Văn học nghệ thuật

Văn học nghệ thuật (1251)

Find out the latest local and worldwide news.

Children categories

Thơ

Thơ (23)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Âm nhạc

Âm nhạc (118)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...
Truyện

Truyện (247)

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Sed id auctor orci. Morbi gravida, nisl eu bibendum viverra, nunc lectus.

Xem bài viết...

Quà Sinh Nhật - Yên Sơn

Quà Sinh Nhật

Yên Sơn

***

Hai con cá vàng đã bao lần vẫy đuôi cố vượt thác để mong hóa rồng. Thấm thoát đã dư một chu kỳ đời sống mà theo người xưa là quá đủ, dẫu "em ơi có bao nhiêu...". Hai con cá đã nhiều lần lao mình lên vách đá nên trên đầu, trên mình đã có nhiều vết tích của sự kiên trì theo thời gian đi qua. Năm nay cá lại cố vượt vũ môn!

Cũng thật lạ! Những dấu tích thời gian không làm cho người ta ngần ngại mà vẫn cứ sống mạnh sống hùng. Cũng có thể "số phận con người như đồng tiền sấp ngữa, thì em ơi em có hiểu gì không..." Thế nên những đắm say vẫn còn, những bon chen vẫn hấp dẫn; và năm nay cá lại cố vượt vũ môn trong một niềm vui bất ngờ với một món quà từ trên trời rớt xuống. Món quà xem có vẻ rất đơn giản, rất bình thường nhưng không ai nghĩ ra vì nó nhẹ như tơ trời, nó bồng bềnh như cánh gió của một thuở xa xưa trong một dĩ vãng sống động, hào hùng; nó vui như món quà bất ngờ của mẹ về chợ ở những tháng ngày thật xa xôi trong tiềm thức mà vẫn rất gần như mới xảy ra hôm qua. Một gia đình với chục anh chị em, quanh năm lao đao với ruộng rẫy ngoài thời giờ mài miệt ở ghế nhà trường, có ai mong đợi gì có được một món quà chỉ có ở trong mơ?!

 

*

Tôi đang đứng mơ màng trong mưa bụi, mưa bay lất phất đậu trên tóc, trên áo với một chút gai lạnh đầu thu. Tôi đang mải mê ngắm cái đẹp rất lãng mạn của buổi chiều với những hạt mưa nghiêng nghiêng rất nhẹ trong công viên xanh ngát ở một nơi xa lạ. Bất chợt, không biết từ một thôi thúc nào, tôi nhảy đại lên một toa xe vừa ghé qua vội vã. Tôi đã va vào một người con gái làm cho người ta chới với. Đã vậy, tôi còn dịch tặng một bài thơ tiếng Anh rất trữ tình mà nàng đang cầm trên tay:

Why I love you (Gary R. Hess)

I've never seen you

Or touched your skin

I've never felt your lips

Or held you tight

But I know I love you

Not because of the way you look

Or because of that sexy voice

Not because of the things you say

But because of whom you are

When we meet I will kiss you

And hold you all night

I love everything about you

Because it's you

 

Tại Sao Anh Yêu Em (YS)

Dẫu chưa bao giờ anh gặp em

Chưa một lần hôn đôi môi mềm

Chưa từng đụng chạm làn da trắng

Má tựa vai kề tim sát tim

Nhưng anh biết rằng anh yêu em

Anh yêu em không phải vì em đẹp

Không phải vì lời thỏ thẻ dễ yêu

Cũng không vì những gì em nói

Nhưng chính vì em, chỉ bấy nhiêu

Anh sẽ hôn em nồng nàn khi mình gặp

Anh sẽ ôm ghì suốt cả canh thâu

Anh yêu quá những gì em đang có

Chính vì em, không phải vì đâu

Đưa bài thơ dịch xong mới thấy áy náy trong lòng vì những lời thơ quá nồng nàn, quá thân thiết. Toa xe không quá chật hẹp nhưng sao tôi vẫn chưa vội tìm chỗ ngồi mà cứ phải xớ rớ trộm nhìn, lòng tự hỏi lòng "không biết người ta có cho mình quá sổ sàng ở cái moment of truth không". Rồi lại tự mình bào chữa là chỉ dịch sát nghĩa bài thơ thôi chứ có "thêm thắt" gì đâu... nhưng sao vẫn lóng ngóng bất an trong khi nàng cứ làm thinh, ngó vào cõi mênh mông như không thấy tôi trước mặt. Trông dáng dấp nhỏ nhắn xinh xinh với đôi mắt xa vắng cùng suối tóc đen mượt mà chảy tràn trên bờ vai gầy làm lòng tôi chùng lại. Dường như tôi muốn nói một điều gì đó nhưng rồi lặng thinh, một lúc sau mới lủi thủi đi tìm một góc vắng để ngồi, thả hồn theo những áng mây trôi lãng đãng trong trời chiều hiu quạnh.

Con tàu vẫn lầm lũi chạy, vẫn bao người xuống lên nhưng nàng vẫn còn đó dường như đi về một nơi vô định. Trước khi tới nơi cần đổ bến, tôi lấy hết can đảm đi về phía nàng:

- Xin lỗi cô tôi tên là Khói, tôi có được vinh hạnh biết quý danh của cô không?

- Thực ra thì không cần thiết nhưng ông cứ gọi tôi là "Linh Hồn của Tre" - Nàng điềm đạm trả lời.

- Mong cô đừng nghĩ tôi quá tò mò nhưng xin hỏi cô có sắp đến nơi muốn đến chưa?

Nàng chậm rãi quay lại, ngó phớt qua tôi với đôi mắt buồn vời vợi rồi lại quay nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Mãi cả phút sau mới nghe tiếng trả lời:

- Thưa ông, nơi tôi tới đã tới lâu rồi!

- Sao vẫn còn đi?

- Vâng, tôi vẫn còn đi! Còn ông?

Giọng nàng nói rất từ tốn, nhẹ nhàng như một nốt nhạc chậm trong một bản tình ca. Tôi nghe như có một chút sầu muộn, một chút bâng khuâng:

- Cô ơi, tôi đã lên tàu trong vô thức từ sân ga nhà tôi, cũng vô thức xuống lên một nơi xa lạ như cô thấy đó và bây giờ tàu sắp quay về bến đổ.

Không gian như lắng xuống, khoảng cách giữa tôi và nàng như xa hơn vì không còn nghe nàng nói gì nữa. Nàng vẫn ngồi yên ngó ra ngoài như mải dỏi theo một phim truyện lôi cuốn. Khi bước xuống sân ga, tôi cố vẫy tay chào nhưng nàng đã lặng lẽ quay lưng đi khuất vào trong. Bẵng đi một dạo lâu, tôi chợt thấy tên nàng trên một diễn đàn quen. Nàng hay post lên diễn đàn những bài nhạc hay, những tin tức liên quan đến tệ nạn quê nhà, một vài bài thơ ngoại quốc, một ít thơ của mình. Tôi cố tình thăm hỏi nhưng thỉnh thoảng nàng mới trả lời vẫn như phong cách ngày nào đối diện. Bỗng một hôm tôi đọc bài viết của nàng với một câu xanh rờn hoa lá "đây là bài viết cuối cùng, sẽ không bao giờ trở lại". Tôi viết vội mấy câu vừa đùa giỡn vừa khuyên ngăn nàng:

trời ơi đừng bỏ tui đi

đời tui còn gì lại bị chia tay

chuyện người ví tợ mây bay

chuyện dở thì bỏ,

chuyện hay giả nhời

bạn nè... ông bạn tui ơi

khoan khoan đứng lại cho tui nói đôi lời được chăng

cô hai hàng xóm nói rằng

"người ấy" không biết giận răng ôn nờ thiệt hôn hay tại tui khờ?!

Thế nhưng nàng vẫn biệt tăm. Tôi lại bâng khuâng dò tìm những gì mình đã viết cho nàng để tìm một nguyên do nào đó có thể làm nàng phật ý... nhưng không tìm ra. Rồi ngày tháng cứ đong đưa, đong đưa... Một hôm tôi thấy tôi tìm về chốn cũ, đi trong mưa bụi để nhớ về một kỷ niệm đã qua. Tôi về ngồi viết thư cho nàng, gửi lên diễn đàn cũ xin tấm hình mưa bụi đã một lần nhìn thấy. Nghĩ tới thì viết chứ có ai mong đợi gì trong những tháng năm đăng đẳng đó chắc gì người ta còn nhớ đến mình; hơn nữa, lại gửi đến nơi mà người ta đã viết "sẽ không bao giờ trở lại!" Vậy mà nàng nhận được và trả lời sau một thời gian khá lâu!

“Kính anh,

Nhận được cái e-mail ni chắc anh rất ngạc nhiên vì LHcT biệt tăm biệt tích lâu ni, chừ tự dưng anh lại nhận được e-mail. Thật ra thì từ ngày giã biệt "cuộc chơi" mà không gửi được lời

chào đến anh, bứt rứt trong bụng lắm nhưng vì tâm hồn bất an, chao đảo quá nên không muốn làm gì cả. Bữa ni, dù vẫn chưa tìm lại được thăng bằng cho tâm hồn mình, nhưng đã có được một chút an bình; vì vậy, xin viết vài hàng gửi anh thay cho một lời xin lỗi và lời chào đến anh, một người mà tôi kính như người anh và mến như một người bạn thơ. Nhân tiện mời anh cùng nghe một bản nhạc hay.”

