Nhạc sĩ Lam Phương- Một đời thăng trầm

Nhạc Sĩ LAM PHƯƠNG

MỘT ĐỜI THĂNG TRẦM

 Như thông lệ hằng năm, cứ vào đầu tháng 12, tôi đi trình diễn một tour bên Úc qua mấy thành phố lớn như Sydney, Melbourne, Brisbane và Perth. Năm ngoái, sau buổi văn nghệ tại Casino Crown, tôi được một vài thương gia mời đi ăn cơm rồi ngỏ ý đề nghị tôi đưa nhạc sĩ Lam Phương sang Úc, mặc dù ai cũng biết ông đang ngồi xe lăn từ 10 năm nay, di chuyển đường xa rất khó khăn.

Chỉ vì nhạc Lam Phương quá đặc sắc và đa dạng, nên khán giả bốn phương đều muốn nghe lại và nhất là muốn gặp mặt ông một lần, biết đâu chăng là lần cuối bởi năm nay ông đã 72. Những người ngồi với tôi hôm ấy đều còn nhớ rất rõ, Lam Phương là nhạc sĩ duy nhất mà Trung tâm Thúy Nga đã thực hiện đến 3 cuốn Paris By Night để giới thiệu sự nghiệp của ông :

–  “Bốn Mươi Năm Âm Nhạc Lam Phương” –  “Lam Phương, Dòng Nhạc Tiếp Nối” –  ” Đường Về Quê Hương’

Nói chung, ông là người viết nhạc có tầm ảnh hưởng rộng lớn nhất, xét về mức phổ biến trước cũng như sau năm 1975.

Từ Úc về, tôi sang trình diễn tại mấy nước ở vùng Đông Âu cũ như Ba Lan, Cộng Hòa Séc (Tiệp Khắc) và Slovaskia, những nơi chỉ có toàn người miền Bắc. Tại đây, một lần nữa tôi lại ngạc nhiên nghe bầu show và nhiều khán giả đề nghị tôi mời nhạc sĩ Lam Phương qua cho đồng bào gặp gỡ. Ở Praha, tôi hỏi một cô trong ban tổ chức :

– Lam Phương viết nhiều về người lính thời cũ, chẳng hạn Bức Tâm Thư, Tình Anh Lính Chiến, Chiều Hành Quân, Biết Đến Bao Giờ v.v… Khán giả ở đây chỉ gồm toàn người miền Bắc, từng là công nhân lao động hợp tác, cán bộ tu nghiệp hoặc du học sinh từ Hà Nội. Tổ chức chương trình nhạc sĩ Lam Phương cho họ coi, cháu nhắm có trở ngại gì không ? Bởi đã hát nhạc Lam Phương là phải hát đủ loại, cả nhạc lính lẫn nhạc tình !

Nhạc sĩ Lam Phương

Cô gái hân hoan trả lời tôi :

– Không sao đâu chú ! Viết nhạc trong thời chiến mà!  Âm nhạc tất nhiên phải phản ánh cuộc sống mà tác giả đi qua. Cháu mới vào Việt Nam. Sau cuốn Paris By Night Đường Về Quê Hương, cháu thấy hầu hết các tụ điểm ca nhạc trong nước bây giờ đều hát nhạc Lam Phương.

Sau chuyến lưu diễn Âu Châu, tôi về gọi điện thoại hỏi ý kiến và thuyết phục anh Lam Phương, giục anh chịu khó đi với tôi vài chuyến. Tôi tha thiết bảo :

– Cố gắng đi anh ! Khán giả ở đâu cũng mong gặp anh nhất là từ khi nghe tin anh bị tai biến mạch máu não !

Tôi quen anh Lam Phương đã 17 năm, làm việc chung với anh qua 3 cuốn video và nhiều chương trình live shows, tôi biết rõ tính anh rất dè dặt. Anh chỉ sợ di chuyển vất vả mà đến nơi không thành công thì buồn cho cả anh lẫn ban tổ chức. Tôi phải trấn an anh mãi bởi tôi biết rõ cảm tình của khán giả đối với anh. Cuối cùng anh đồng ý trên nguyên tắc : Đầu tháng 12 năm 2010, anh và tôi sẽ bay sang Úc dưới bảng hiệu Thúy Nga, rồi nhân tiện sang nước láng giềng Tân Tây Lan (New Zealand) luôn thể.

Riêng Đông Âu thì anh còn lưỡng lự và các bầu show bên ấy cũng chưa có ngày giờ nhất định bởi việc tổ chức show ở Âu Châu tương đối phức tạp, cần phải phối hợp giữa nhiều quốc gia lân cận.

Trong khi chờ đợi, tôi bàn với Thời Báo mời Lam Phương sang Toronto. Ý định này, anh em Thời Báo và tôi đã có bàn thảo một đôi lần trước đây, nhưng mãi năm nay mới thu xếp được và chỉ có ngày Thứ Bảy 24 tháng 07 là thuận tiện cho cả nhạc sĩ Lam Phương lẫn ban tổ chức. Lam Phương chưa qua Toronto bao giời nên tỏ ra ngần ngại. Tôi phải nhắc lại :

– Từ bao nhiêu năm nay, có show Lam Phương nào thất bại đâu anh ! San Jose, Orange County, Montreal,… chương trình nào cũng đầy ắp khán giả, có nơi không đủ vé bán. Mùa hè Toronto đẹp lắm. Đồng bào Toronto rất yêu văn nghệ. Mời anh sang thăm một lần cho biết !

Nhạc sĩ Lam Phương

– Anh kéo tôi đi đâu thì tôi đi đó !

Tôi hiểu ý anh. Rất nhiều nơi muốn tổ chức đêm nhạc Lam Phương. Nhưng ở đâu anh cũng muốn phải có tôi giới thiệu, bởi chúng tôi đã làm việc chung với nhau tới 3 cuốn Paris By Night, tôi hiểu rõ tâm sự và xuất xứ từng ca khúc của anh. Tôi cám ơn anh rồi bảo :

– Tôi phone anh trước, nếu anh đồng ý thì đại diện Thời Báo sẽ liên lạc với anh !

Thời Báo chẳng những chỉ liên lạc với anh Lam Phương bằng phone, mà Nguyễn Đạt và anh Sa Xuân Vũ còn bay sang tận nơi, ghé thăm anh Lam Phương trong căn nhà quạnh hiu trồng đầy bông hồng chung quanh. Anh cảm động gọi cho tôi, cám ơn sự chu đáo của anh em Thời Báo Toronto và hẹn sẽ gặp khán giả Toronto cuối tháng 07.

Đôi nét về nhạc sĩ Lam Phương

Vào những năm đầu khi mới chia cắt đất nước (1954), dân chúng miền Nam thường được nghe đi nghe lại bài Chuyến Đò Vĩ Tuyến trên đài phát thanh:

“Đêm nay trăng sang quá anh ơi / Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai mầu…”

Lúc ấy, ai cũng tưởng Lam Phương chắc phải là một “ông Bắc kỳ di cư” lớn tuổi, dàn trải tâm tư khắc khoải của mình khi rời đất Bắc vào Nam tìm tự do. Nhưng hóa ra tác giả chỉ là một thanh niên miền Nam mới 18 tuổi, đã khơi lên nỗi xúc động thay cho gần một triệu đồng bào vừa lìa xa cố hương.

Từ cái bước khởi đầu vững chắc ấy, người ta đã nhìn thấy ở trước Lam Phương là một tài năng lớn, một sức sáng tạo đích thực, và quả nhiên như mọi người dự đoán, anh đã cống hiến cho tân nhạc Việt Nam gần 200 ca khúc đặc sắc trong nửa thế kỷ vừa qua.

 Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh ngày 20/03/1937, tại Rạch Giá. Nội tổ của anh vốn là người gốc Hoa, bỏ nước sang Việt Nam lập nghiệp trong đợt di dân ồ ạt của người Hoa chống đối với nhà Mãn Thanh. Đời ông nội của Lam Phương đã bắt đầu lai Việt Nam và đến thân phụ của anh thì chẳng còn dấu vết gì là người Hoa nữa.

Lam Phương là con đầu lòng, nhưng lớn lên chỉ thấy mẹ và các em trong cảnh nghèo nàn xác xơ. Ông bố đã bỏ đi theo người đàn bà khác từ lúc Lam Phương chưa đủ trí khôn.

Mười tuổi, Lam Phương giã từ Rạch Giá lên Sài Gòn, ở trọ nhà người quen trong xóm lao động tăm tối vùng Đa Kao và vào học trung học ở Việt Nam Học Đường. Thời gian này, anh bắt đầu tự học nhạc qua sách vở, phần lớn là bằng tiếng Pháp.

Điều này dễ hiểu, bởi ngày ấy nước ta chưa có trường âm nhạc. Thế hệ Lam Phương cũng như các nhạc sĩ lớn tuổi hơn, muốn học nhạc thì hoặc phải tự mò mẫm qua các tài liệu viết bằng tiếng Pháp, hoặc ghi danh hàm thụ các trường chuyên nghiệp bên Paris để họ gửi bài vở sang. Song song với phần nhạc lý, Lam Phương cũng xin học lớp guitar do một ông thầy Việt Nam truyền nghề.

Để trắc nghiệm khả năng học hỏi của mình sau một thời gian miệt mài, năm 1952, lúc mới 15 tuổi, Lam Phương sáng tác ca khúc đầu tay là Chiều Thu Ấy. Anh vay mượn bạn bè và hàng xóm, tự in bản nhạc rồi thuê xe lam chở đi giao cho các quầy hàng bán lẻ.

Tuy cũng lấy lại vốn, nhưng ca khúc này chưa gây được tiếng vang. Phải chờ 3 năm sau khi 18 tuổi, Lam Phương mới tung ra được một số sáng tác nổi đình nổi đám ngay như Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Nhạc Rừng Khuya, Trăng Thanh Bình, Khúc Ca Ngày Mưa, Nắng Đẹp Miền Nam v.v…

Nhạc của Lam Phương nhanh chóng tràn lan trong học đường trên phạm vi cả nước. Hầu như trường nào cũng cho học trò đồng ca hoặc múa hát những bài tươi vui lành mạnh, phổ biến nhất là Khúc Ca Ngày Mưa và Nắng Đẹp Miền Nam. Ở những nhạc phẩm này, người ta thấy ngay sự phản ánh rất rõ nét một thời thanh bình rộn rã của những năm đầu nền Đệ nhất Cộng hòa.

 Năm 21, Lam Phương nhập ngũ. Thời ấy, thanh niên đi quân dịch chỉ có một năm bởi là nghĩa vụ quân sự trong thời bình. Tại quân trường, anh viết Bức Tâm Thư, hô hào thanh niên sốt sắng đi quân dịch. Ngày mãn khóa, anh sáng tác 2 bản nhạc nổi tiếng là Tình Anh Lính Chiến và Chiều Hành Quân.

Anh kể với tôi: Vì không biết rõ xuất xứ sáng tác bài Tình Anh Lính Chiến, cho nên sau này nhiều ca sĩ thường hát câu: “Anh chiến trường, em nơi hậu tuyến”. Thật sự thì hát như vậy là sai, bởi anh viết cho bạn bè đồng ngũ trước khi chia tay ở quân trường, mỗi người đi mỗi nơi, nên câu hát đúng là ‘Anh chiến trường, tôi nơi hậu tuyến”. Đây là tình đồng đội chứ không phải tình yêu trai gái.

Mãn hạn quân dịch, trở về đời sống dân sự, Lam Phương tiếp tục sáng tác và tự xuất bản các tác phẩm của mình. Nhạc của anh có sức phổ biến sâu rộng, là một trong những nhạc sĩ thành công nhất ở miền Nam, giúp anh thoát khỏi cảnh lầm than mà anh đã mô tả qua bản Kiếp Nghèo mấy năm về trước. 

 Lúc ấy, nhạc sĩ Phạm Duy đang phụ trách trung tâm Quốc Gia Điện Ảnh, nghe tiếng Lam Phương, gọi anh đến và giới thiệu với đạo diễn Lưu Bạch Đàn để Lam Phương đóng vai chính trong phim Chân Trời Mới bên cạnh nữ tài tử Mai Ly và kịch sĩ lão thành Vũ Huân. Đây là một phim truyện nhằm cổ võ cho quốc sách Ấp Chiến Lược, đồng thời đả phá tệ nạn quan liêu phong kiến ở xã ấp.

Khi tên tuổi bắt đầu vững vàng, Lam Phương lập gia đình với kịch sĩ kiêm ca sĩ Túy Hồng. Từ đó anh phụ trách thêm công việc viết nhạc nền cho ban kịch Sống, cho chúng thêm hàng loạt ca khúc đặc sắc như Thu Sầu, Nghẹn Ngào, Trăm Nhớ Ngàn Thương, Phút Cuối, Ngày Buồn v.v…

Tình hình chiến sự miền Nam gia tăng, Lam Phương được gọi tái ngũ. Anh mặc quân phục trở lại và gia nhập Ban Văn Nghệ Bảo An (Địa Phương Quân). Khi ban này giải tán, anh chuyển qua ban văn nghệ Hoa Tình Thương. Rồi Hoa Tình Thương cũng giải tán để biến thành Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, nơi Lam Phương cộng tác cho đến ngày mất miền Nam.

Trong khoảng thời gian này, sức sáng tác của Lam Phương càng dàn trải trên nhiều thể loại rất phong phú mà đặc biệt một điểm là hầu hết ca khúc nào anh đưa ra cũng đều trở thành Top Hit trên thị trường, điển hình như Chờ Người, Tình Bơ Vơ, Duyên Kiếp, Thành Phố Buồn, Tình Chết Theo Mùa Đông v.v… đưa anh vào vị trí một nhạc sĩ thành công nhất Việt Nam về mặt tài chánh.

Túy Hồng và Lam Phương

Sáng ngày 30/4/1975, anh quyết định vào phút chót, đem gia đình chạy lên tàu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy, cùng với gần 4000 đồng bào ra khơi. Trên tàu, anh gặp Elvis Phương, ca sĩ đầu tiên đã hát bài Chờ Người của anh khoảng năm 1972. Cũng trong đám người dày đặc đó, có một cô bé còn bế trên tay, sau này là á hậu Việt Nam tại Paris và trở thành nữ ca sĩ Bảo Hân.

Vì không có ý định ra đi, cho nên Lam Phương hoàn toàn chẳng chuẩn bị bất cứ thứ hành trang nào để đem theo. Anh bỏ lại chiếc xe hơi, hai căn nhà lớn và khoảng 30 triệu đồng trong ngân hàng để lên đường với hai bàn tay trắng và vài bộ quần áo ! Lúc ấy, lương một vị tổng giám đốc hoặc một vị đại tá trong quân đội chỉ có mấy chục ngàn một tháng ! (nên nhớ vàng 9999 Kim Thành lúc đó chỉ có 36.000d9VN/lượng)

Định cư ở Mỹ, cái job đầu tiên anh làm trong hãng Sears là lau sàn nhà và cọ cầu tiêu! Rồi chuyển sang làm thợ mài, thợ tiện, bus boy. Tuy vậy, cứ mỗi cuối tuần anh vẫn cố gắng thuê một nhà hàng, biến thành phòng trà ca nhạc để đồng hương có chỗ gặp nhau và để chính anh cùng Túy Hồng đỡ nhớ sân khấu.

