Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua các tác phẩm văn học.
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam
*********
Trong vương quốc văn học, “biên giới” là hai từ không bao giờ tồn tại. Minh chứng rõ nhất là từ xa xưa cho đến nay, đề tài về số phận và vẻ đẹp người phụ nữ luôn là một đề tài nóng, được vô số tác giả khám phá và thể hiện. Tô Hoài, Kim Lân, Xuân Quỳnh, Nguyễn Minh Châu - bốn tác giả ở bốn giai đoạn khau nhau, với bốn phong cách nghệ thuật riêng nhưng đã gặp nhau ở hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của mình. “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị, “Vợ nhặt” với nhân vật Thị, “Sóng” với hình tượng “em” hay “Chiếc thuyền ngoài xa” với người đàn bà hàng chài, bốn người phụ nữ ấy đã làm nên bức tượng đài người phụ nữ Việt Nam mà trong mỗi hoàn cảnh, họ mang số phận và vẻ đẹp riêng.
Thơ ca từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn gánh trên vai một số phận long đong, bất hạnh, một nỗi đau xuyên thời gian, không gian và tìm gặp nhau ở điểm chung:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Nguyễn Du)
Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài phải gánh chịu trên lưng kiếp sống của một con vật, dù mang danh con dâu nhà thống lí (con dâu gạt nợ). Song hành với Mị luôn là hình ảnh con trâu con ngựa, con rùa lùi lũi… cho thấy một kiếp người bất hạnh, sống không bằng con vật. Quyền sống dường như không nằm trong tay cô: vì cha mà cô không đành lòng tự tử, rồi vì A Sử ngăn cản bắt trói vào cột mà cô không thể đi chơi trong đêm tình mùa xuân… Một cuộc sống ngột ngạt tù túng, quyền con người bị tước đoạt - đó là hiện thân của xã hội mà kẻ thống trị có thể giày xéo bất cứ người dân nào.
Không chịu kiếp sống con vật như Mị nhưng người vợ nhặt trong “Vợ nhặt” của Kim Lân lại phải sống lay lắt, vật vờ trong nạn đói khủng khiếp những năm 1945. Chính cái đói đã làm mất đi vẻ đẹp nữ tính của một cô gái trẻ, đẩy Thị vào bi kịch: theo không người ta về làm vợ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy, bản tính người bị che lấp, còn đâu lòng tự trọng và vẻ đẹp nhân cách nữa. Thị chính là một minh chứng cho “nạn nhân của hoàn cảnh”.
Gây sốc cho bạn đọc chính là số phận bất hạnh đến bi thảm của người đàn bà hàng chài: cuộc sống khổ cực trên thuyền trên biển đã đẩy gia đình mụ từ ấm êm, hòa thuận đến bạo hành, đói nghèo. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa một con người chất chứa mội nỗi khổ to lớn, khiến người đọc nhìn vào cũng đau lòng. Cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, mụ phải chịu đựng những trận đòn roi của người chồng vũ phu - đau xót làm sao! Người đàn bà hàng chài sống cam chịu, nhẫn nhục như chính mụ lựa chọn số phận bất hạnh ấy mà chẳng hề phản kháng, đấu tranh.
Mỗi người một số phận, hình tượng “em” trong “Sóng” của Xuân Quỳnh lại mang một nỗi đau về tinh thần. “Em” trong tình yêu luôn trăn trở, suy tư, ngẫm nghĩ và đặc biệt luôn khát khao hạnh phúc. Trong sự đổ vỡ của tình yêu, Xuân Quỳnh luôn phập phồng lo lắng:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa…
Chung quy lại, trong cả bốn tác phẩm, dù ở thời đại nào, không gian nào, hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn luôn là phái yếu chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh… Đau đớn là vậy, nhưng hình tượng người phụ nữ trong văn học luôn ẩn chứa một vẻ đẹp nội tâm sâu sắc đáng trân trọng.