Trong bài nhạc có một đoạn thật hay, được lặp đi lặp lại nhiều lần; và tôi lại mò mẫm dịch phóng đoạn nhạc gửi lại cho nàng:

If my heart had wings

I would fly to you and lie

Beside you as you dream

If my heart had wings

If my heart had wings

I would fly to you and lie

Beside you as you dream

If my heart had wings

Nếu tim anh mọc cánh

Anh bay đến bên em

Mình nằm thủ thỉ hằng đêm

Như cơn mộng mị êm đềm rất thơ

Phải chi tim anh có cánh

Bay về ở cạnh bên êm

Tháng ngày dài bỗng dài thêm

Mà mơ với mộng hằng đêm... thật buồn

Và từ đó thư đi thư về có phần đều đặn hơn, càng ngày càng thông cảm, càng cởi mở tâm tình hơn. Hai chúng tôi ở cách xa nhau gần nửa vòng trái đất. Khi tôi uống café sáng là lúc nàng đang làm việc, và khi tôi đi ngủ là lúc nàng chuẩn bị đi làm. Chúng tôi kể cho nhau nghe về những kỷ niệm ấu thời, những buồn vui cuộc sống; chuyện quê hương đất nước, chuyện trên trời dưới đất, chuyện sinh hoạt hàng ngày... Đặc biệt tôi tìm thấy ở nàng tình yêu quê hương tổ quốc thật sâu đậm, tình người thật nồng nàn, nhân hậu; lẻ sống thật đơn giản nhưng lúc nào cũng cố gắng chu toàn trách nhiệm và bổn phận. Khi được hỏi có bao giờ gặp lại, nàng chỉ trả lời tất cả tùy duyên, gửi cho tôi hai câu thơ rất... chung chung:

Cứ hò hẹn như người trên phố ảo Cuộc đời này là tin nhắn với thơ suông.

Hôm cá sắp vượt vũ môn, tôi có cơ hội "chat" với nàng:

- Nhà anh cách Ellington Field bao xa?

- Chi vậy? Khoảng một tiếng lái xe!

- Bộ sắp đi việc hãng ghé ngang phi trường này huh?

- Không, chỉ hỏi cho biết địa dư thôi

- Sao đặc biệt là Ellington Field?

- Chỉ buột miệng nói chứ không có gì đặc biệt!

- Sao tui nghi quá!

- Ngày mô anh nghỉ dạy?

- Sau trưa thứ Bảy và nguyên ngày Chủ Nhật.

- Anh có thể có chừng ba tiếng đồng hồ, kể cả giờ lái xe không?

- Nhưng chi vậy, đừng làm người ta thắc mắc quá mà!

- Chưa biết chắc ra sao nhưng không thể nói trước được. Bao giờ chắc chắn sẽ cho anh hay.

- Qua thì nói qua cho rồi, úp úp mở mở làm cho người ta hồi hộp muốn chết!

- Không nói được muh!

Trong đầu tôi chắc mẫm "có lẽ nàng đi công tác cho hãng và sẽ ghé qua phi trường Ellington Field chừng tiếng đồng hồ". Nàng vẫn nói với tôi rất thường đi công tác ở các nước Âu châu và đã có một lần qua đến Mỹ:

- Nhưng nếu O tình cờ qua đây chỉ cần gọi điện thoại tui sẽ chạy tới "say HI" bất cứ lúc nào.

- Không qua mô! Chỉ là nói cho có chuyện nói thôi anh!

- Sao tui nghi quá!

Tôi vẫn đinh ninh, hồi hộp không biết nàng qua tới lúc nào. Mấy hôm sau tôi mới nhận được một email vỏn vẹn mấy câu làm tôi bàng hoàng không ít.

Anh gọi đến số: 713-649-5400 (Flying Tigers) và hỏi cô Victoria Laguna. Em đã mua cho anh một cái gift certificate theo họ đề nghị. Anh nói chuyện với họ để xếp đặt ngày nào thuận tiện cho anh há... em liên lạc với họ qua email nên chỉ biết được là anh có khoảng ½ giờ bay lòng vòng Houston với instructor. Em có nói với họ ngày xưa anh là phi công của South-Vietnam Airforce và họ nói với em là anh có thể tự tay điều khiển khi phi cơ đã ở trên trời... Họ nói vì anh đã không bay quá nhiều năm thì chỉ nên mua cái Discovery Flight là hợp lý nhất. Em không rành chuyện bay bổng nên chỉ nghe theo lời họ. Đây là món quà Sinh Nhật khiêm nhường của em. Cầu mong anh có một Sinh Nhật vui vẻ!

Đọc xong mấy dòng chữ tôi thừ người nghỉ ngợi hàng giờ! Cả một quá khứ hiện về làm tôi lao đao mất ngủ. Một quá khứ với biết bao nhiêu giờ đổ mồ hôi với các huấn luyện viên khó tính của các loại máy báy T41, T28, C123K, C130A và sau cùng là AC119K! Một quá khứ với nhiều gian lao, nguy hiểm không sờn lòng nhưng đầy nước mắt khi bạn bè chung đơn vị lần lượt hy sinh trên các chiến trường trong những ngày chinh chiến cũ. Một quá khứ thương ơi cho số phận phi công nhược tiểu, sống trong thiếu thốn trăm bề nhưng vẫn cười ngạo nghễ với tử sinh và sẵn sàng chết để bảo vệ an nguy cho dân, cho nước. Bao nhiêu lần chạm tay với tử thần để rồi một sớm một chiều sẩy đàn tan nghé trong đau thương, uất nhục!

Tôi mơ màng với cảm giác lâng lâng trên cánh gió; tôi hình dung chạm tay vào cần lái, một cảm giác tê điếng sau 34 năm tưởng đã lãng quên. Tôi nghĩ tới không gian bao la trong một ngày nắng đẹp. Ôi cũng không gian bao la với bao nhiêu lần nắng đẹp khi đi đó đi đây bằng phi cơ, nhưng khác rất nhiều vì trong không gian bao la đó tôi có dự phần điều khiển con tàu với tất cả cảm nhận sống lại một thời vàng son đã vuột khỏi tầm tay trong kinh hoàng, trong vội vã! Ôi một món quà tặng nhỏ nhoi nhưng nói lên biết bao nhiêu điều. Một món quà không ai nghĩ ra đã chứa đựng cả một trời dĩ vãng, chứa đựng một tấm lòng sâu sắc.

Của một thời bay bổng

Người bạn KQ đã dành thì giờ làm cho tôi một clip vui với những hình ảnh các loại phi cơ tôi đã một thời bay qua. Post lên đây chia sẻ cùng quý vị.

* * *

Tôi đã gọi điện thoại cho Victoria Laguna và hẹn 2 giờ chiều ngày thứ Bảy. Cô ta dặn đến sớm hơn một chút để dự phần "pre-flight briefing". Nghe cụm chữ quen thuộc mà lòng buồn nao nao. Nỗi xao xuyến trong lòng lâu lâu lại rộn lên như nhắp phải men rượu mạnh. Nhất là tối thứ Sáu, tôi ngủ trong phập phồng, mộng mị. Tôi tự trấn an "chỉ là ngồi chung với instructor nửa tiếng thôi mà!" Trong đầu cứ tự hỏi không biết có còn nhớ cách điều khiển con tàu không nữa! Lúc gần sáng tôi ngồi bật dậy mở hé cửa sổ nhìn ra bầu trời đen ngòm, dường như thấy cả bầu trời âm u, tôi lẩm bẩm "coi chừng thời tiết xấu không bay hôm nay được"! Tôi tỉnh ngủ, đi ra bếp pha café ngồi ngó ra cửa sổ thở dài chờ sáng! Bỗng dưng mây ở đâu kéo đến che kín trời đất, gió thổi lồng lộng. Tôi bực mình quá, nói lớn "thiệt tình ông trời!" Bỗng nghe tiếng nhà tôi vừa lay vai vừa nói:

- Anh à! Anh đang mơ thấy gì mà la lớn quá vậy?

- Hôm nay đã hẹn đi bay mà trời khi không nổi giông nổi gió!

- Đâu có đâu! Anh đang nằm ngủ trên giường sao biết được trời nổi giông gió ngày mai?

- Oh! Chỉ là giấc mơ thôi hả! Tôi vui mừng reo lên.

- Vâng, chỉ là giấc mơ!

Nhà tôi vổ vổ lên vai tôi như chia sẻ, thông cảm. Tôi tự cấu vào tay mình thấy đau, bước xuống giường vạch màn ngó ra cửa sổ... cho chắc ăn. Bên ngoài trăng sao vời vợi. Tôi yên tâm leo lên giường trùm chăn ngủ tiếp. Nhưng thật ra có ngủ được đâu, vẫn thao thao thức thức chờ sáng.

* * *

Buổi sáng lóng ngóng ngồi đọc thư trên net, uống café rồi đi ra vườn tưới nước cho hoa cỏ. Trời rất đẹp nhưng nhiều gió. Tôi lại nhớ về những kỷ niệm năm xưa với những lần đáp với gió ngang, gió giật ở các phi trường Pleiku, Quy Nhơn, Liên Khương, Sông Bé, Dương Đông...; những bữa ăn trưa cá độ với các trưởng phi cơ "ai đáp dở trả tiền ăn hôm nay". Đáp hay hay dở, ngoài sự khéo tay còn tùy thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết.

Tôi bật cười thành tiếng khi nhớ lại kỷ niệm "bay check out C123K" với một người Huấn Luyện Viên đang ở Houston bây giờ. Đó là thời gian chúng tôi mới về nước. Bất kể hồ sơ trường bay ra sao, chúng tôi đều phải bay một số giờ tái huấn luyện và check out hành quân. Check out nhanh hay chậm đều tùy thuộc vào khả năng bay bổng của mỗi người. Không biết sao hôm đó cả ba chúng tôi gồm có hai người bạn Khuyến Michigan và Hoàng Colorado - nguyên là ba tay "gạo cội" ở trường bay - được ông Đại Úy Bằng Phong ĐVA mang đi check out. Niên trưởng dễ thương này hồi ở phi đoàn nổi tiếng "chảnh" và "hắc ám".

Hôm đó ở phi trường Chơn Thành gió ngang rất mạnh. Sau một hồi giảng giải trên không, ông nói là "để tôi xem ba ông có đủ sức bay hành quân chưa". Ba đứa tôi thay phiên nhau cất cánh và đáp. Cả ba chúng tôi bay cở nào cũng bị chê, nào là đáp với tốc độ còn cao, round out hơi lâu, vào base không giữ tốc độ, quẹo hơi gắt, đáp hơi nặng, cất cánh hơi rough... Nghe ông chê bai chạm tự ái hết sức, cả ba đứa chỉ biết đưa mắt nhìn nhau phát quạu trong lòng.

