến bờ Bắc Cố đô, Cửa Ngăn, Cửa Quảng Ðức… đến chợ đêm… Khách sẽ được giới thiệu các điểm ăn chè 20 món, ăn bánh bèo, bánh bột lọc Bà Ð… Thời gian chờ xe không tính tiền. Trước khi có dịch bệnh giá 150 nghìn đồng/tour nay còn 130 nghìn đồng/tour cả đi và về. Khách còn được giới thiệu chi tiết về các điểm đến…Tôi phải viện nhiều lý do mới “cắt đuôi” được anh ta.

Khách du lịch trên xích lô dạo phố Huế

Theo tìm hiểu của mình, tôi biết giá xe xích lô tự do cao hơn so với giá của nghiệp đoàn ấn định và còn phụ thuộc vào việc… “may nhờ rủi chịu”. Anh đạp xe tên T.Q.D. (sinh năm 1983), nhà ở Vỹ Dạ, có vợ với 2 con. Vợ là công nhân may nay thất nghiệp. Anh kể: “Chạy xe như câu cá vậy chú ơi! Lúc được lúc không. Lúc mời khô cả cuống họng nhưng có lúc duyên tới thì một lúc đến 2 khách kêu, chẳng biết chọn ai! Có khách leo ngay lên xe không hề trả giá!”. D cho biết thu nhập của mình trước kia, 400 đến 500 nghìn đồng/ngày, nay tuy “mở cửa” nhưng cũng chỉ còn 150 đến 200 nghìn đồng/ngày! Anh ta mời tôi đi một vòng thành phố ủng hộ, giá phải chăng. Thấy tôi chần chừ, anh ta nhắc khéo đừng có… ham rẻ. Cái chi cũng có cái giá của nó hết. Ðiều này ai cũng biết. Rẻ tiền thì phục vụ không ra chi. 50 nghìn đồng/tour, 100 nghìn đồng/tour cũng có nhưng không vui vì chỉ ngồi xe tự ngắm cảnh mà không nghe được người chở hướng dẫn, thuyết minh…và nếu có chọn xe thì chọn xe có “tên tuổi” viết ở trước, đằng sau xe. Nhưng trả một tour đến cả triệu bạc vẫn “dính chấu” mới đau! Anh tài xích lô tên N.Q.H., (sinh năm 1973), ở đường Ðống Ða, vui miệng kể: “Ðã từng có xích lô chơi không đẹp. Tui không nói xấu mà nói thật! Ðó là trường hợp một ông khách người trong Nam bị xích lô xấu lừa. Hắn ta chở ổng đi nửa chặng đường rồi dừng lại, nói là xe hư không đạp tiếp được nữa. Khách phải bấm bụng đón taxi về lại khách sạn. Mất cả triệu bạc!”.

Xích lô nghiệp đoàn lẫn với xích lô tự do

Buồn vì dịch bệnh đến thiên tai

Dịch COVID-19 bùng phát thêm bão lụt liên miên, người đạp xích lô Huế… chỉ còn buồn với rầu. Khách đã lưa thưa, bước ra khỏi khách sạn đã có nhiều xe mời chào. Chỗ thì 1 đến 2 xe, chỗ cả nhóm 7 đến 10 xe… nằm chờ trên lề đường. Người đạp xe tụ lại chuyện trò giết thời gian trong khi chờ đợi khách. Ông L.V.Ph., (sinh năm 1963), nhà ở Chi Lăng, phường Phú Cát, có 25 năm đạp xích lô, chia sẻ: “Trước đây, chạy ngày 500 nghìn đồng là thường. Chừ 100 nghìn chưa chắc có. Khách Tây đã vắng, khách Ta cũng không nhiều. Dịch bệnh rồi bão lụt miết chịu răng thấu!”. Hỏi sao không vào tổ chức nghiệp đoàn, tổ nhóm, ông Ph. nói mình thích tự do hơn lại không tốn tiền bến bãi, phiên chuyến. Muốn chạy khi mô thì chạy. Số bác tài lớn tuổi trên bảy mươi, như ông Ph. được biết, thì không còn nhiều, chỉ độ vài ba chục người. Già yếu nhường lại xe cho con cháu chạy. Nghề ni cũng… cha truyền con nối!

Có mấy ông già nhớ nghề thỉnh thoảng đạp ngày một, hai cuốc gọi là cho dãn gân cốt. “Chạy xe cho đỡ buồn lại kiếm ít đồng với tránh được mấy độ nhậu bạn bè gầy ra, hú tới. Chừ nắng ráo ri đây chớ mưa xuống là chịu sầu!”.