Nghề này, chẳng những lợi tức không có bao nhiêu mà buồn thay, chỉ sau một khoảng thời gian ngắn, anh khám phá ra người bạn đời không còn thủy chung với anh nữa. Anh cay đắng vật vã, cố gắng hàn gắn nhưng không xong. Anh biết cái thế của anh đã mất hẳn từ khi ra hải ngoại, bởi tiền bạc, danh vọng đều chỉ còn là trong kỷ niệm

Nỗi đau ray rứt của cuộc tình tan vỡ trên đất khách đã là động lực sâu thẳm khiến anh sáng tác mấy bản nhạc rất bi thương, trong đó có một bài để đời là Lầm :

“Anh đã lầm đưa em sang đây / Để đêm trường nghe tiếng thở dài / Thà cuộc đời im trong lòng đất…”

Rồi anh ngậm ngùi bỏ Hoa Kỳ sang Paris, xin vào làm công việc đóng gói quét dọn cho một tiệm tạp hóa. Cũng tại đây, anh gặp lại ông bà Tô Văn Lai, chủ nhân Trung tâm băng nhạc Thúy Nga, vốn đã quen biết anh ở Sài Gòn từ trước năm 75.

Thúy Nga ngày ấy cũng còn quá nghèo, chỉ sang lại những băng cũ mang theo từ Việt Nam, nên chả có việc gì cho Lam Phương làm. Chính bản thân ông Tô Văn Lai, Giáo sư Triết ở Sài Gòn, dân trường Tây từ nhỏ, giờ đây cũng phải đi học nghề sửa xe và đứng bơm xăng ở vùng Bondi, ngoại ô Paris.

Lam Phương tiếp tục sống lầm lũi cho qua ngày ở kinh thành ánh sáng, mãi cho đến khi anh bất ngờ gặp một khúc rẽ tình cảm mới: Một người đàn bà rất đẹp đã đến với trái tim anh, giúp anh xóa đi những ngày tăm tối vừa qua. Nhờ khúc rẽ ấy, chúng ta mới có được một loạt ca khúc chan hòa niềm vui như Mùa Thu Yêu Đương, Tình Hồng Paris, Tình Đẹp Như Mơ, và nhất là Bài Tango Cho Em :

“Từ ngày có em về/ Nhà mình ngập ánh trăng thề…”

Cũng trong khoảng thời gian tạm cư ở Paris, anh sáng tác 3 ca khúc nổi tiếng khác mà giờ này thính giả vẫn thích nghe đi nghe lại :

– Cho Em Quên Tuổi Ngọc : Anh đặt cả lời Pháp lẫn lời Việt, viết cho một cuốn phim. Tựa tiếng Pháp là C’est Toi.

– Em Đi Rồi : Anh viết cho chuyện tình tan vỡ của nữ ca sĩ Họa My, khi Họa My sang Pháp để lại người chồng ở Việt Nam.

– Một Mình : Cảm xúc của chính anh buổi sáng thức dậy, cô đơn nhìn ra cửa trong ánh bình minh.

Bước sang đầu thập tiên 1990, Trung tâm Thúy Nga tương đối đã có cơ sở vững vàng ở Paris lẫn Cali sau khi sản xuất thành công một loạt video tuồng cải lương và các chương trình Paris By Night bắt đầu từ năm 1983. Lúc ấy, Thúy Nga mới quyết định thực hiện một cuốn Paris By Night chủ đề nhạc Lam Phương.

Đó là lần đầu tiên tôi gặp anh Lam Phương vào tháng 03 năm 1993, khi trời Paris còn đang se lạnh. Mặc dầu lúc này Lam Phương đã chia tay người đàn bà từng mang cho anh “những nụ hồng Paris”, nhưng cuộc sống của anh đã tạm ổn định cả mặt tinh thần lẫn vật chất, một phần nhờ có cô em gái từ Việt Nam sang tỵ nạn, mở tiệm ăn Như Ánh ngay tại Quận 13, giao cho anh làm manager.

Lúc gặp tôi, anh đã hoàn toàn lấy lại phong độ, tìm lại sự tin yêu trong cuộc đời, quên hết những nhọc nhằn gần 20 năm sóng gió vừa qua. Anh cho biết : Anh ít đọc sách của tôi, nhưng em gái anh, chủ nhà hàng, thì bất cứ lúc nào rảnh rỗi, cô cũng để cuốn tiểu thuyết Màu Cỏ Úa. Nhờ vậy, tuy gặp nhau lần đầu mà anh với tôi đã có cảm tưởng như quen nhau từ lâu

 Bài học đầu tiên tôi học ở anh Lam Phương là sự bình dị và khiêm tốn. Một người từng nổi tiếng từ lúc tuổi chưa đến 20, từng có một cuộc sống giàu sang ở Sài Gòn, giờ này ngồi tiếp chuyện tôi trong cái quán nhỏ, bằng một thái độ rất chân tình và lịch sự, mặc dầu tôi thua anh về mọi mặt. Cái ấn tượng ban đầu ấy khắc ghi mãi trong lòng tôi cho đến hôm nay.

Sau sự thành công của Paris By Night “Bốn Mươi Năm Âm Nhạc Lam Phương”, chỉ hơn một năm sau, Thúy Nga lại thực hiện thêm một chương trình Lam Phương thứ 2 bởi nhạc anh còn quá nhiều. Cuốn này tôi đặt tựa đề là “Lam Phương, Dòng Nhạc Tiếp Nối’.

Sau cuốn băng ấy, Lam Phương quay về định cư tại Hoa Kỳ năm 1995. Người đàn bà bảo lãnh anh trở lại Mỹ tuy không phải là một cuộc tình lớn trong đời, nhưng anh cần một mái ấm ổn định ở tuổi đã trên 55. Về lại Cali, anh tiếp tục sáng tác và lâu lâu phụ việc với Trung tâm Thúy Nga lúc này đang trên đà thăng tiến mạnh mẽ.

Dòng đời đang êm trôi thì ngày 13/3/1999, trong lúc đang dự tiệc ở nhà một người thân, không may anh bị tai biến mạch máu não. Từ đó anh nói không ra lời, một nửa thân thể gần như bại liệt hoàn toàn.

Bàn tay đánh đàn ghi nốt nhạc mấy chục năm qua, bây giờ không sử dụng được nữa. Anh chị em nghệ sĩ cùng nhau tổ chức đêm nhạc Lam Phương tại nhà hàng Majestic để hỗ trợ anh về cả hai mặt tinh thần và tài chánh. Tôi bay sang góp mặt, anh chỉ nắm tay tôi ứa nước mắt mà nói không thành câu.

Vài hôm sau, người đàn bà đang chung sống với anh, cũng lặng lẽ chia tay, bỏ lại anh trên chiếc xe lăn, bơ vơ trong căn nhà vắng, để ngày nay anh thấm thía với nỗi quạnh hiu như những lời ca tiên tri chính anh đã viết :

“Sớm mai thức giấc / Nhìn quanh một mình !”

 Thời gian trôi qua quá nhanh ! Mới đó mà Lam Phương “nhìn quanh một mình” đã 11 năm ! Anh đã cố gắng vượt bậc, cố giữ tâm hồn thư thái và thể dục đều đặn. Nhờ vậy thỉnh thoảng anh có thể tạm bỏ xe lăn, đứng dậy chống gậy đi một vòng quanh nhà.