Nếu như ta đã thấy Mị sống kiếp con vật khi làm dâu gạt nợ nhà Thống lí Pá Tra; thì ta cũng sẽ nhận ra một cô Mị hiếu thảo, chăm chỉ, yêu tự do qua câu nói “Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Trốn về nhà sau khi bị bắt làm dâu gạt nợ, định tự tử bằng nắm lá ngón nhưng nhìn người cha già yếu, cô không đành lòng để cha một mình gánh vác nợ nần. Thật hiếm thấy một người con gái hiếu thuận như vậy! Chính vẻ đẹp tâm hồn ấy, chứ không phải là nhan sắc rực rỡ khiến “trai đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”, cũng không phải tài năng thổi sáo giỏi, đã giúp Mị tỏa sáng trong ấn tượng của người đọc.
Không đẹp cũng chẳng tài năng nhưng cô vợ nhặt của nhà văn Kim Lân lại lấy được thiện cảm của người đọc dần dần bằng chính hành động của mình. Kim Lân tả thị lúc đầu là một cô nàng chao chát chỏng lỏn, vì miếng ăn mà quên mất lòng tự trọng; nhưng càng về sau, ngòi bút của ông lại đầy cảm thông, thương xót. Thị chua ngoa nhưng cũng là một cô gái biết e thẹn khi về làm dâu, biết lễ nghĩa khi ra mắt mẹ chồng. Làm dâu, làm vợ rồi, thị dần bộc lộ hết những vẻ đẹp của một người phụ nữ: chăm chỉ giúp mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, cư xử lễ phép và tế nhị…
Sự chuyển biến ở thị đã khiến người đọc ngạc nhiên, thì hẳn sẽ không khỏi sửng sốt khi khám phá ra vẻ đẹp ở người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu. Chưa ở đâu, chưa một tác phẩm văn học nào mà người phụ nữ lại bộc lộ rõ thiên tính nữ như trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Mụ xấu xí, thô kệch, mặt rỗ, tấm lưng áo bạc phếch… khiến người đọc mới làm quen đã thiếu thiện cảm… Nhưng dần dần, vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ từng trải đã thuyết phục chúng ta. Mụ sâu sắc và vị tha, giàu đức hi sinh: mụ thấu hiểu nỗi khổ của chồng, cam chịu bị đánh mà không một lời oán trách ca than. Mụ chăm chỉ tần tảo kéo lưới suốt đêm khiến gương mặt tái nhợt đi, để đàn con được ăn no. Mụ trải đời sâu sắc nên chỉ ra và phân tích rõ cho Phùng và Đẩu thấy những bất cập trong chính sách của nhà nước. Đặc biệt, tình mẫu tử mụ dành cho các con thật là vô biên…
Nếu người đàn bà hàng chài sâu sắc và từng trải trong cuộc sống thì “em” trong thơ Xuân Quỳnh lại sâu sắc và thấu hiểu trong tình yêu. “Em” đẹp như sóng và cũng mạnh mẽ như sóng. “Em” “dữ dội” đấy nhưng cũng rất “dịu êm”, đôi lúc “ồn ào” nhưng có những khi thật “lặng lẽ”. “Em” trong thơ Xuân Quỳnh với cảm xúc nồng cháy đã ánh lên những phẩm chất cao đẹp: thủy chung “Dẫu xuôi về phương Bắc- Dẫu ngược về phương Nam- Nơi nào em cũng nghĩ- Hướng về anh một phương”, tin tưởng vào tình yêu “Ở ngoài kia đại dương- Trăm ngàn con sóng đó- Con nào chẳng tới bờ- Dù muôn vời cách trở”, sẵn sàng hi sinh để bất tử hóa tình yêu “Làm sao được tan ra- Thành trăm con sóng nhỏ- Giữa biển lớn tình yêu- Để ngàn năm còn vỗ”…
Quả thật, số phận bất hạnh không làm mờ đi vẻ đẹp của người phụ nữ trong văn học, tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: tảo tần, chăm chỉ, thủy chung, sâu sắc, từng trải, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha, yêu gia đình… Đó là những vẻ đẹp khuất lấp cần khám phá để thấy được chiều sâu nhân văn trong mỗi tác phẩm.
Trong cuộc sống, trong tình yêu, người phụ nữ nào chẳng khao khát có được hạnh phúc, có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Và đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn nổi bật nhất của những người phụ nữ trong các tác phẩm văn học.