Thời điểm có Festival hay mùa thi đại học thì xích lô có thu nhập bộn, chạy không kịp luôn. Nhưng trường hợp của mình, anh T.V.H. cười như mếu: “Sáng tới chừ tôi được có 30 nghìn. Nghe ông khách nói trong Sài Gòn ra đi làm từ thiện. Tôi chỉ lấy 30 nghìn thay vì 40 nghìn. Ðạp hơn 5 cây số luôn đó anh!”. Tôi khích lệ anh H, xem như anh đóng góp cùng giúp đỡ bà con nghèo khó 10 nghìn đồng cũng được. Anh dạ rồi cười rất tươi.

Đoàn xe xích lô đưa khách Hàn Quốc dạo phố

Xích lô điện

Nhiều khách du lịch thích ngồi xích lô chở vòng quanh các phố. Khách lẻ đến khách đoàn tới Huế là dịp người đạp xích lô có thu nhập, bù cho thời gian dịch cúm Tàu hành hạ đến xất bất xang bang, chỉ biết nằm nhà ngó ra. Ông Ð.V.L. (sinh năm 1958), ở Vỹ Dạ thổ lộ: “Vừa sơn sửa lại chiếc xe cho đàng hoàng, sạch sẽ để chở khách. Khách người nước ngoài rất thích ngồi xích lô đi vòng vòng”. Ðang đậu xe chờ khách, ông H. (sinh năm 1969) kể mình là đoàn viên Nghiệp đoàn Xích lô du lịch. Hiện nay tình trạng người đạp xe xích lô cạnh tranh nhau ghê lắm. Họ lấy thương hiệu của nghiệp đoàn qua màu áo để chào mời khách với giá không theo niêm yết, tức là phá giá. Có người đưa khách vào các quầy hàng, quán ăn rồi “gài” khách, lấy hoa hồng. Tuy nhiên, để có chuyến du ngoạn Huế bằng xích lô cũng chú ý chọn xe có…thương hiệu như tên công ty, khách sạn, nghiệp đoàn…được nhận diện qua áo có gắn logo, số điện thoại.

Hiện nay có một số người chạy xe tự do hoặc chạy xe cho khách sạn, công ty còn gắn động cơ cho xe nữa. Họ trang trí xe thật đẹp, gắn bình điện dưới chỗ khách ngồi…để tiết kiệm sức lao động! Chỉ cần từ 5 đến 7 triệu đồng, xích lô đạp sẽ…lên đời thành xích lô điện. Nếu ngồi trên xích lô điện, khách không còn thong thả cảm nhận nét đẹp, yên bình hoặc dùng điện thoại, máy ảnh ghi lại những hình ảnh của Huế trên đường đi qua! Xe cứ chạy bon bon. Có khách sợ tái mét, phát run. Xe có thể chạy 40 km/giờ, nếu phải cua gấp hoặc hãm phanh không kịp là lật nhào! Thành phố Huế hiện có hơn 160 xe xích lô điện như vậy đang hoạt động.

Tay cầm xích lô điện có khác tay cầm xích lô đạp

Bài & ảnh LKD

Nguyên Thy sưu tầm

 

Xem thêm...

CHỢ ẨM THỰC TỪ Á SANG ÂU Ở AUSTRALIA

CHỢ ẨM THỰC TỪ Á SANG ÂU Ở AUSTRALIA

Du khách đến chợ Queen Victoria, Melbourne tối thứ Tư hằng tuần sẽ được thưởng thức bữa tiệc ẩm thực đường phố với hàng trăm món Á-Âu.



Queen Victoria là chợ nông sản nổi tiếng tại Melbourne với lịch sử hơn 140 năm và là điểm du lịch không thể bỏ qua của du khách quốc tế. Ban ngày, chợ tấp nập với các quầy hàng hải sản tươi sống, rau củ và các món ăn truyền thống của người bản địa như xúc xích, thịt xông khói. Tối thứ Tư hằng tuần, du khách có thể thưởng thức bữa tiệc ẩm thực đường phố quốc tế với các món từ Á sang Âu. Ảnh: Littlebig


Chợ hoạt động trên diện tích khoảng 7 ha, với hai dãy gồm khu ăn uống, mua sắm và khu biểu diễn.

Trong ảnh là nhiều du khách tập trung ở cổng chính trước lúc chợ đêm mở cửa, hồi giữa tháng 10.