Nỗi buồn lớn nhất của anh từ ngày gặp nạn là không còn đánh đàn và viết nhạc được nữa bởi một nửa thân thể vẫn hoàn toàn bất động, mặc dầu trí óc anh rất sáng suốt. (Nguyễn Ngọc)

~~~~<❤️>~~~~

 Lam Phương -Trăm nhớ ngàn thương

=◊◊◊=

Nhạc sĩ Lam Phương thời trẻ

 Cuốn Sách về nhạc sĩ Lam Phương với tựa đề: Trăm nhớ ngàn thương, do Nguyễn Thanh Nhã chấp bút theo tài liệu của gia đình, vừa ra mắt nhân 70 năm làm nghề của ông (Phanbook & Nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành). Tác phẩm được thực hiện trong thời gian ông điều trị tại Mỹ sau một cơn tai biến, không thể đối thoại được. Cuốn sách như những thước phim quay chậm về cuộc đời tác giả tiêu biểu của âm nhạc Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975. 

Kỳ một: Ký ức quê nghèo

Đó là một buổi sáng mùa thu của năm 1947. Phùng dậy sớm hơn thường lệ. Ngoài sông, tiếng chuông chùa thổn thức từng vạt sương đêm. Chú bé nhìn bóng má theo ngọn đèn leo lét in lên vách thưa, rồi nhìn lại gương mặt của từng đứa em thơ đang ngủ say. Chỉ lát nữa thôi, chú bé 10 tuổi sẽ rời bỏ quê hương Rạch Giá để lên Sài Gòn.

Chuyến xe đò lên phố thị trong buổi tù mù sáng, khi sương sớm còn chưa tan trên những khoảng sông và đầm lầy, mở ra cuộc đời tha phương đầy đa đoan, lắm thăng trầm.

Có một dòng sông chảy ngang phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Một bà má nghèo tảo tần nuôi sáu đứa con nơi con nước chia đôi mở hai hướng cảnh quan chơi vơi của vùng ngã ba sông, gọi là ấp Đầu Voi. Đối diện căn nhà tồi tàn trong xóm nhỏ là ngôi cổ tự Thập Phương cứ mỗi sáng tinh mơ lại ngân vang tiếng chuông mõ u trầm.

Nhạc sĩ Lam Phương năm ba tuổi. Ảnh tư liệu gia đình.

"Với nhiều người dân quê, tiếng chuông chùa làm mất giấc ngủ sau một ngày vất vả ngoài đồng. Người ta khó chịu dữ lắm! Còn với tôi, tôi yêu tiếng chuông chùa Thập Phương. Tôi không thể hiểu vì sao còn rất nhỏ nhưng tôi đã cảm nhận tiếng chuông đó rất buồn!

Sau này, năm 1957 tôi đã viết bài Chiều tàn chỉ vì nhớ tiếng chuông xưa".Tiếng chuông mỗi sáng cứ thao thức hoài trong tâm hồn cậu trên những dặm đường gió bụi về sau. Đó là thanh âm đồng vọng buồn bã, xa vắng mà da diết nhất, thức dậy một vùng quê nhà yêu thương trong tâm hồn một người tự nhận mình là "dân quê".

Ca từ của ca khúc này đẹp như bài thơ và một lần nữa kiếp nghèo, đời viễn xứ ám ảnh nét nhạc Lam Phương:

 

Chiều tàn


Làn khói ấm mái tranh hiền bao niềm thương
Chiều ơi, mây bơ vơ từ ngàn hướng
Lạc loài nơi chốn quê
Gió không biên cương lạc đường về
Tràn bao ngõ tối qua mảnh lá nghe thở than
Gió thương những mảnh tình nghèo nàn
Cuộc đời đen tối mong hạnh phúc khi chiều tan
Đường gập ghềnh lạnh lẽo
Quanh co đường về khắp nẻo xa xôi
Có bóng con đò chiều mơ
Khách qua đò làm thơ
Êm trôi giữa trời nước bơ vơ
Nhẹ nhàng thuyền cập bến
Dòng sông nước hững hờ
Nghe không gian như thờ ơ
Có bóng cô em thẫn thờ
Nhìn áng mây trôi
Lắng nghe chuông chiều
Mà lòng thương nhớ ai nhiều"

Lâm Đình Phùng sinh ngày 20/3/1937. Ông lấy bút danh Lam Phương để làm nhẹ đi hai chữ Lâm và Phùng trong họ tên. Thân phụ của Lam Phương là ông Lâm Đình Chất, người Hoa, và thân mẫu là bà Trần Thị Nho, một thôn nữ nghèo.

Song thân của ông có sáu người con và theo cách gọi miền Nam thì Lâm Đình Phùng là anh Hai, tức là con trai lớn nhất trong nhà. Con đông, gia cảnh túng bấn, người cha bỏ xứ tìm về Sài Gòn từ khi Lam Phương còn rất nhỏ.

Lúc đầu, người cha thỉnh thoảng về thăm nhà, sau thưa dần. Mỗi chuyến ghé thăm, thân phụ để lại cho thân mẫu Lam Phương một đứa em. Đến cô em út Lâm Thị Minh Khai thì gia đình nhỏ ở Rạch Giá không còn giữ chân ông được nữa!

Thiếu đi trụ cột, má của cậu bé Phùng bắt đầu tất tả xuôi ngược trên sông, lúc làm mướn, khi bán buôn để kiếm chén cơm cho bầy con dại. Vùng đồng bằng sông Cửu Long vào thập niên 1930 xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế và lương thực, một phần bởi những chính sách điền thổ thời thực dân làm thay đổi cảnh quan môi trường và mưu sinh của dân địa phương.

Đại cảnh đó ít nhiều làm tan đàn xẻ nghé nhiều gia đình nghèo. Người nông dân phải lâm vào cảnh mưu sinh khó nhọc, trôi dạt. Gia đình chú bé Phùng cũng vậy. Người mẹ tảo tần tìm cái ăn giữa buổi loạn ly đã khó, nói chi cho con đặt chân đến những ngôi trường Tây trong vùng. Phùng và các em dù rất khát khao đi học cũng khó lòng được thỏa nguyện.

 Rất may cho chú bé Phùng, một người dượng phía ngoại là thầy giáo Phan Văn Mỹ từng dạy tại trường Tiểu học Vĩnh Lạc, Rạch Giá đã bảo bọc cho chú đi học "đặng biết đọc biết viết với thiên hạ". Nhờ vậy mà Phùng đã có thể học chữ một cách bài bản.

Chân dung ngày thơ ấu của người nhạc sĩ tài hoa được những người bạn cũ ở trường làng Vĩnh Lạc vẽ lại khá khép kín: Trò Phùng ít sôi nổi, thường ngồi một mình nhìn mây bay ngoài cửa sổ lớp. Dáng vẻ trầm ngâm như một người tu hành. Mỗi ngày đến trường, trò Phùng mặc độc chiếc áo rằn ri ngắn tay và chưa bao giờ có thể hiện gì về năng khiếu văn nghệ...

Nhạc sĩ Lam Phương bên mẹ. Ảnh:Gia đình cung cấp.

Càng lớn, Phùng càng nhận ra, dòng sông không chảy trọn vẹn theo chiều. Có bao nhiêu đoạn rẽ trên một dòng sông là có bấy nhiêu bến bờ của ly biệt... Đó là lý do một tuần trước khi lên chuyến xe đò tha phương, chú bé đi bộ khắp xóm thôn, nhìn lại hình ảnh mười tám mái tranh bệ rạc xóm nghèo và thuộc đến từng vệ cỏ...