- Mấy ông coi tôi đây này

Ông vừa bay vừa giảng giải lý thuyết, tới final approach ông chỉ con số ở đầu phi đạo:

- Mấy ông thấy con số phi đạo đó không, tôi sẽ chạm một bánh ngay con số cho các ông xem

Coi này, tốc độ nhé, decending rate đều đặn nhé, roud out này... này... rầm!

Tôi thót mông lên khỏi ghế lái, cả ba bật cười lớn cùng lúc. Máy bay đã đáp đúng con số nhưng mạnh quá làm giật mình. Ông thầy nổi giận, đỏ mặt tía tai:

- Mấy ông cười cái gì!

- Dạ hơi bị ê... ông thầy!

- Mấy ông có biết đó gọi là tactical landing không?

Tôi nhanh nhẩu đáp:

- Dạ thưa Đại Úy biết, nhưng mục đích tactical landing là nhằm tránh hot spot; mình từ trên cao độ, nhào xuống gấp và đáp một phát một với tối thiểu round out.

- Ông giỏi lý sự tôi về cho ông mấy củ bây giờ! (củ là bị phạt kỷ luật)

Tôi giật mình lo lắng "coi chừng không bị ký giấy phạt cũng bị cho điểm xấu thì than ôi... tiếp tục bay check out nữa!" Dù vậy, trong thâm tâm tôi cũng cảm phục tài bay của xếp. Vì với gió ngang và giật 25-35 knots/giờ như vậy mà ông đáp một chân lại đáp đúng spot mới thiên tài. Có lẽ phản ứng của chúng tôi là để trả thù vặt việc ông chê bai tụi tôi hết cách. Thế nhưng hú hồn, sau chuyến bay hôm đó cả ba chúng tôi đều được "ra ràng".

* * *

Xong ngoài vườn tôi trở vô nhà lôi chiếc áo bay cũ đã 34 năm qua chưa hề mặc lại. Nói là cũ chứ thật ra là chiếc áo mới nhất mà tôi giữ lại được, không đầy đủ phù hiệu, không có lon lá như những chiếc tôi đã nhanh chóng bỏ đi sau khi đến đất Mỹ năm xưa. Hồi đó chỉ nghĩ đơn giản là "mai mốt mình sẽ trở về" nên chỉ giữ lại cái mới nhất để dùng. Nếu biết trước "một đi không trở lại" chắc chắn tôi đã giữ tất cả dù cho cũ nát, sờn rách. Tôi mân mê chiếc áo với vô vàn xúc động. Tôi vuốt ve thân thiết chiếc áo một lúc xong xỏ chân vào với hy vọng còn mặc được. Tay tôi run run kéo tất cả zippers y theo trí nhớ hình ảnh ngày xưa của mình. Bộ đồ có hơi chật, có lẽ cái bụng đã lớn hơn với bơ sữa quê người. Tôi thót bụng kéo zipper lên, đội chiếc ca-lô lên đầu

và lặng ngắm mình trong gương với lưng tròng nước mắt... Tôi gọi nhà tôi chụp cho tôi tấm hình đứng trước bức tranh khổ lớn, chiếc Hercules C130A thân mến năm xưa. Bức hình này của Khiêm nháy đã in ra tặng cho bạn bè cùng phi đoàn 435 cũ. Tôi cố gượng cười nhưng sao tim mình nghe quặn thắt. Tôi xếp vội bộ đồ bay bỏ vào túi xách để mang theo, dự định đến trường bay sẽ thay đổi.

Mới hơn 11giờ rưỡi tôi đã hối thúc nhà tôi lên xe, chạy một mạch tới trường bay. Thời tiết rất lý tưởng cho chuyến bay hôm nay dù gió có hơi mạnh. Khi vào check in thì mới biết mình có trong danh sách bay discovery vào 2 giờ ngày mai, Chủ Nhật, chứ không phải hôm nay. Cô Victoria Laguna không có mặt lại không liên lạc được bằng điện thoại.

Tôi lầu bầu, cằn nhằn với một người tưởng đâu là nhân viên văn phòng, hóa ra lại là một Huấn luyện viên. Cô ấy nói:

- Cũng tốt cho ông thôi vì hôm nay gió cũng khá lớn.

- Tôi lại thích bay hôm nay, một ngày quá đẹp, tôi thiệt tình không muốn phải dời lại ngày mai! Cô có cách nào thay đổi cho tôi không, có huấn luyện viên nào khả dụng không?

- Xin lỗi không thể thay đổi được, thời khóa biểu đầy kín rồi, người chịu trách nhiệm lại không có ở đây, không có huấn luyện viên nào khả dụng. Vô vàn xin lỗi nhưng ngày mai, ông biết không, thời tiết tiên đoán sẽ đẹp hơn hôm nay nhiều.

Nỗi xao xuyến trong lòng tôi xẹp xuống nhanh chóng. Tôi cùng nhà tôi lủi thủi ra về, chấp nhận sự an bài như thế với câu an ủi trong đầu "cái gì xảy ra cũng có lý do của nó"!

 

* * *

Buổi sáng với màu nắng rực rỡ, lòng tôi lại dấy lên nỗi xao xuyến rộn ràng. Đúng 2 giờ thiếu 15 phút ngày Chủ Nhật chúng tôi đã có mặt tại trường bay Flying Tigers. Tôi ngồi nói chuyện với Huấn luyện viên một lúc xong xin phép ông ta được mặc đồ bay, ông ta rất vui vẻ nhận lời. Tôi vào phòng nghỉ để thay đổi rồi đứng ngắm mình trong gương... ôi một thời bay bổng năm xưa lại hiển hiện trở về! Tôi nghẹn ngào, tôi xúc động, phải đứng một lúc để lấy lại thăng bằng. Khi tôi bước ra phòng đợi với bộ đồ bay gọn ghẻ trên người, mũ ca-lô trên đầu, có nhiều cặp mắt nhìn tôi chăm chăm, tôi bỗng dưng thấy ngường ngượng, nói trống không như để phân bua:

- Bộ đồ này đã 34 năm rồi tôi mới mặc lại lần đầu, cũng may là tôi không quá mập! Người HLV nhìn tôi cười nói:

- Ông nên hãnh diện về sức khỏe của ông. Ông trông vẫn còn rất phong độ trong bộ đồ bay Không quân.

- Cám ơn ông, phong độ của một người lỡ vận! - Tôi mỉm cười với một chút hãnh diện. Tôi xin cho nhà tôi cùng bay với tôi; HLV vui vẻ trả lời, chỉ cần trả thêm $40 và ngồi ở ghế sau. Chúng tôi nhận headset và mang theo máy chụp hình cùng với HLV đi ra sân đậu. Nắng vàng vương nhẹ khắp nơi trong một không gian cao vút; gió cũng không mạnh như trưa hôm qua, quả là một ngày lý tưởng để bay vòng thành phố.

Chiếc Cheetah một động cơ nhưng lớn hơn nhiều so với chiếc T41 tôi đã từng bay. Lòng tàu nhỏ hẹp cho 2 ghế trước và hai ghế sau. Tôi theo chân người HLV làm pre-flight. Tay cầm checklist, mắt ngó vào những cơ phận cần thiết. Xong lên ngồi trong cockpit, mang headphone vào, mở intercom, lại đọc từng mục từng phần trong checklist. Người HLV rất dễ thương, chỉ cho tôi rất kỹ với câu nói "chắc là ông không lạ gì lắm với cái này... cái này". Đây là mixture, vẫn là Throttle, flaps, trim, đủ loại đồng hồ... 2 pedal vừa là thắng, vừa là rudder... xong đâu đó, vặn tần số Không lưu để xin di chuyển. HLV nói với tôi ông ấy sẽ giữ phần liên lạc và sẽ phụ tôi khi thấy cần thiết.

Phải một lúc khá lâu tôi mới nghe hiểu phần đối đáp với không lưu. Ông thầy cho phép tôi mở máy và di chuyển khi được lệnh. Tôi taxi hơi quờ quạng lúc đầu, con tàu cứ đi ngoằn ngòeo theo lằn chỉ vàng đưới đất, nhưng chỉ một lúc rồi cũng thẳng nếp như xưa. Tới khu warm-up trước khi cất cánh; HLV vừa làm vừa chỉ tỉ mỉ như dạy học trò, xong đưa tàu đến vị trí số một để cất cánh. Ông nói với tôi "tôi để ông tự cất cánh và tôi chỉ để hờ hai chân trên bàn đạp cũng như tay trên bánh lái để bảo đảm sự an toàn đòi hỏi, khi nào đạt được tốc độ 55-60 knots/giờ ông có thể kéo lên; tiếp tục lên cao độ 1200 bộ thì bình phi, lấy về hướng biển, khu Kemah".

Khi không lưu cho phép cất cánh, tôi nhả thắng, từ từ đẩy hết throttle, hai chân điều khiển để con tàu chạy thẳng tới. Khi kim đồng hồ chỉ tốc độ 55MPH, tôi nhẹ nhàng bốc mình lên không, theo chỉ dẫn của không lưu và HLV, tôi quẹo về phía Kemah, tiếp tục bay lên tới cao độ 1200 feet thì bình phi. Tôi tự động sử dụng trim để con tàu giữ cao độ một cách thành thục. Tôi cũng vui mừng là tất cả kinh nghiệm cũ hối hả trở lại trong sự hồi hộp lẫn sung sướng. Ông thầy chỉ dẫn những check points dưới đất và nhắc tôi ngó trái ngó phải clearance. Sau một lúc ông lại nhắc tôi quay đầu trở về. Tôi lấy làm lạ, cứ ngỡ mình mới lên sao đã trở về! Nhìn đồng hồ tay thì quả nhiên đã gần hết nửa tiếng! Ông chỉ tôi hướng trở lại phi trường, vào base line, rồi final approach. HLV nói với tôi "ông bay rất rành rõi, tôi để ông tự đáp nhé?". Tôi quá vui mừng "yes sir" lia lịa. Tôi giảm tốc độ, thả flap decending, nhắm con số đầu phi đạo.