Trong Vợ chồng A Phủ, Mị lầm lũi là vậy bởi sống lâu trong cảnh khổ, Mị đã quen khổ; thế nhưng khi nghe tiếng sáo từ lấp ló ngoài đầu núi, đến văng vẳng ở đầu làng, rồi lửng lơ bay ngoài đường… sức sống trong Mị như hồi sinh. Mị thấy yêu đời trở lại, Mị thấy mình trẻ, Mị khao khát tự do và muốn được đi chơi. Tất cả đã cho thấy người phụ nữ dù trong đau khổ tù túng thì trái tim họ vẫn luôn hướng về, luôn hi vọng và khát khao hạnh phúc. Chính vì thế, Mị đã chạy theo A Phủ, chạy theo hạnh phúc của mình, rời bỏ mảnh đất Hồng Ngài đau thương.
Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm gia đình, một nơi được bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật- đó là minh chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị.
Hay như người đàn bà hàng chài, trong đau khổ bất hạnh, khuôn mặt mụ vẫn “ửng sáng lên như một nụ cười”, khi nhắc đến chuyện “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Mụ thương con và hiểu chồng, mụ cố gắng chắt lọc lấy hạnh phúc chứ nhất quyết không li hôn với gã chồng vũ phu.
Đặc biệt, khát khao hạnh phúc được Xuân Quỳnh thể hiện mãnh liệt thông qua hình tượng “són” và “em”. “Em” trăn trở, giàu lòng trắc ẩn, day dứt về tình yêu chính vì “em” luôn tìm kiếm hạnh phúc trọn vẹn “Bồi hồi trong ngực trẻ”. Yêu say đắm, tha thiết, nhưng khát khao tình yêu đích thực, khát khao hạnh phúc vẫn luôn thường trực trong trái tim người phụ nữ.
Trong văn học, hình tượng người phụ nữ không mới mẻ nhưng dưới ngòi bút của mỗi tác giả, hình tượng ấy lại đem đến cho bạn đọc cảm giác khác nhau thông qua những tác phẩm khác nhau. Dù là thơ, truyện hay tiểu thuyết, các tác giả vẫn luôn tập trung làm nổi bật hình tượng người phụ nữ với số phận bất hạnh nhưng ẩn sâu những vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam với khát khao hạnh phúc mãnh liệt.
Số phận người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến.
Đến với nền văn học Việt Nam, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước một kho tàng đồ sộ, phong phú trong đó có nhiều thể loại, nhiều nội dung khác nhau. Những tác phẩm viết về người phụ nữ trong xã hội cũ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu đậm. Với cách thể hiện giản dị mà tinh tế, những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại đem lại cho chúng ta biết bao suy nghĩ cùng sự đồng cảm với số phận bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống của họ luôn chịu những thiệt thòi, nhiều mất mát và hi sinh. Bởi họ sống trong một chế độ phong kiếnbất công với bao thành kiến lạc hậu.
Chúng ta đã từng rất tự hào với kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du là “Truyện Kiều”. Trong đó, tác giả đã khắc họa tài sắc tuyệt đỉnh của Thúy Kiều, một người con gái với đầy đủ mọi tài năng: cầm, kì, thi, họa; một sắc đẹp sánh tựa vẻ đẹp bất tận của thiên nhiên (hoa ghen, liễu hờn). Với việc miêu tả như thế, nhà thơ đã cảnh báo trước số phận của Thúy Kiều. Một tương lai đầy bất trắc, một cuộc sống đầy sóng gió sẽ đến với Kiểu. Đúng vậy, cuộc đời Kiều luôn phải đối mặt với bao biến cố ghê gớm, chịu đựng bao sự vùi dập của các thế lực phong kiếntàn bạo, tiêu biểu là thế lực quan lại và đồng tiền. Kiều phải hi sinh tình yêu đẹp đẽ, sâu đậm của mình để bán mình chuộc cha, đặt chữ hiếu lên hàng đầu…Từ đó, cuộc đời nàng bước vào kiếp đoạn trường với 15 năm chìm nổi lênh đênh. Nhưng từ trong chính sự vùi dập tàn bạo của các thế lực phong kiếnđó, Kiều không bao giờ buông xuôi phó mặc mà luôn ý thức sâu sắc giá trị nhân phẩm của mình, điều đó tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật, sống mãi cùng thời gian.