Có lẽ, Phùng đã dự cảm về ngày phải "gom góp yêu thương quê nhà" giữa trời thu Rạch Giá bàng bạc mây...Những hồi tưởng ấy khá chính xác. Đó chính là tâm trạng buồn tủi và đơn độc của một cậu học trò sớm biết lo âu về tương lai, bởi gia đình nhỏ thiếu vắng vai trò trụ cột của người cha. Ngày tháng không trọn vẹn hạnh phúc, bao nỗi cơ cực đã phủ nỗi buồn lên đôi mắt chú bé ở vùng sông nước nghèo nàn.

Mỗi chiều, sau những giờ phụ mẹ ẵm em, làm việc nhà, hay rảnh rỗi lúc tan trường, Phùng lại ra khúc sông Đầu Voi ngắm vạt lục bình lững lờ, dự cảm về một ngày mai trôi nổi.

Và trong tâm trí người nhạc sĩ duy cảm, mãi về sau, luôn hiện hữu hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó gánh vác mọi việc để nuôi sáu miệng ăn. Trong một cuộc phỏng vấn sau này, ông nhắc lại câu nói giản dị quen thuộc: Tôi thương má tôi lắm! Má tôi mơ ước cái nhà che nắng mưa. Chỉ có vậy mà tôi làm cật lực, làm chết bỏ để có tiền mua nhà cho má.

Về sau, khi đã kiếm được chút vốn liếng, bà Nho mới mở được một sạp hàng tại nhà. Điều kiện kinh tế ổn định hơn, bà nhận ra con trai mình không thể học mãi ở trường làng cho biết con chữ rồi chỉ để trở về gốc gác của một tá điền theo kiểu "con sãi ở chùa thì quét lá đa".

Đến lúc nó cần bước ra cuộc đời rộng hơn. Sài Gòn là điểm đến với nhiều hy vọng đổi đời. Bà còn có hy vọng mong manh rằng, ngày nào đó, trong dòng đời tấp nập của phố thị, đứa con trai sẽ tìm thấy cha mình.

 Kỳ hai : Thất bạn đầu đời

 Thời trẻ, nhạc sĩ Lam Phương vay bạn 200 đồng in các tờ nhạc ông viết rồi tìm đến các tiệm để tự phát hành song đều bị từ chối. Hồi ức buồn của đời bán nhạc :"Cay đắng lắm! Người ta nói thẳng: Tôi không biết cậu là ai. Rồi đến cái tiệm bán tờ nhạc ở lề đường cũng nói qua loa: Cậu cứ để đó, bán được bao nhiêu trả tiền bấy nhiêu. Tôi nghĩ về khoản nợ 200 đồng bạc đi mượn mà xót xa".

Đó là những lời tâm sự về hoàn cảnh tự mình phát hành tờ nhạc mà đến cuối đời Lam Phương vẫn không quên. Theo đó, Lam Phương đã mượn 200 đồng từ một người bạn học khá giả rồi tự liên hệ nhà in để in bản Chiều thu ấy, rồi tự đi phát hành trên khắp phố phường Sài Gòn.

Thất bại đầu đời với số nợ 200 đồng, Lam Phương tìm về ký ức quê hương như một điểm bấu víu cho cõi lòng bẽ bàng của ngày đầu sáng tác.

 

Lam Phương thời mới viết nhạc. Ảnh tư liệu gia đình.

Thời điểm những năm 1950, miền Nam vẫn còn bình yên. Và như trước cơn bão lớn của các chiến sự sẽ nổ ra nhanh chóng sau đó, sự yên ả vốn có của miền Nam tiếp tục đi vào nhạc Lam Phương. Giai đoạn này Lam Phương vẫn tiếp tục sáng tác, lại mượn tiền bạn đi in, đi làm thuê lao động chân tay để có tiền trả nợ, rồi lại tiếp tục đi bán nhạc lẻ...

Đỉnh điểm của món nợ vay lên đến 600 đồng! Nếu lấy đồng tiền Đông Dương làm thước đo giá trị cho những năm 1950 khi đồng tiền này còn lưu hành, thì qua lời kể của nhà văn Vũ Bằng trong cuốn Bốn mươi năm nói láo sẽ thấy đây là số tiền không nhỏ.

Thời điểm này, Vũ Bằng viết, tờ Vịt Đực của ông vì châm chọc vua Bảo Đại mà phải nhận trát hầu tòa. Muốn phản tố phải nộp cho tòa án 1.000 đồng mà cả tòa soạn báo Vịt Đực đã không thể nào xoay xở được dẫn đến việc tờ báo phải đóng cửa.

Nhưng với bầu nhiệt huyết lạ lùng, Lam Phương vẫn đi vay tiền để in tờ nhạc, những mong có ngày sẽ thu được số tiền trả nợ. Năm 1954, trước thời điểm xảy ra sự kiện Hiệp định Genève, Lam Phương đánh dấu sự nghiệp âm nhạc của mình bằng bản Khúc ca ngày mùa.

 

Ngay khi bản nhạc xuất hiện, Lam Phương trở thành làn gió mới của âm nhạc miền Nam. Bản Khúc ca ngày mùa được báo chí Sài Gòn miêu tả là đã đưa tên tuổi Lam Phương từ bóng tối ra khung trời rực rỡ. Độ phổ biến của bài hát được ghi nhận vào năm 1954 là lan tỏa từ thành thị đến nông thôn, từ sân trường đến trại lính, từ công xưởng đến những người bán hàng rong vỉa hè...

Năm 1956, thành phố Sài Gòn đón những đợt di cư mới từ miền Bắc. Trong số đó, giới nghệ sĩ tinh hoa và trung lưu mới nhập cư đã góp phần tạo nên một khí hậu văn hóa khác biệt, một thị trường tiêu thụ sản phẩm văn hóa sôi động, từ sách báo xuất bản đến mỹ thuật, âm nhạc.

Từ một chàng trai vô danh, Lam Phương được các nhà xuất bản chào đón bằng những bản hợp đồng in nhạc để có bản quyền in Khúc ca ngày mùa. Lam Phương không giấu được niềm xúc động đến rơi nước mắt, như lời mô tả trên báo Sài Gòn Mới số ra ngày 26/3/1956 của ký giả Ngọc Huyền-Lan thì bản nhạc đã được tái bản tới lần thứ bảy. Chỉ với Khúc ca ngày mùa, ký giả này không ngại khẳng định, Lam Phương đã sánh ngang với các nhạc sĩ tiền bối mà tên tuổi đã thành danh từ 20 năm trước.

Số nợ 600 đồng với người bạn học đã được Lam Phương trả lại bằng tiền bán bản quyền Khúc ca ngày mùa.

Cũng trong giai đoạn này, chàng nhạc sĩ trẻ được thêm động lực, tiếp tục viết những bản nhạc mới, ghi đậm dấu ấn một nhạc sĩ miền Nam trong lòng công chúng, với các tác phẩm mang tình tự quê hương: Hương thanh bình, Mùa hoa phượng, Trăng thanh bình, Nhạc rừng khuya...

Sách "Lam Phương - Trăm nhớ ngàn thương". Ảnh: Phanbook.

 Tuy những bản nhạc ấy ít nổi tiếng hơn Khúc ca ngày mùa, nhưng là bước đệm quan trọng để khởi sự định hình một tên tuổi trong lòng người mê nhạc Sài Gòn. Đó cũng là nền tảng để Lam Phương giữ nhịp sáng tác đều đặn để rồi một ngày, những lưu dân, những người nhập cư nơi phố thị thấy tiếng lòng của mình đã được người nhạc sĩ trẻ cảm thấu và phổ nên giai điệu đầy cảm động. Ca khúc Kiếp nghèo ra đời.

Kỳ ba: Thoát nghèo nhờ 'Kiếp nghèo'

Chỉ với bài "Kiếp nghèo", nhạc sĩ Lam Phương mua được ngôi nhà cho mẹ trị giá 40 cây vàng vào thập niên 1960 đưa nhạc sĩ Lam Phương thoát nghèo.