Tôi round out hơi lâu, cố đáp nhẹ nhàng, nhưng ông thầy nói đáp xuống đi chứ... Tôi nhấn mủi xuống một chút, cắt power và chạm bánh nhẹ nhàng trên phi đạo... hai chân làm việc để giữ thân tàu chạy thẳng. Đến chỗ taxi off đường băng, tôi thở phào nhẹ nhõm, vui mừng. Tôi ngó ông thầy mỉm cười và cám ơn; ông thầy ngó tôi, ngợi khen qua intercom "khả năng bay của ông vẫn còn hầu như nguyên vẹn; ông sẽ không cần tốn nhiều giờ để bay một mình trở lại". "Theo ông nghĩ tôi phải tốn mấy tiếng?" "Theo tôi khoảng 4 tiếng là nhiều"!

Khi con tàu trở lại bến đậu, ông thầy take control và tôi mới nhớ là còn có nhà tôi ngồi ở ghế sau! Tôi không thể tưởng tượng vì quá chú tâm vào việc bay bổng đến nỗi quên luôn vợ ngồi ngay sau lưng mình! Tôi quay lại cười cầu tài với vợ và nàng đưa máy lên bấm một "pô" hình. Tôi bước xuống tàu với nhiều luyến tiếc!

Trên đường về lòng tôi lâng lâng cảm giác còn tồn đọng với nỗi vui khôn tả. Nắng vẫn vàng và trời vẫn trong xanh cao vút. Chỉ còn hơn một tháng nữa là đúng 34 năm ngày bỏ nước ra đi. 34 năm dài chưa một lần đặt chân vào phòng lái, chưa một lần sống lại trọn vẹn với kỷ niệm huy hoàng năm nao. Lòng tôi chùng lại nghĩ về một nơi chốn thân yêu, một dải non sông gấm vóc bên kia bờ đại dương xa thẳm.

Cám ơn bạn, cám ơn một tấm lòng sâu sắc đã cho tôi một niềm vui rất bất ngờ trong đời, một món quà vô cùng ý nghĩa và quý giá!

 

Yên Sơn

 

 

 

Xem thêm...

TÌNH BỖNG KHÓI SƯƠNG - Pham Anh Dũng

TÌNH BỖNG KHÓI SƯƠNG

Phạm Anh Dũng


    Sinh ngày 1-1-1949 tại Duyên Hà, Thái Bình. Hiện tại đang hành nghề Y Khoa Gia Đình ở Santa Maria, California.
    Học sinh VTT lớp 59-66
    Đã phát hành:
    1991: Tập nhạc Tình Khúc Hồi Hương gồm 12 tình khúc trong đó có 6 bản là thơ phổ nhạc của các thi sĩ trong gia đình Y Khoa như Đinh Tuấn, Phạm Thế Trường... Bìa và phụ bản do họa sĩ Mùi Quý Bồng. Nhạc sĩ Phạm Duy đề tựa. Duy Cường soạn hòa âm cho tây ban cầm.
    1992: CD Tình Khúc Hồi Hương do chính tác giả hát các nhạc phẩm trong tập nhạc Tình Khúc Hồi Hương. Quốc Dũng hòa âm.
    1993: tái bản tập nhạc Tình Khúc Hồi Hương.
    1993: CD Đưa Người Về Phương Đông gồm 12 tình khúc trong đó 6 bản là nhạc phổ thơ của những thi sĩ nổi tiếng như Nguyên Sa, Du Tử Lê... Duy Cường phụ trách hòa âm. Các ca sĩ trình bầy: Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Duy Trác, Mai Hương, Lệ Thu. Họa sĩ Khánh Trường vẽ bìa.
    2002: CD Tình Bỗng Khói Sương, gồm 10 luân vũ khúc phổ thơ Phạm Ngọc. Quốc Dũng hòa âm. Các ca sĩ là Mỹ Tâm, Mỹ Lệ, Bảo Yến, Nhã Phương, Vân Khánh, Khắc Dũng.
    2003: CD Quên, 12 tình khúc phổ thơ Vương Ngọc Long. Quốc Dũng hòa âm. Ca sĩ: Bảo Yến, Mỹ Lệ, Quang Minh, Tấn Đạt, Nhã Phương, Đoan Trang. Bìa CD do Đinh Cường vẽ.
    2004: CD Nắng Mùa, tiếng hát Mỹ Khanh, nhạc Phạm Anh Dũng phổ thơ Phạm Ngọc, Quang Anh hòa âm, Đỗ Duy Ngọc trình bầy.
    2004: CD Dạ Quỳnh Hương, tình ca Phạm Anh Dũng phổ thơ Đinh Hùng, Phạm Ngọc, Trần Ngọc, Vương Ngọc Long, Hoàng Xuân Sơn, Huỳnh Nguyễn Thanh Tâm, Thơ Thơ, Mỹ Ngọc, Hồng Khắc Kim Mai và Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, Quốc Dũng hòa âm, Đỗ Duy Ngọc trình bầy. Các ca sĩ là Bảo Yến, Nhã Phương, Quang Minh, Hạnh Nguyên, Khắc Dũng, Đoan Trang, Vân Khánh.
    2005: CD Mùa Xuân Thung Lũng Hoa Vàng, tình ca Vũ Đức Nghiêm - Phạm Anh Dũng. Duy Cường, Lê Huy, Quang Đạt, Giang Đông, Nguyễn Quang hòa âm. Các ca sĩ là Tấn Đạt, Ái Vân, Bảo Yến, Quang Minh, Quỳn Lan, Nguyễn Hoàng Hương, Lệ Thu, Mỹ Lệ, Thái Hiền.
    2005: CD Nghiêng, tình ca Phạm Anh Dũng, 15 bài nhạc phổ thơ, phổ thơ Phạm Anh Dũng, Du Tử Lê, Bảo Trâm, Trường Đinh, Phạm Ngọc, Y Dịch, Huỳnh Nguyễn Thanh Tâm, Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, Đình Nguyên, Cung Vũ, T.G., Thơ Thơ và Trần Mộng Tú. Duy Cường Quang Đạt Đông Nguyễn hòa âm, Đỗ Duy Ngọc trình bầy. Các ca sĩ là Quỳnh Lan, Duy Trác, Quang Minh, Tuấn Ngọc, Quỳnh Giao, Khắc Dũng.

 ***********

Có lẽ tôi chỉ là một người " đi chậm " so với " thời cuộc " khi nhắc lại CD Tình Bỗng Khói Sương của nhạc sĩ Phạm Anh Dũng mà trong đó là trọn vẹn 10 bài thơ của nhà thơ Phạm Ngọc được phổ thành nhạc từ năm 2002 .


Bây giờ là năm 2004 , tôi mới cầm bút viết những dòng này , có thể là muộn... so với những người đã được nghe, nhưng sẽ là không muộn ( với những người chưa từng được nghe ) . Đối với những người như chúng tôi , ở một nơi khá đông người Việt sinh sống nhưng thật ... xa nơi phát hành CD thì qủa thực CD Tình Bỗng Khói Sương cho đên giờ phút này, vẫn còn là rất mới .

Sở dĩ cho tới lúc này tôi mới viết cảm nghĩ của mình , cũng bởi là vì , tuy CD được phát hành từ lâu , nhưng tôi không có CD gốc trong tay mà phải chờ đến khi CD được bỏ lên mạng , tôi nhờ nhiều người giúp đỡ để có thể thu hết hoàn chỉnh vào CD cho riêng mình .

Tôi chỉ muốn nhắc lại một chút về ngày ấy ... Khi tôi mới làm quen với trang web Đặc Trưng , chân ướt chân ráo tham dự , tôi có biết nhạc sĩ Phạm Anh Dũng qua bài Quỳnh ... ( cũng phổ từ thơ ra và trong một lúc ... tôi còn dám cả gan " họa " tặng lại anh bài thơ ấy ... Tôi bắt đầu đi tìm hiểu về người nhạc sĩ này qua những bản nhạc , lời thơ anh đưa lên ... Thật bất ngờ khi một lần tôi " tò mò ".

- Thế anh Phạm Anh Dũng làm nghề gì chính ? nhạc sĩ ư ?

- Không đâu ND , anh ấy là Bác Sĩ - ND phải gọi bằng " chú " đó vì ... lớn tuổi rồi .
( người bạn trả lời )

Tôi bật cười câu " chú " ngồ ngộ mà người bạn nói . Nhưng lại thật sửng sốt khi biết nghề chính của anh , người đời vẫn dành cho 5 chữ trân trọng " Lương Y Như Từ Mẫu " khi nhắc đến - ( không biết 5 chữ đó xuất xứ của ai .. mà quan trọng gì là của ai ) nhưng với tôi đó là câu nói hay để chỉ những người làm nghề cứu người .
Vâng , một bác sĩ ( tôi không muốn gọi anh là người áo trắng ) mà chỉ muốn gọi anh bằng đúng từ đúng chữ của nghề nghiệp chính anh đã , đang làm ... Một bác sĩ - mà có một số lượng văn , thơ , nhạc đồ sộ thật khâm phục . Tôi không trò chuyện với anh bao giờ , vì thế những gì tôi viết chỉ là cảm nhận riêng tôi trên con đường theo ... và nghe nhạc anh .