Từ cô Kiều trong kiệt tác của Nguyễn Du, ta lại gặp thêm bao nhiêu thân phận bất hạnh trong chùm ca dao than thân:
“ Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”
Câu ca dao mở đầu bằng mô thức “thân em” toát lên âm điệu ngậm ngùi trong tiếng than của người phụ nữ. Cách mở đầu ấy khiến lời than thêm xót xa. Nghệ thuật so sánh với những hình ảnh thật gần gũi mà gợi cảm, câu ca dao gợi lên hình ảnh người phụ nữ với sự ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình. Đó là vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển của tuổi xuân và giá trị cao quí của mình, bởi lụa đào đâu phải thứ tầm thường! Nhưng nghệ thuật ẩn dụ ở đây lại gợi lên nỗi khổ đau thân phận cùa người phụ nữ. Bởi với cảnh ngộ phất phơ giữa chợ, người phụ nữ đã trở thành món hàng mua bán, họ sẽ bị phụ thuộc, cuộc sống bấp bênh không có gì đảm bảo, số phận không biết sẽ vào tay ai.
Trong xã hội ấy, người phụ nữ không thể quyết định được vận mệnh của mình như cô gái trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Số phận của cô như một món hàng ngoài đường mặc cho người đời lựa chọn và trả giá. Cô không thể quyết định được tình yêu của mình, sự cố gắng chống lại chỉ là vô vọng.
Người phụ nữ xưa trong văn chương không chỉ đẹp ngoại hình mà còn mang vẻ đẹp của nội tâm. Đó là vẻ đẹp của đức hạnh, lòng chung thủy sắt son như Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Đức hạnh là thế nhưng cuối cùng vẫn bị chồng mình nghi ngờ, Vũ Nương phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch của mình một cách đau đớn!
Một vẻ đẹp khác trong tâm hồn của người phụ nữ là tình cảm yêu thương. Ta lại gặp nỗi niềm nhớ thương người yêu của cô gái trong ca dao:
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Một nỗi nhớ được chuyển tải qua những câu hỏi liên tiếp của nhân vật trữ tình, không có câu trả lời, vì thế càng day dứt. Với nghệ thuật đảo thanh (thanh trắc, thanh bằng đan xen), câu ca dao diễn tả tâm trạng ngổn ngang, rối bời, da diết, khắc khoải thật mãnh liệt và nỗi nhớ ấy dẫn đến cảnh khóc thầm…
Mặc dù cam chịu là nét cơ bản trong phẩm chất của người phụ nữ thời phong kiến, nhưng vẫn có người vùng lên đấu tranh vì lẽ phải, vì cuộc sống của họ. Những lần hồi sinh của Tấm sau những lần sát hại của mẹ con Cám chính là sự trỗi dậy của khát vọng sống mãnh liệt. Sự hóa thân ấy chứng minh cho sức sống bền vững mạnh mẽ của con người trong xã hội còn áp bức bất công.
Rõ ràng, người phụ nữ trong xã hội xưa đều có chung một số phận, đều mang tên chung là bất hạnh. Dù họ có sắc đẹp, có tâm hồn cao thượng nhưng vẫn bị phong tục cổ hủ, lễ nghi khắc nghiệt ràng buộc. Họ có thể vùng dậy mạnh mẽ, nhưng họ vẫn không thể để chiến thắng được các thế lực đen tối, tàn bạo của xã hội phong kiếnbất công.
Đọc những áng thơ văn xưa, chúng ta cảm thông, xót thương biết bao cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, người đọc càng trân trọng hơn vẻ đẹp sáng ngời của họ trong xã hội khắc nghiệt ấy. Điều đó cũng nhắc nhở thế hệ trẻ hiểu hơn giá trị của cuộc sống ngày nay với bao điều tốt đẹp. Ở đó người phụ nữ được trân trọng, yêu quý và được sống với hạnh phúc của mình đã tìm kiếm và vun đắp.
Kim Phượng st