Lam Phương mới có vài nhạc phẩm cũng có chút danh tiếng nhưng về thu nhập cũng chưa đáng là bao so với đời sống ở phố thị đắt đỏ. Trong sinh hoạt thường nhật, tuy là một nghệ sĩ, nhưng Lam Phương khá chừng mực trong chi tiêu. Một phần vì tuổi còn trẻ, phần khác vì xuất thân quê kiểng, Lam Phương không hút thuốc lá, không uống rượu hay tụ tập ở các tụ điểm, quán bar như các nghệ sĩ đương thời.

Nhạc sĩ Lam Phương thời trẻ. Ảnh gia đình cung cấp.

 Giữa năm 1954, những cơn mưa Sài Gòn trĩu nặng phủ kín phố phường, Đa Kao bị ngập úng nặng nề. Dòng kênh Nhiêu Lộc nước lé đé xóm Vạn Chài vốn chỉ được cơi nới bằng gỗ tạp, tạm bợ trên kênh. Lam Phương phờ phạc người, đạp xe về xóm trọ, thấy trước hiên nhà, má mình đang loay hoay hứng nước mưa.

Căn gác ọp ẹp hiện ra trước mắt người nhạc sĩ trẻ tuổi như một cảnh sống tối tăm của những phần đời mong manh, trôi nổi. Lam Phương đã nhẩm những nốt đầu tiên trong bài Kiếp nghèo. Có thể nói, đời sống khốn khó cơ cực từ khi mới lọt lòng cho đến lúc tha phương cầu thực đã được chàng nhạc sĩ nghèo viết xuống một cách giản dị và tự nhiên trên một giai điệu duy tình:

Đường về đêm nay vắng tanh, rạt rào hạt mưa rớt nhanh
Lạnh lùng mưa xuyên áo tơi, mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh
Lầy lội qua muôn lối quanh, gập ghềnh đường đê tối tăm
Ngập ngừng dừng bên mái tranh nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi.


Êm êm tiếng hát ngân nga ôi lời mẹ hiền ru thiết tha
Không gian tím ngắt bao la như thương đường về quá xa
Mưa ơi có thấu cho ta lòng lạnh lùng giữa đêm trường
Đời gì chẳng tình thương không yêu đương.


Thương cho kiếp sống tha hương thân gầy gò gởi cho gió sương
Đôi khi muốn nói yêu ai nhưng ngại ngùng đành lãng phai
Đêm nay giấy trắng tâm tư gởi về người chốn mịt mùng
Đời nghèo lòng nào dám mơ tình chung.


Trời cao có thấu cúi xin người ban phước cho đời con
Một mái tranh yêu, một khối tình chung thủy không hề phai
Và một ngày mai mưa không nghe tiếng khóc trong đêm dài
Đây cả nỗi niềm biết ngày nào ai thấu cho lòng ai.

Lần đầu tiên nghe Kiếp nghèo của Lam Phương - thế hệ nhạc sĩ đàn em và là học trò, nhạc sĩ Lê Thương đã phải thốt lên: "Người ta chỉ có thể dạy nhau kỹ thuật âm nhạc. Không ai có thể dạy nhau nghệ thuật sáng tác được. Cảm xúc mới là thứ quan trọng nhất để làm nên bản nhạc".

Hồi tưởng lại những ký ức xót xa, Lam Phương kể về tuổi mười bảy mưa chan nước mắt:

"Tôi viết bài Kiếp nghèo trong hoàn cảnh hoàn toàn thật của tôi lúc đó. Viết bằng rung động chân thành, và lần đầu tiên tôi viết bài Kiếp nghèo bằng những dòng nước mắt... Lúc đó tôi còn trẻ lắm, khoảng 1954, sau khi tôi bán được bài Trăng thanh bình đầu năm 1953, tôi để dành được một số tiền, mua một chiếc xe đạp để di chuyển đến trường học.

Nhà tôi ở Đa Kao. Thường thường muốn về Đa Kao phải đi qua con đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ). Con đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Khoảng ngang trường Gia Long không có một căn nhà nào... Đêm đó, tôi chẳng may gặp một trận mưa rất to, không có nơi để trú mưa, đành phải đi dưới mưa để tìm 'thú đau thương'.

Lúc đó, tôi thấy mình thật cô đơn, thấy mình bé nhỏ và hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi cho tới khi về nhà, không kịp thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết về kiếp nghèo, về phận bạc của mình".

Lam Phương mất một tuần để chỉnh sửa lời và giai điệu cho Kiếp nghèo trước khi công bố ra công chúng thông qua hợp đồng xuất bản tờ nhạc với Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam. Đây là nhà xuất bản do ông Tăng Duyệt, một người Huế gốc Quảng Đông, Trung Quốc sáng lập và làm chủ; có chủ trương được ghi trang trọng ở các bìa 4 của tờ nhạc:

"Để biểu dương một nguồn âm nhạc Việt Nam mới - trên nền tảng văn hóa và nghệ thuật - Nhà xuất bản Tinh Hoa đã và sẽ lần lượt trình bày những nhạc phẩm chọn lọc giá trị nhất của các nhạc sĩ chân chính với một công trình ấn loát mỹ thuật để biếu các bạn yêu âm nhạc góp thành một tập nhạc quý".

Và tờ nhạc Kiếp nghèo năm 1954 đã là một "công trình ấn loát mỹ thuật" với lối vẽ minh họa lập thể đầy sáng tạo của một trong những họa sĩ tài hoa bậc nhất miền Nam bấy giờ: họa sĩ Duy Liêm.

Một trong những ca sĩ ăn khách bậc nhất trên trang bìa tờ nhạc Tinh Hoa Miền Nam chính là ca sĩ Thanh Thúy, người đầu tiên thể hiện ca khúc Kiếp nghèo với tiếng hát liêu trai, khiến người nghe có thể bật khóc được nếu nghe trong một quán trọ giữa đêm khuya thanh vắng. Ca sĩ "tiếng sầu ru khuya" Thanh Thúy đưa Kiếp nghèo nhanh chóng phủ khắp Sài Gòn thông qua sóng phát thanh và dĩa nhựa của hãng Shotguns. Chưa dừng lại ở đó, giọng ca Thanh Tuyền tiếp nối đàn chị đưa bản nhạc trở thành bài hát thịnh hành bậc nhất những năm 1960 ở miền Nam.

Lam Phương tâm sự, chỉ với bài Kiếp nghèo, ông đã mua được ngôi nhà khang trang cho má mình ở cư xá Lữ Gia. Gia đình nhạc sĩ tiết lộ giá trị ngôi nhà thời điểm đó là 40 cây vàng. Năm 1960, "nhạn trắng Gò Công" - ca sĩ Phương Dung - đi hát ở mỗi phòng trà được cát-xê là 35.000 đồng/tháng, trong khi vàng chưa tới 30.000 đồng/cây. Trong khi đó, với Kiếp nghèo, Lam Phương thu tiền bán bản quyền lên tới 1.200.000 đồng để mua nhà cho má và các em.

Kiếp nghèo đã đưa nhạc sĩ nhập cư Sài Gòn thoát nghèo!

Kỳ 4: Thành phố buồn

Nhờ tiền tác quyền từ bài "Thành phố buồn", nhạc sĩ Lam Phương mua biệt thự 300 m2 ở quận 10 - hiện vẫn là tài sản gia đình ông.

Bản tình ca buồn về Đà Lạt trở thành best-seller