Nhạc Phạm Anh Dũng - nhiều lần tôi tự hỏi , đó có phải là sản phẩm của trí tuệ , của tình cảm không ? Vâng - có đấy nhạc của anh thanh cao , tinh khiết và đôi khi mơ hồ . Nó ảo diệu như một làn sương mai và đẹp như những giọt nước mắt của những người ... lớn tuổi . Có thể tôi hơi ví von mà nói vậy . Nhưng mà , tôi đã nghĩ như thế . Bởi vì với nghề nghiệp của anh ... có điều gì ? Hạnh phúc hay đau khổ mà anh chưa từng gặp đâu .Và âm nhạc của Phạm Anh Dũng là như thế ... hàng chuỗi âm thanh ... lúc bập bùng , lúc thánh thót bỗng trở nên mê hoặc đến lạ thường . Từng giọt , từng giọt nhạc của anh ngấm vào tâm hồn tôi , và ngấm cả vào tâm hồn những người đang nằm trên giường bệnh chịu đựng những cơn đau thể xác , có thể ngày mai họ sẽ còn , có thể ngày mai họ vĩnh viễn ra đi ... Cứ thế âm nhạc Phạm Anh Dũng được tôn vinh , vượt qua cả giá trị thuần túy đời thường để chảy vào hồn người với tất cả những gì Anh - và những người làm thơ được anh phổ nhạc dẫn dắt .- Phải chăng đó là sự đồng cảm giữa anh và người làm thơ ? ( điều này có lẽ rất hiếm xảy ra ). Vâng , những bản nhạc của anh với chúng tôi ở đây nói chung và với riêng tôi thật quá đỗi ngọt ngào , nó chảy vào tâm khảm từng người , nó xoa dịu nỗi đau và làm thăng hoa những tâm hồn khắc khoải giữa cuộc đời rộng lớn . Nhạc của anh cũng như nghề nghiệp của anh trọn vẹn trong hai chữ " nhân ái " ... Phần lớn những ca khúc của anh dành cho thiên nhiên cho con người ... Cho nên những cảm xúc trong anh trở thành thơ , giấu kín tâm tình của anh để rồi bằng âm nhạc đã bay lên , đã ngân nga hiện hữu trọn vẹn và đầy đủ những suy cảm của anh . Vậy nên tôi thật sự ngạc nhiên khi trong âm nhạc của anh lại thấm đượm tính trữ tình , lãng mạn và lời ca giàu chất thơ , hàm súc những ý tưởng sâu sắc của anh như thế .

Bây giờ , tôi muốn trở lại với CD Tình Bỗng Khói Sương . Tôi đã nghe , những bài hát trong đó không biết bao nhiêu lần, kể từ ngày có riêng CD tự làm ấy ... Có những bản tôi đã thuộc lòng , đôi khi còn hát khe khẽ theo nữa . Có lẽ vì trong đó có giọng ca của ca sĩ Bảo Yến .. người mà tôi biết đã từ lâu , dạo Bảo Yến mới từ Cần Thơ lên Sài Gòn và suốt ngày xuất hiện trên ti-vi cùng em gái là ca sĩ Nhã Phương . Các bạn đừng cười tôi , nếu tôi thành thật nói rằng ... tôi cũng từng " chạy " theo sô diễn của Bảo Yến khi ấy chỉ để .. nghe không thôi - Giọng ca của Bảo Yến vẫn là một giọng ...lạ ... khó bắt chước mà khi nghe bất cứ bài hát nào thì tôi cũng dường đều bắt gặp chính tôi trong đó ...

Ở CD Tình Bỗng Khói Sương , tôi lại lần nữa gặp Bảo Yến mà tôi thích dạo nào ... Với lời thơ Phạm Ngọc ...


Nhắc đến nhà thơ Phạm Ngọc , tôi cũng không hề biết anh, cũng chưa trò chuyện cùng anh bao giờ như với nhạc sĩ Phạm Anh Dũng ... Tôi chỉ theo anh ... theo dòng thơ của anh mà tôi thường cho là lạ , nhưng da diết , thắm thiết , xót xa , huyền bí nhưng cũng tươi sáng chưá đầy nhạc tính ... Những ngôn từ anh viết là mới là thật tình cảm . Mà nét đặc sắc ấy tôi chỉ tình cờ phát hiện ra khi vô tình lang thang net và đọc bài phỏng vấn về anh của chị Hương Kiều Loan, thơ Phạm Ngọc ... Có lẽ cũng là một hiện tượng lạ như anh trả lời phỏng vấn là " mê Triết hơn thơ " . Lạ hơn nữa và cũng là một bất ngờ khá thú vị khi anh Phạm Ngọc là một nhà hoá học ....Lẽ ra thì thơ anh sẽ chỉ có những hiện tượng ... " hoá học " thôi chứ ... Nhưng không - mặc dù thơ ca không là sự nghiệp của anh . Những vần thơ anh viết dường như chỉ dành cho những người thân chứ không phải gọt rũa đem đăng báo có lẽ vậy nên thơ anh mang tính chân thật của cảm xúc , tạo nên một vẻ hấp dẫn riêng như nhạc Phạm Anh Dũng chăng ? Với tôi , có lẽ thơ của anh là nỗi giải tỏa và thư giãn của một nhà làm khoa học đó là nét đáng yêu nhất của riêng anh . Tình Bỗng Khói Sương là nhạc phổ nguyên vẹn từ thơ Phạm Ngọc . Có lẽ chỉ đọc qua tựa đề thôi bạn hay tôi sẽ cảm thấy qua những bài thơ ấy tác giả muốn ghi lại một cảm xúc gì thật thanh khiết để dành riêng cho mình cho người thân khỏi quên đi, phai nhạt mất chăng? Nhưng Tình Bỗng Khói Sương đã từng làm tôi trăn trở trong mối liên hệ của nhạc sĩ và nhà thơ ... cả hai người Anh - Bác sĩ Phạm Anh Dũng và Anh - nhà hoá học Phạm Ngọc đều đến với nghệ thuật này bằng ... tay trái , đều có mối giao cảm tuyệt vời giữa một bác sĩ phổ nhạc và một nhà hoá học làm thơ ... Giữa hai người có lẽ phải có mối tương quan đồng điệu lắm mới có thể để lại một CD đáng nhớ đáng nghe, nghe bao nhiêu cũng không chán như vậy. Với tôi Tình Bỗng Khói Sương có lẽ một thành công nhất của nhạc sĩ Phạm Anh Dũng ( rất xin lỗi nhạc sĩ Phạm Anh Dũng về quan điểm này ) nhưng tôi đã " trót "" nghĩ vậy . Bởi những ca từ , những giai điệu trong suốt 10 nhạc phẩm thật sự là ấn tượng và lay động lòng người . Họ đã là dấu + ( cộng ) của nhau giữa nhạc và thơ ... phải chăng sức thu hút , thuyết phục trong CD này chính là vì những yếu tố đó tạo thành để chúng ta có thể nghe liền một lúc 10 bài liên tục .

Chúng ta hãy nghe bắt đầu từ "Tình Bỗng Khói Sương":

"Một ngày tình bỗng khói sương
Tôi về gom chút tàn hương cuối trời
Hồn sầu mộng giấc chơi vơi
Tàn canh quạnh vắng Trăng rời phố khuya"

Được ca sĩ Bảo Yến trình bày, có biết bao nhạc sĩ , hay nhà thơ cũng viết về Tình ... Nhưng tình đang yên đang lành bỗng trở thành " khói sương " Tôi không dám hỏi cả nhạc sĩ lẫn nhà thơ câu hỏi vì sao lại " tình bỗng khói sương " làm tựa chính của CD mà tôi chỉ cảm nhận xuyên suốt bài thơ nhạc ấy là một sự rung động rằng tình yêu không phải đẹp và thơ mộng như tôi nghĩ. Người ta xem tình yêu như trò đùa chơi, thích thì giữ,không thích thì bỏ đi không hề tiếc nuối. Giữa xã hội bây giờ,tình yêu không còn là một thứ tình cảm thiêng liêng và đẹp đẽ như mọi người vẫn thường tưởng tượng. Có mấy ai giữ mãi lời thề với người mình yêu? Có mấy ai ngăn cản được trái tim mình trước một hình bóng mới lạ? Có ai chờ được một người suốt cả cuộc đời? Hay người ta chỉ đến với nhau vì tiền,vì danh vọng hay lợi dụng nhau để thoải mãn mục đích? Có đôi khi tôi giật mình ngồi lại,cố thoát ra khỏi cái thế giới ồn ào bên ngoài để cố nhận ra xem mình đang sống giữa thế giới như thế nào đây? Một thế giới sống với nhau bằng sự giả tạo và lừa dối, một thế giới sống bằng sự ganh ghét và đố kị. Và chính dòng đời , dòng người sẽ biến trái tim thành sỏi đá , xây dựng lên một bức tường thành để cuối cùng " gom chút tàn hương cuối đời " với nỗi niềm cô đơn bởi không quên đuợc mối tình. Hơn ai hết có lẽ tôi cũng hiểu Bảo Yến khi trình bày thành công ca khúc này đến mức độ nào. Vâng, đó là tiếng lòng của ca sĩ Bảo Yến .

Chập chùng thôi, với " Vàng Thu Ta Mất Nhau " một chút âm hưởng khiến tôi liên tưởng đến " Chiếc Lá Thu Phai " của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tất nhiên , hai ngôn từ khác hẳn nhau , nhưng tâm sự thì cũng như nhau khi với Trịnh Công Sơn là

" Người đâu mất người ...về bên núi đợi
Ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay "

thì Phạm Ngọc , Phạm Anh Dũng là

"Em đi về mùa lá đổ
Tôi ngồi ôm nỗi đau
Xa rồi con phố nhỏ
Vàng thu ta mất nhau"

Vâng , em đến , con tim tôi đổi thay , em đi con tim tôi đau xót tác giả mượn muà thu mà gửi gắm nỗi niềm ước mơ, trái ân tình mãi ngát hương ấy để khi người bội ước quay đi thì còn lại vẫn mình ta nơi đây . Tất cả chỉ còn là nỗi đau của ngày hôm qua , chỉ là giọt nước mắt muộn giữa muà thu và không thể xoa dịu nỗi đau trong ai .

Với "Phiến Đá Buồn" Phạm Ngọc - Phạm Anh Dũng và ca sĩ Bảo Yến lại dẫn dắt người nghe trở về trái tim rất thực trong từng người .