Khu chợ đêm với hơn 50 gian hàng ẩm thực bắt đầu mở từ chiều. Ngay từ lúc mở cửa, hương thơm của các món ăn lan tỏa khắp chợ.

Trong ảnh là quầy ẩm thực Sri Lanka với các món đặc trưng như cơm gà nướng roti, cơm xào rau củ (Sauteed Rice with vegetables).

Sauteed Rice có thành phần chính là cơm, rau củ, thịt có thể là gà, bò, hoặc hải sản được xào với các loại gia vị như bột cà ri, nghệ, hạt tiêu, tỏi, gừng và chanh. Món ăn cho vị cay nồng và béo, đặc trưng của ẩm thực Nam Á.


Khu vực ẩm thực châu Á thu hút đông khách và cộng đồng địa phương. Trong ảnh là quầy ẩm thực Hàn Quốc với món nổi tiếng teokbokki (bánh gạo nếp xào cay).

Teokbokki được nhiều trang ẩm thực tại Melbourne xếp vào danh sách các món đường phố ngon nhất, các cửa hàng bán món này cũng dễ tìm ở Melbourne. Giá một phần trong chợ là 15 AUD (250.000 đồng).


Thịt nướng là món ăn phổ biến nhất trong chợ, bởi nhìn đâu cũng thấy các các xiên thịt khổng lồ. Các món nướng đa dạng phong cách Á-Âu được chế biến từ cừu, gà, bò.

Trong ảnh là xiên cừu nướng trên bếp than, vận hành bằng hệ thống máy. Món ăn được thực hiện theo cách của người bản địa. Thịt là phần thăn hoặc sườn, được cắt nhỏ thành từng miếng để dễ xuyên vào xiên. Thịt cừu ướp gừng, tỏi, cà ri, hoặc gia vị Trung Đông, dầu ô liu, sau đó đem nướng trên than nóng già đến khi chín vàng bên ngoài, mọng nước bên trong. Món ăn có vị đậm đà, thơm hương thảo mộc và béo ngậy, ăn kèm bánh mì, salad hoặc chấm sốt từ sữa chua thêm bơ, tỏi, bạc hà.


Một phần thịt cừu cuộn trong bánh mì mềm có giá 26 AUD - tương đương giá một bữa trưa ở Australia.

Món thịt cừu kẹp bánh mì có thêm khoai tây chiên, salad rau củ, hành tây và cà chua, rưới nước sốt. Thực khách có thể mang đi hoặc thưởng thức tại khu tự phục vụ trong chợ.


Nhân viên của Boy Churrasco nướng thịt và xúc xích trên bếp than. Cửa hàng nổi tiếng với món thịt nướng kiểu Bồ Đào Nha kết hợp phong cách Brazil. Món được giới thiệu ăn nóng cùng mayonnaise sẽ "ngon đến miếng cuối cùng".

Thịt nướng cũng là món được người địa phương ưa thích. Nếu bạn là người mới đến, chưa biết làm thế nào để bắt chuyện với hàng xóm thì chỉ cần chuẩn bị một bữa BBQ, chắc chắn họ sẽ trở thành người hàng xóm thân thiện của bạn về sau.


Xếp hàng với hơn 30 người tại một quầy thịt nướng.


Quầy ẩm thực Italy với món Panzerotto - bánh ngọt hình bán nguyệt truyền thống, được chiên ngập dầu, giá16-20 AUD tùy theo nhân.

Queen Victoria Market còn có các món Tacos truyền thống Mexico, các món Halal của đạo Hồi. Mỗi phần có giá 16 - 28 AUD (270.000 - 480.000 đồng).


Sau khi thưởng thức món chính, du khách có thể đến các quầy thức uống, kem, bánh ngọt để chọn món tráng miệng với giá 10 - 20 AUD (170.000 - 340.000 đồng). Du khách có thể thanh toán bằng tiền mặt hoặc thẻ tín dụng.

 
Khu vực khách thưởng thức ẩm thực ngoài trời.

Queen Victoria được Tripadvisor nhận xét là điểm đến thân thiện, sôi động không chỉ về ẩm thực mà còn đa dạng văn hóa và các hoạt động giải trí với các điểm xem bài tarrot, mua sắm nữ trang, các buổi biểu diễn sôi động về đêm.

Lời khuyên cho du khách là hãy đi một vòng tham quan các gian hàng trước khi chọn món, bởi nhiều khách khi nhìn thấy món muốn thử thì bụng đã no.

Bài và ảnh: Tâm Phan
Theo: VnExpress
 
 
 
Xem thêm...
Theo dõi RSS này