So với các nhạc sĩ cùng thời, Lam Phương có sáng tác về Đà Lạt hơi muộn. Trước đó, khán thính giả từng say đắm với chàng thanh niên 18 tuổi Từ Công Phụng ôm đàn guitar thùng và nghêu ngao Bây giờ tháng mấy.

Đà Lạt đi vào nhạc họ Từ đẹp đến quên sự hiện diện của thời gian. Người ta cũng biết rằng, Phạm Duy đưa Đà Lạt vào Cỏ hồng đầy quyến rũ. Có thể kể thêm những tên tuổi lớn khác như Trịnh Công Sơn, Hoàng Nguyên, Lê Uyên Phương... mà gần như các sáng tác đó đều hoàn hảo, vẽ ra một thành phố lãng mạn, giàu hoài niệm.

 

Thành phố buồn của Lam Phương ra đời năm 1970, khi nhạc sĩ theo đoàn văn nghệ Hoa Tình Thương của quân đội đi trình diễn ở Đà Lạt. Bài hát không có từ nào nhắc đến Đà Lạt mà chỉ bằng hình ảnh lãng đãng khói sương, đường quanh co quyện gốc thông già, hay con đường ngày xưa lá đổ... mà khói sương Đà Lạt được gọi về thật nhiều trong tâm tưởng người nghe.

Tất cả hình ảnh đó được dùng để kể câu chuyện đúng phong cách Lam Phương: Lồng vào một chuyện tình tan vỡ (motif nhạc tình buồn của dòng bolero bình dân thịnh hành thời điểm này)!

Người ta bắt gặp sự đồng cảm khi nghe Thành phố buồn có lẽ vì khung cảnh Đà Lạt là thiên đường cho tình yêu, là tìm chốn êm đềm. Để rồi cũng chính đô thị khói sương ấy lại khắc khoải buồn trong bức tranh tiễn biệt.

Có nhiều dị bản của Thành phố buồn mà tựu trung ở ca từ "trốn" hay "chốn" cho một vế tiếp theo đầy ngậm ngùi "... phong ba, em làm dâu nhà người". Các ca sĩ khi hát thường phải sử dụng ngữ âm miền Bắc nên phụ âm "tr" thành "ch".

Đây là một điểm sai lầm so với nguyên bản của tác giả. Tờ nhạc Thành phố buồn in năm 1970 do Sống giữ bản quyền, được Lam Phương viết là "trốn phong ba". Tức là, người con gái trong ca khúc né tránh cơn bão lòng, lánh xa giông bão tình yêu, để chọn một bến đỗ có bề an phận.

Cũng như Bây giờ tháng mấy của Từ Công Phụng, Thành phố buồn của Lam Phương được Đài Phát thanh Đà Lạt phát sóng lần đầu tiên. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Thành phố buồn lan tỏa khắp miền Nam.

Và một lần nữa, theo khói sương u hoài của cuộc tình buồn trong tưởng tượng, chỉ với một ca khúc, tài khoản trong nhà băng của Lam Phương tăng đến mức khó tưởng tượng.

"Ông cho biết, bài hát trên không hẳn viết cho một nhân vật cụ thể nào như nhiều người đã suy diễn và thêu dệt. Nhưng ‘số lượng xuất bản rất cao’ và doanh thu bài hát này vô cùng lớn, đó là điều được báo chí Sài Gòn đương thời tính toán được: khoảng 12 triệu đồng bản quyền, tiền Việt Nam Cộng hòa (hồi suất chính thức năm 1970 là một USD = 275 đồng, vậy 12 triệu đồng tương đương 432.000 USD) - Con số này quá lớn với một ca khúc!

Để dễ hình dung, một chiếc xe hơi hiệu La Dalat của hãng Citroen sản xuất tại miền Nam Việt Nam vào năm 1971 có giá khoảng trên dưới 650.000 đồng" (Theo Nguyễn Vĩnh Nguyên viết trong Đà Lạt, một thời hương xa, NXB Trẻ, 2017)

Đối chiếu các dữ liệu từ gia đình nhạc sĩ hiện còn lưu trữ, phù hợp với thời điểm 1971 vợ chồng nhạc sĩ Lam Phương mua căn biệt thự gần 300 mét vuông ở số 42 đường Nguyễn Lâm, quận 10, Sài Gòn. Ngôi nhà này vẫn còn là tài sản của người thân gia đình nhạc sĩ Lam Phương.

Thành phố buồn không chỉ xuất hiện trên truyền hình, sóng phát thanh hay trên tờ nhạc mà đã trở thành bài hát quen thuộc của Ban Kịch Sống. Ký ức của người Sài Gòn xưa đi coi kịch của Ban Kịch Sống vẫn còn lưu giữ những kỷ niệm đặc biệt với Thành phố buồn. Như một bài báo của tác giả Thanh Thủy, có lẽ là một khán giả mê kịch vào thời điểm đó, đã thuật lại:

"Thời ấy, cứ mỗi tối thứ năm hàng tuần, Đài Truyền hình Sài Gòn có tiết mục thoại kịch và những vở kịch của Ban Kịch Sống của Túy Hồng bao giờ cũng thu hút nhiều người xem. Thời ấy truyền hình còn hiếm, người ta kéo nhau tới nhà những người có tivi để xem kịch.

Trong nhà, cửa ra vào, ô cửa sổ... đều chật cứng người xem. Tôi còn nhớ, khi bài hát Thành phố buồn của Lam Phương được hát dìu dặt trong suốt một vở kịch của Túy Hồng phát trên truyền hình. Sáng hôm sau bài hát ấy bán đắt như tôm tươi, chàng học sinh, sinh viên nào cũng muốn mua bài Thành phố buồn về để trên kệ sách" (Sách đã dẫn).

Vở kịch tác giả Thanh Thủy nhắc đến chính là Phi vụ cuối cùng nói về binh chủng Không quân mà nghệ sĩ kịch Túy Hồng đã nhắc đến.

 Ca sĩ thể hiện bài hát này xuất sắc chính là Chế Linh. Cùng với nhạc sĩ Từ Công Phụng, ca sĩ Chế Linh là giọng ca người Chăm được thính giả miền Nam những năm đầu thập niên 1970 ái mộ. Ông là một trong "tứ đại danh ca Sài Gòn" cùng với Nhật Trường (Trần Thiện Thanh), Duy Khánh và Hùng Cường.

Thành phố buồn đã đại chúng đến mức có thể người nghe không biết tên tác giả, nhưng chỉ ôm cây guitar thùng và đi một đoạn giai điệu theo lối slow rock, âm giai Mi thứ (Em), nhiều người sẽ nhận ra. Hiện nay bản nhạc đã qua nửa thế kỷ này vẫn liên tục được các ca sĩ trong và ngoài nước biểu diễn.

Còn sống, còn viết. Và viết để được sống lâu hơn là hai vế của mệnh đề mà người nghệ sĩ theo đuổi trong sáng tác. Nếu ứng điều này vào Lam Phương và chỉ dùng Thành phố buồn để dẫn chứng cho lập luận trên, Lam Phương sẽ sống mãi cùng những người yêu Đà Lạt, yêu âm nhạc!

 

Thành Phố Buồn

Tác giả Lam Phương

✧✧

Thành phố nào nhớ không em?
Nơi chúng mình tìm phút êm đềm
Thành phố nào vừa đi đã mỏi
Đường quanh co quyện gốc thông già

Chiều đan tay nghe nắng chan hòa
Nắng hôn nhẹ làm hồng môi em
Mắt em buồn trong sương chiều..
Anh thấy đẹp hơn ..

Một sáng nào nhớ không em?
Ngày chủ nhật ngày của riêng mình..