" Ta phiến đá buồn
Em cơn mưa nhỏ
Rơi từng giọt nhẹ
Gõ đời ta đau,
Ta là lữ khách
Lạc bước rừng sâu
Đông, Tây, Nam, Bắc
Hướng nào? Về đâu?,
Ta phiến đá buồn
Phủ kín rong rêu
Em cơn mưa nhỏ
Rơi xuống một chiều ..."

Mỗi người sống trên cuộc đời này cần gì cho tháng này trôi qua, một bờ vai thật dịu dàng và nhẹ nhàng luôn chở che những khi mưa gió, một ánh mắt luôn biết cảm thông và luôn biết sẻ chia những lời ai kia chưa nói, một cánh tay luôn luôn biết nâng đỡ những vấp ngã trên đường dài, Và tình yêu đến nhẹ nhàng như" mưa " để rồi tồn tại vĩnh hằng trong tâm hồn nhau, rất thật , rất đời thường trong từng cuộc tình . dù có là " về đâu " giữa bốn hướng khi tình đã xa , khi chỉ con một bàn tay , một lời ca chưa kịp hát , một cung nhạc dang dở phủ kín " rong rêu " thì cũng vẫn mãi là " Em - Anh " đến trong một chiều để nhớ mãi khôn nguôi . Những lời nhạc có một chút gì như đối thoại , như tự sự với chính bản thân chứ không với một ai khác dù ngôi thứ hai luôn là " em ". Cuộc đời ngày càng trở nên quá phức tạp. Và cái cảm giác không có ai để mà tin tưởng tuyệt đối chắc hẳn đều đã từng hiện diện trong mỗi chúng ta. Tôi đã từng nghe một người nói rằng thà tin nhầm người còn hơn là không tin những người bạn ấy yêu quý. Tôi thấy rất đúng. Có thể, nếu một lúc nào đó, người mà mình đặt niềm tin sẽ làm cho mình phải thất vọng nhưng còn dễ chịu hơn là bạn phải sống trong một tâm trạng nơm nớp không tin vào bất cứ ai. Và theo mình nghĩ nếu bạn đã đặt lòng tin vào ai đó một cách chắc chắn, cứ tin rằng người đó sẽ không phụ lòng bạn. Có lẽ như vậy nên Phạm Ngọc - Phạm Anh Dũng vẫn "Ru Em"

"Ru em giấc mộng tơ vương
Ru ta thức trắng miên trường cô liêu
Em còn ân sủng bao nhiêu
Cho ta xin được một chiều riêng em
Ru em từng gót chân son
Ru ta từng bước chân hoang lạc loài
Ta ngồi trên những tàn phai
Nghe mùa thu tới song thưa
Ru em vào cõi tình tình thơ
Ru ta tượng đá trơ vơ giữa trời
Mưa dầm nắng hạn chơi vơi
Rêu phong phủ kín cuộc đời trăm năm"

Lời ru ấy không phải là phù du , mà là một phép nhiệm màu . Bởi vì em, anh sẽ mở chiếc khoá của thời gian để cho tình yêu được tự do không bị ràng buộc... là mọi đau khổ sẽ trôi qua... tim không còn đau nữa... chờ đến một ngày khi lá từ từ rơi trước mắt... nỗi đau mãi không còn nữa... cuối cùng hãy tin tưởng vào khoảnh khắc hạnh phúc của tình yêu nồng nàn và mãnh liệt-cho một "cuộc đời trăm năm" và dù có là

"Em đã xa phố không còn nắng
Chỉ mưa về réo gọi đời nhau
Bốn bức tường không gian quạnh vắng
Ôm nỗi buồn ủ kín hồn đau "

Bản nhạc "Đã Xa" đạt đến tinh hoa trong từng câu chữ và cả ca từ

"Biển đã xa nắng không còn nhớ
Cát cũng buồn sóng chẳng đổ xô
Tảng đá nằm im nghe tiếng gió
Con thuyền xưa bỏ bến xa bờ
Trăng đã xa sao không đợi
Trăng tắt lịm dần theo ngày tháng qua
Đời lưu lạc quanh bóng tối
Biết về đâu, về giữa cõi thiên hà"

Con người và biển cả, tình yêu với biển cả và tình yêu giữa anh và em được ví như tình yêu của biển và thuyền . Tôi không thể diễn tả nổi cảm xúc của mình về bài hát này. chỉ biết mỗi lần nghe tôi như được lắng đọng lại với thời gian và những cảm giác mênh mông bất tận Khi bên em, anh nghĩ rằng dù có xa nhau anh cũng vững vàng, vượt qua mọi gian khó. Nhưng không phải vậy. Chỉ vừa xa em thôi, anh đã cảm thấy lẻ loi và cô đơn như vầng trăng kia, dù có muôn vàn vì sao bên cạnh.Anh cứ tưởng rằng mình rộng lớn, bao la như biển cả, vậy mà chỉ một giây lát vắng em, vắng cánh buồm nhỏ bé, biển kia đã thấu hiểu nỗi cô đơn. Thiếu em, cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì với anh, dù biển kia có dậy sóng.

"Trên giòng sông quên
Thuyền ta trôi dạt
Trong tình yêu em
Hồn ta bát ngát"
( "Rực Vầng trăng Khuyết" )

"Bờ cỏ xanh
Chim muông hát
Lời mật ngọt
Tình mong manh
Mùa thu mây biếc bến bờ xưa
Biền biệt xa xứ chong mắt đỏ
Ngày ươm nắng quái phong trần rủ
Dòng sông dậy nhớ
Cuồn cuộn trôi"
( "Từ Xa Em" )

Được tạo dựng bằng những âm thanh nét đẹp quyến rũ , chuyển động trong một nhịp điệu Valse chậm rãi , mộc mạc và tình tế khắc họa thật thuyết phục khung cảnh tran đầy chất thi ca nồng nàn say đắm .

Vâng , 10 bài thơ của nhà thơ Phạm Ngọc được nhạc sĩ Phạm Anh Dũng phổ nhạc và các ca sĩ trình bày để lại trong tôi một ấn tượng khó quên , tôi cũng sẽ không nhắc đến, một vài giọng ca không thể diễn tả được hết tâm tư của nhà thơ và nhạc sĩ trong CD này , tôi chỉ muốn nói đến khiá cạnh ca từ , giai điệu , hoà âm mà tôi nghe được thôi . đó là những cảm xúc chân thành của tôi khi nghe CD Tình Bỗng Khói Sương , những giai điệu mượt mà êm dịu và tha thiết là tôi yêu thích CD này ( tất nhiên , tôi không phủ nhận rằng trong CD này có một vài giọng ca tôi không thích nghe mặc dù ca sĩ đó đã từng trình diễn thành công vượt trội một số bản nhạc của các nhạc sĩ khác )

Vâng , tôi chỉ là người nghe CD này muộn hơn những khác đã nghe , nhưng tôi yêu thích Bảo Yến , yêu thích sự dịu dàng như chính con người Bảo Yến trước những bão tố của đời ... và đã vượt qua được nó để sống trong tình yêu trong những niềm mơ , hãy lắng nghe những ngân nga của Bảo Yến được phát ra từ lồng ngực , từ trái tim người phụ nữ thật sâu sắc biết bao .

Cái hay của lời thơ Phạm Ngọc mà nhạc sĩ Phạm Anh Dũng phổ thành nhạc có lẽ đó là : Tình yêu không phải là sự chế ngự mà là sự thu phục. Không là sự lấn át mà là niềm đồng cảm. Mỗi một tình yêu qua đi, có thể còn lại biết bao nhiêu là kỷ niệm.những lâu đài tình yêu có thể tưởng tượng như một công trình kiến trúc được xây dựng từ những viên gạch kỷ niệm và rồi tình yêu tan vỡ,cánh cửa tình yêu khép lại.Thế nhưng với tôi, nó vẫn thật thiêng liêng . Qủa thật có những lời thơ , những bản nhạc của cả hai người Phạm Ngọc - Phạm Anh Dũng hoặc của một số nhạc sĩ khác khi tôi nghe nhạc , đọc lời và đưa lên trang nhạc , tôi đã bật khóc bởi vì đã diễn cảm quá sâu sắc. Vâng , với Tình Bỗng Khói Sương như một lời nhắn nhủ hãy đến với nhau bằng tất cả sự thương yêu từ sâu thẳm trong đáy lòng mình, đừng lừa dối và...tình yêu chiến thắng tất cả ngoại trừ con tim cũa kẻ phản bội... hãy trân trọng những gì mình đang có bởi vì khi đánh mất rồi ta chẳng thễ nào tìm lại được hạnh phúc đã xa bay....

Xin chân thành cảm ơn nhà thơ Phạm Ngọc , cảm ơn nhạc sĩ Phạm Anh Dũng , nhạc sĩ Quốc Dũng và ca sĩ Bảo Yến cùng các ca sĩ đã trình bày thành công CD Tình Bỗng Khói Sương cho tôi cùng bạn bè tôi thưởng thức một CD tuyệt vời.

Vâng , thì những lúc một mình bạn hãy cứ nghe , cứ khẽ hát lên đi, hát cho chính mình. Hát để biết tháng năm đâu có vô tình, để biết trong đời ta vẫn luôn tìm thấy một niềm vui, để rồi lại yêu tha thiết.

Đây chỉ là những cảm xúc riêng tôi với những lời viết thô vụng về dạng văn xuôi của tôi , không thể nào thay thế được Thơ - Nhạc " Tình Bỗng Khói Sương " của Phạm Ngọc - Phạm Anh Dũng. Rất mong nhận được sự đồng cảm của bạn.. cũng như tôi về một CD tưởng chừng " đã cũ " . Xin cảm ơn


Ngọc Dung
2004


    

Xem thêm...

Tháng Tư Nghe Những Bài Nhạc Về Sài Gòn Xưa - Huỳnh Công Ân

Tháng Tư Nghe Những Bài Nhạc Về Sài Gòn Xưa

  Huỳnh Công Ân

Sài Gòn trước 1975 được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Sài Gòn lúc đó không thua kém gì Singapore và Hồng Kông. Nếu Singapore và Hồng Kông thừa kế văn minh Anh thì Sài Gòn chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp. Ngay khi ở lớp năm (lớp 1 bây giờ), lứa tuổi của tôi đã học tiếng Pháp. Tôi còn nhớ bài học tiếng Pháp vỡ lòng là:
 
“Voici ma main, elle a cinq doigts
“En voici deux, en voici trois”
(Đây là bàn tay của tôi, nó có năm ngón
Đây này hai ngón, đây này ba ngón)
 
Thành phố Sài Gòn văn minh và thanh lịch đó đã được ghi nhớ trong kho tàng âm nhạc phong phú của miền Nam qua thời kỳ cực thịnh của nền văn hoá miền này sau khi tiếp nhận sự đóng góp của các văn, nghệ sĩ di cư đến từ miền Bắc năm 1954 và sau 1975 được nhắc đến trong tiếc nuối của các nhạc sĩ ra được hải ngoại.
 
Mô tả vẻ xinh đẹp, nhộn nhip, vui tươi của Sài Gòn , nhạc sĩ Y Vân đã viết bản nhạc Sài Gòn:
 
“Dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai
Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này
Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!”
 
 
Cũng nhạc sĩ Y Vân mô tả một “Saigon by night” không kém gì một “Paris by night” với muôn ánh đèn màu qua bản nhạc Đêm Đô Thị:
 
“Màn đêm xuống dần, muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng.
Kìa bao phố phường, bao mái lầu chìm trong bóng đêm”
 
 
Sau khi ra trường tôi về dạy học ở tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) cách xa Sài Gòn khoảng 200 cây số. Đêm đêm nhờ về Sài Gòn hoa lệ tôi mở bản nhạc Nhớ Thành Đô của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ:
 
“Tôi xa đô thành một đêm trăng mông mênh.
Tuy ra đi rồi mà vẫn nhớ vẫn thương hình bóng ấy,
Người em thơ đang từng giờ đợi chờ.”
 
Rồi, thân trai trong thời chinh chiến, tôi nhập ngũ và lao mình trong lửa đạn. Những đêm nằm ngoài chiến tuyến mở nho nhỏ chiếc Radio Transistor nghe bản nhạc Chiều Thương Đô Thị của nhạc sĩ Song Ngọc, lòng tôi hướng về Sài Gòn nơi có người em gái hậu phương đang chờ mình từng phút từng giây:
 
“Đêm nay tôi nhớ đến em mơ về kinh thành
Những chiều gió lộng ta đi trong lòng phố vắng
Tâm tư qua làn khói trắng mưa rơi ướt hai mái đầu”
 
Nhạc sĩ Anh Bằng ví thành phố Sài Gòn chiều cuối tuần như một vườn hoa của mùa xuân tình yêu trong bản nhạc Sài Gòn Thứ Bảy:
 
“Ѕài Gòn thứ Bảу ngàn hoa trên đường...
Lòng mình cứ tưởng mùa xuân уêu đương”
 
Người lính chiến miệt mài chiến đấu nên đôi khi lo rằng người yêu mình có thể sa ngã vì sự xa hoa của Sài Gòn như trong bản nhạc Thư Về Em Gái Thành Đô của ca nhạc sĩ Duy Khánh:
 
“Giờ đây, nghe nói em đang vui say
Chiều hoa lệ thành đô
Vòng tay ngà đua mở
Cùng hoa đèn sáng dở
Dìu em vào giấc ngủ
Quay cuồng tiếng hát đam mê”
 
Nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng nhớ Sài Gòn qua Những Bước Chân Chiều Chủ Nhật:
 
 
“Ðêm vẫn chưa buông nhưng chiều dần tàn
Mây tím giăng ngang trên trời Sài Gòn“
 
Nhà thơ của tuổi học trò Nguyên Sa đã gợi cảm hứng cho nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên phổ bản nhạc Áo Lụa Hà Đồng trong nắng Sài Gòn:
 
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng”
 
 
Nhạc sĩ Văn Phụng ca tụng Sài Gòn ngày xưa là bến bờ mà du khách thế giới muốn tới trong bản nhạc Ghé Bến Sài Gòn:
 
“Cùng nhau đi tới Saigon
Là nơi du khách dập dồn
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô"
 
Sài Gòn là nơi đô hội quyến rũ nên Lê Uyên Phương đã phổ nhạc của Kim Tuấn thành bản Khi Xa Sài Gòn để diễn tả nỗi bâng khuâng của người Sài Gòn khi phải rời xa nó:
 
“Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sài Gòn bây giờ ai khóc thương ai
Sài Gòn giới nghiêm che kín đêm dài
Sài Gòn khói bay, Sài Gòn nắng đổ
Sài Gòn đã buồn như trời sớm mai“
 
Nhưng biến cố 30/4/75 đã làm Sài Gòn mất tên và người Sài Gòn mất những thời gian tuyệt vời trước đó như trong bản nhạc Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt của Nam Lộc:
 
“Sài Gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời
Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời“
 
 
Và từ đó những người tha hương luôn nhớ về Sài Gòn qua những kỷ niệm còn đọng trong ký ức như những lời ca bùi ngùi tiếc nhớ trong bản nhạc Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên của Nguyễn Đình Toàn:
 
“Sài Gòn ơi!
Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau
Nhớ Phạm Duy với tình ca sầu
mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu
Còn gì đâu“
 
Trong tận cùng của tuyệt vọng, Nguyệt Ánh sáng tác bản Một Lần Đi như là một lời trối trăng của người vong quốc:
 
“Sài Gòn ơi, ta có ngờ đâu rằng
Một lần đi là một lần vĩnh biệt
Một lần đi là mất lối quay về
Một lần đi là mãi mãi thương đau.”
 
Năm nay, tháng Tư lại về, những thương đau của quá khứ gần nửa thế kỷ một lần nữa lại ùa về, chúng ta nhớ Sài Gòn da diết. Ai cũng tự trách mình sao để mất một viên ngọc quý của đời mình vào tay những kẻ không đáng hưởng.
 
Còn gì đâu!
 
Montréal, 19/4/2022
Huỳnh Công Ân
 
Kim Phượng sưu tầm
Xem thêm...

Khoảnh khắc khó phai - Thanh Hà

Khoảnh khắc khó phai

Mỗi năm đến Tháng Tư là tâm trạng tôi cứ man mác nỗi tiếc thương. Những kỷ niệm từ 49 năm trước hiện về rõ nét dù lòng không muốn nhớ.

Không muốn nhớ bởi những ngày đen tối ấy chẳng những đã giáng tai ương cho cuộc sống của gia đình tôi và chính bản thân mà còn gieo tang tóc chia lìa cho hàng triệu người dân miền Nam Việt Nam yêu chuộng Tự Do nói chung.

 

Ngày 26 Tháng Tư 1975

Để đến trường Văn Khoa, tôi luôn phải đi ngang Đại Sứ Quán Mỹ. Từ mấy tuần qua, thấy người ta đứng sắp hàng rồng rắn trước cổng, mỗi ngày mỗi dài ra, mỗi nhiều thêm lên. Lúc đầu tôi thắc mắc không hiểu, sau mới biết là họ đến ghi tên xin đi Mỹ. Rồi đường phố thấp thoáng chỗ nầy chỗ nọ bóng dáng nhiều người mặc quân phục VNCH hơn thường lệ. Rồi số người từ miền Trung chạy loạn đổ xô vào, trong số đó có gia đình những người bạn học quê Qui Nhơn, Huế, Quảng Ngãi…

Tôi quyết định bỏ trường, ra xa cảng miền Tây mua vé xe đò về quê cách 250 km với mục đích kể cho ba má nghe những gì tôi chứng kiến cùng những gì dư luận bàn tán về cuộc chiến, định thuyết phục ba má tìm đường ra đi. Bởi chúng tôi sống ở một tỉnh có bờ biển lẫn sông rạch kinh ngòi chằng chịt nên việc ra đi lúc ấy rất dễ dàng như đi dạo chơi, chỉ cần đến bến tàu, xuống thuyền trả tiền cho tài công thuê họ chở đến nơi hạm đội của Mỹ chờ sẵn ngoài khơi gần đảo Phú Quốc là thoát hiểm họa.

Ngày 27 Tháng Tư 1975

Vì chị ba và em gái thứ năm vẫn còn ở lại Sài Gòn – hai người vương vấn người yêu nên còn nấn ná – má kêu chị hai sáng hôm sau nghỉ làm (chị là thư ký cho Ty Thông tin nơi ba tôi đảm trách), để đi Sài Gòn đón hai người và thu xếp đồ đạc về quê, không được nấn ná. Sáng 5 giờ chị hai ra đi, gần chiều đã thấy chị quay về một mình. Thì ra hôm qua chiếc xe đò chở tôi buổi sáng đi qua Cai Lậy vẫn còn an toàn thì đến trưa đã bị Cộng quân tấn công với đạn, pháo, mìn, súng… Người chết rất nhiều, đoạn đường bị chặn không thể qua lại. May mà chuyến xe tôi đi sớm, chứ không thì chiếc xe chở tôi có thể cũng là một trong những chiếc xe bị trúng đạn pháo.

Nhà tôi nằm ở ngoại ô quận cách tỉnh 7km. Mặt trước nhà là liên tỉnh lộ nối dài Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sài Gòn. Bên kia con đường là sân bay nhỏ dân sự lẫn quân sự chạy dài từ Cầu Hoằng ngút đến tận Ngã Ba. Nhà chúng tôi nằm giữa đoạn sân bay ấy. Xa hơn phạm vi phi trường là các đồng lúa xanh ngút ngàn của nhiều nông gia, trong số ấy có của ông bà Ngoại tôi.

Phía sau nhà là dòng sông hiền hoà mà chiều chiều khoảng 5 giờ, nhiều chiếc giang đỉnh chở khoảng chục người trên mỗi chiếc, có cả cố vấn Mỹ chạy ngang nhà vào tận các làng mạc xa xôi, cho đến tận sáng hôm sau mới trở về căn cứ. Thỉnh thoảng có chiếc bị bắn chìm, và người đi chiều hôm trước không bao giờ trở về sáng hôm sau.

Ba tôi ban ngày vẫn ra ty – ngoài tỉnh – làm việc bình thường. Trưa, tối về ăn cơm, nhưng bắt đầu từ Tháng Ba, mỗi tối ông vào ngủ trong dinh quận, cách nhà tôi gần 1 km. Từ sau Tết, bên kia sông, đoạn giữa Cầu Quây và mộ ông Hội Đồng Suông, một nơi khá hoang sơ, là căn cứ địa của “bọn họ”. Cứ vài tối là họ lén lén lút lút ra phát loa ra rả đòi tiêu diệt sĩ quan công chức VNCH, trong đó có tên ba tôi. Gần sáng thì họ thụt trốn đâu mất dạng.

Ngày 28 Tháng Tư 1975

Lần này đích thân Má đi Saigon để tìm hai con gái bị kẹt trên ấy. Cũng như chị hai, đến chiều lại quay về vì có trận đánh lớn, cắt giao thông hoàn toàn. Ba má lo lắng, nỗi bất an hằn rõ trên mặt. Lúc ấy chưa có điện thoại nên không sao liên lạc được. Má như ngồi trên đống lửa.

Ngày 29 Tháng Tư 1975

Má may mười bao vải nhỏ cho mười thành viên trong gia đình, gồm ông bà Ngoại, Ba Má, và sáu chị em tôi. Xếp vào mỗi bao mấy bộ quần áo cho từng người, vật dụng cần thiết, giấy tờ khai sinh, bằng cấp học lực, ít tiền… nói để khi cần thì bao của ai người ấy mang đi cho nhanh.

Cách nhà tôi hơn nửa cây số có căn cứ của quân chủng Hải Quân. Bình thường họ ra ngoài sinh hoạt những lúc không phải đi hành quân, trên các giang đỉnh siêu nhẹ lướt nhanh. Lúc còn học ở quê nhà, tôi thấy họ mỗi ngày. Bây giờ, họ túc trực ngày đêm trong doanh trại, không thấy xuất hiện ngoài đường phố nữa.

Ngày 30 Tháng Tư 1975

Khoảng nửa đêm ngày 29.04 rạng sáng 30, mọi người đang ngủ bỗng choàng thức bởi tiếng súng, xen tiếng đạn pháo liên hồi từ phía cánh đồng bên ngoài phi trường bắn tới tấp, vào chung quanh nhà chúng tôi và nhà hàng xóm. Ông bà Ngoại, Má kêu mấy chị em tôi mau ra khỏi mùng chạy núp vào góc kẹt của bồ lúa sau nhà bếp.

Bao nhiêu năm chiến tranh, chúng tôi thường xuyên thấy quân phục các quân chủng VNCH của họ hàng, thân thuộc, bạn hữu…, xe thiết giáp, xe jeep, GMC, trực thăng, chiến đấu cơ, chiến hạm, giang đỉnh…, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi trong tâm điểm của trận chiến trực tiếp giữa hai phe đối lập. Nghe tiếng súng bắn gần bên tai như thế, bàng hoàng, kinh hãi không sao tả hết. Tôi kêu thầm trong đầu: Trời ơi, VC đã mò tới đây rồi sao? Họ có tìm giết chúng tôi – thuộc thành phần công chức – như họ đã làm trong trận Mậu Thân 1968 Huế không?

Trời sáng, đã thấy rõ mặt người. Lợi dụng thỉnh thoảng tiếng súng hơi lơi, Ngoại, Má và cậu em trai ra trước nhà, hé mở cánh cửa sổ quan sát. Nghe tiếng Má thảng thốt kêu nho nhỏ:

Trời ơi, có mấy ông đội nón cối nằm bên kia vệ đường bắn vào nhà dân kìa. Đóng cửa chặt lại, tìm chỗ núp cho mau.

Chúng tôi quá sợ hãi, chui trở lại vào cạnh bồ lúa. Nếu họ có bắn từ đàng trước vào thì đã có bồ lúa cao chất ngất che. Trời càng sáng rõ thì âm thanh lửa đạn càng dữ dội. Bây giờ chúng không phải chỉ đến từ phía cánh đồng mà mọi phía: Từ căn cứ Hải quân, từ dưới sông, khi các chiếc giang đỉnh bắn đáp trả.

Đến trưa thì tiếng súng, tiếng pháo lớn càng liên tu bất tận. Chúng tôi nằm dí một góc không dám cục cựa. Một tiếng nổ thật lớn ngay nhà dì ba kề bên, rồi nghe tiếng dì khóc nấc lên kinh hoàng, kêu cứu má tôi:

Trời ơi là trời, chị hai ơi, bé Mai Chi bị trúng thương chết rồi chị hai ơi. Con ơi là con ơi. Sao con bỏ ba má mà đi sớm vậy hả con ơi.

Dì ba là em họ dì với má tôi. Chồng dì là hạ sĩ quan đang làm nhiệm vụ tuyển mộ tân binh ở tỉnh. Sau, dì kể là một mảnh đạn cối bay lạc, văng miểng trúng vào ngực con bé 11 tuổi. Bé hộc lên một tiếng nhỏ rồi hồn lìa khỏi xác, trong miệng vẫn chưa kịp nuốt củ khoai lang dì nấu ăn tạm cho qua cơn đói. Còn dì thì trúng thương ngay chân và bụng, máu chảy lênh láng.

hế là dì cùng bốn con trai còn lại, từ 15, 13, 9, và 3 tuổi, chân thấp chân cao băng qua mảnh sân sau, mò mẫm qua nhà chúng tôi. Thêm mười mấy người hàng xóm ở gần cũng nhập chung. Thế là có hơn hai chục người dồn đống, kẹt bồ lúa không đủ chỗ nên chia nhau chui nằm dưới chiếc giường sắt kê cạnh. Má tôi xé áo băng tạm vết thương cho dì chứ không còn cách nào khác.

Ngày thường Mai Chi học chung, chơi chung với em gái út 10 tuổi của tôi. Giờ chứng kiến cái chết quá bất ngờ thương tâm bởi miểng đạn vô tình, và máu me đầy người của dì ba, em tôi khóc la thất thanh, khiến mọi người đều rúng động tâm can.

Tiếng súng nặng, nhẹ vẫn dồn dập không ngớt, ngoài đồng bắn vào, dưới sông trả đũa bắn lên, nhà dân ở giữa lãnh đủ. Linh cảm sự chẳng lành nếu cứ trốn trong hốc bồ lúa, Ngoại và hai người hàng xóm liều mình chạy xuống mé sông. Ngẫu nhiên có chiếc tàu nhỏ dùng chuyên chở hàng hoá, thực phẩm của ai neo đậu ngay bến nhà tôi, Ngoại bèn thúc giục mọi người dìu nhau nhảy xuống, nằm rạp dưới lòng tàu. Đạn lớn nhỏ thi nhau rớt chung quanh chiếc tàu, bắn nước văng tung toé cả vào mặt chúng tôi.

Thế rồi người lớn thay nhau dùng chèo, chống qua bên kia bờ, thoát ngoài tầm đạn giao tranh. Không ai bị trúng đạn. Đúng là phép lạ. Dì ba bị thương nặng không thể đi, má tôi và cậu em trai 15 tuổi dùng chiếc mền làm võng đặt dì lên, cột hai đầu mền vào chiếc dầm bơi làm đòn gánh lếch thếch nhấc dì đi theo con đường đê ruộng gập ghềnh, lần dò ra ngoài lộ lớn cách hơn hai cây số, chờ xe lam chở dì ra bịnh viện tỉnh.

Phần tôi thì ẵm cậu bé Tùng ba tuổi. Trời trưa nắng như đổ lửa trên đầu. Đoàn chúng tôi toàn đàn bà trẻ nít hơn hai chục người thất thểu lê bước. Tội nghiệp má và em trai, bởi dì ba vốn thân hình khá tròn trịa nên cứ đi được vài chục thước là phải dừng lại, ì ạch thở. Những người đàn bà trẻ đi cùng đều bồng bế trên tay con nhỏ nên không ai đỡ đần má và em tôi để cáng dì ba.

Khát nước cháy cổ, lo tránh đạn đâu có thời gian và tâm trí để mang theo nước, cạnh ruộng có vũng nước nhỏ đục ngầu. Có lẽ là vũng nước trâu nằm chăng? Mọi người mừng như bắt được vàng, bụm nước vào lòng bàn tay mà uống lấy uống để, dù nước ruộng có vị sình non! Hơn hai cây số nhưng phải mất từ trưa đến chiều mới ra được đường cái. Má tôi ngồi vật ra lề, lã đi vì mệt, chờ chiếc xe lam chở đoàn người chạy nạn ra tỉnh. Sau đó gia đình tôi tụ họp ở nhà bà-nội-nuôi. Ba tôi bị kẹt trong Ty Thông tin tỉnh từ mấy ngày nay, cùng đến đoàn tụ.

Nhưng cuộc đoàn tụ chỉ kéo dài thêm vài ngày. Chị ba và em gái thứ năm thu dọn quần áo về quê, chuyện học hành của chúng tôi hoàn toàn khép lại. Ba tôi ra trình diện, bên “may mắn thắng cuộc” hứa chỉ học tập vài hôm, nhưng vài hôm ấy biến thành bảy năm khổ sai nơi U Minh Thượng.

Khi trở về nhà, mới thấy góc vách chỗ chúng tôi ẩn nấp cạnh bồ lúa có nhiều lỗ thủng, còn chiếc giường sắt cháy còng queo, vạt lót giường bằng tre thì không còn chút dấu vết, chỉ thấy lớp bụi mờ đen nhẻm phủ mặt đất. Chúng tôi suýt mất mạng nếu không liều mình cùng nhau nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ sang sông. Cả nguyên ngày 30 Tháng Tư chạy giặc. Chiều tối hôm đó, ba tôi mới cho má con tôi hay là miền Nam đã mất!

 

Thanh Hà

Hồng Anh sưu tầm

 

 

Xem thêm...
Theo dõi RSS này