Thành phố buồn nằm nghe khói tỏa
Người lưa thưa chìm dưới sương mù


Quỳ bên nhau trong góc giáo đường
Tiếng kinh cầu dệt mộng yêu đương
Chúa thương tình, sẽ cho mình mãi mãi gần nhau.

Rồi từ đó vì cách xa duyên tình thêm nhạt nhòa
Rồi từ đó chốn phong ba, em làm dâu nhà người


Âm thầm anh tiếc thương đời,
Đau buồn em khóc chia phôi
Anh về gom góp kỷ niệm tìm vui.

Thành phố buồn, lắm tơ vương ..
Cơn gió chiều lạnh buốt tâm hồn
và con đường ngày xưa lá đổ..
Giờ không em sỏi đá u buồn..


Giờ không em hoang vắng phố phường..
Tiếng chuông chiều chậm chậm thê lương
Tiễn đưa người quên núi đồi,
quên cả tình yêu..(3 x)

Cuộc hôn nhân với Túy Hồng

Nhạc sĩ Lam Phương dạy nhạc, hát cho Túy Hồng và nảy nở tình cảm với học trò dù anh trai cô chỉ muốn em theo công việc kinh doanh.

Cơn say màu hồng và danh vọng nhiều người khao khát

Một sáng Sài Gòn đầu năm 1959, Lam Phương đến tòa soạn báo Vui Sống, vai đeo cây guitar và một túi xách nhỏ chứa đầy thư hâm mộ. Như bao lần quen thuộc mỗi khi có bài hát mới, chàng nhạc sĩ trẻ lại dành cho báo chí buổi phỏng vấn, trả lời những thắc mắc của người ái mộ.

Lam Phương và người vợ đầu tiên - Túy Hồng -

trong căn nhà mua được từ bán bản quyền bài hát "Thành phố buồn".

Hiện ngôi nhà này ở quận 10 (TP HCM), đang được gia đình Lam Phương sử dụng. Ảnh gia đình cung cấp. 

Theo đề nghị của ký giả Ngọc Huyền - Lan, Lam Phương ôm guitar hát bản nhạc mới nhất của mình là Kiếp ve sầu. Đó là bản rhumba rất buồn về thân phận và cuộc đời người nghệ sĩ lấy lời ca tiếng hát mua vui cho đời, như một kiếp ve ngắn ngủi.

Vốn thân quen với Lam Phương và bằng kỹ năng quan sát của nghề báo, Ngọc Huyền - Lan nhanh chóng phát hiện ra túi thư của khán giả hâm mộ. Khai thác chuyện tình cảm của nghệ sĩ là tài nguyên bất tận để câu khách nên cơ hội này khó bỏ qua với một nhà báo chuyên viết về giới văn nghệ như Ngọc Huyền - Lan.

Và bằng giọng văn hơi hướm "lá cải" của báo chí văn nghệ đương thời, Ngọc Huyền - Lan cho thấy mấy chi tiết khá quan trọng: Lam Phương đang yêu. Người yêu của Lam Phương rất ghen. Thư hâm mộ Lam Phương từ khắp nơi gửi về, cứ một tuần lại đầy thêm một túi xách. Lam Phương và người yêu sắp kết hôn. Người sắp trở thành "Lam Phương phu nhân" ấy là nghệ sĩ kịch nghệ Túy Hồng, lừng danh không kém trong giới sân khấu.

Đặc biệt, trong bài báo Lam Phương kể chuyện tình nghệ sĩ của mình đã nhắc đến thông tin quan trọng: "Cha mẹ chúng em đã hoàn toàn tán đồng, chỉ chờ chúng em có tiền là gửi thiệp hồng mời anh uống rượu". Lần đầu tiên, thông tin về người cha - cụ ông Lâm Đình Chất được nhắc đến. Chi tiết này cho thấy Lam Phương vẫn có mối quan hệ nồng ấm với thân phụ mình trong thời gian ở Sài Gòn, chứ không phải người cha ấy bỏ đi biệt tăm tích như lời thêu dệt lâu nay trên miệng đời. Năm 1989, cụ Lâm Đình Chất qua đời và được an táng tại Củ Chi.

Kịch sĩ Túy Hồng. Ảnh gia đình cung cấp.

Tên thật của Túy Hồng là Trương Ánh Tuyết, sinh năm 1940 và chỉ là một nữ sinh bình thường ở tỉnh Bình Dương; gia đình không có truyền thống văn nghệ. Cha mất sớm, Trương Ánh Tuyết sống với anh trai quyền huynh thế phụ.

Như một duyên lành với Lam Phương, khoảng năm 1955, công việc kinh doanh xe hơi của anh trai Ánh Tuyết khá lên. Người anh đưa em gái về Sài Gòn cho ăn học. Tình bạn của Lam Phương với anh trai Ánh Tuyết đã giúp cho mối tình của cặp đôi đẹp trong giới sân khấu - ca nhạc được nảy nở và tác thành.

Lam Phương đa tình, lãng tử mới có chút danh tiếng nên bắt gặp ánh mắt trong trẻo, nụ cười hồn hậu của thiếu nữ Bình Dương liền đem lòng cảm mến. Về phần mình, cô nữ sinh nhỏ cũng rung động đầu đời với người thanh niên viết nhạc, nuôi giấc mộng thành nhạc sĩ.

Ngày đầu đến với nhau, quan hệ của Lam Phương - Túy Hồng thuần túy tình thầy trò. Lam Phương dạy nhạc, dạy hát còn Túy Hồng muốn theo con đường nghệ thuật, bất kể sự cấm cản của người anh trai chỉ mong em gái mình theo hướng kinh doanh.

Những năm đầu thập niên 1950, sân khấu kịch khá phát triển ở cả hai miền Nam - Bắc. Tại Sài Gòn, kịch dễ có đất diễn hơn khi đầu thế kỷ 20, loại hình "cải cách ca ra bộ" đã phát triển thành "tuồng tích sánh văn minh".

Tức là những bản ca tài tử đã được sân khấu hóa bằng kịch bản cải lương làm say đắm giới mộ điệu. Thoại kịch cũng theo đó dần trở nên quen thuộc với khán giả với sự xuất hiện của ban kịch đầu tiên của người Việt ở Sài Gòn là Ban Kịch Dân Nam của ông bầu Anh Lân.

Túy Hồng và Lam Phương

Ngày đầu mới thành lập, Ban Kịch Dân Nam chỉ có ba diễn viên là Tuyết Vân và hai mẹ con Túy Hoa, Túy Phượng. Có thể đó là lý do khi gia nhập đoàn kịch sau khi trúng tuyển cuộc thi tuyển chọn diễn viên, Trương Ánh Tuyết là lấy nghệ danh là Túy Hồng, nghĩa là cơn say màu hồng. 

Những ngày đầu lên sân khấu Dân Nam, Túy Hồng vẫn chưa tạo được cơn say nào. Tình cảnh này hệt như Lam Phương thời mới viết ca khúc Chiều thu ấy. Cô nghệ sĩ trẻ loanh quanh với các vai phụ trong các vở đoản kịch. Cho tới khi ông bầu Anh Lân mời Kim Cương, là một nữ nghệ sĩ cải lương về đầu quân cho ban kịch và trình diễn vở Áo người trinh nữ.

Trong vở này, Túy Hồng đóng vai phụ, Kim Cương vai chính. Vở diễn đã lấy hết nước mắt người xem.

Một trong những giai đoạn hạnh phúc nhất đời Lam Phương chính là cuộc sống hôn nhân với Túy Hồng. Đôi vợ chồng mới cưới có tất cả những gì mà người đời mơ ước: danh vọng, tiền tài, sự nổi tiếng và cả cuộc sống yên bình bên con thơ...

Quan trọng hơn tất thảy, đám cưới năm 1959 của đôi nghệ sĩ Lam Phương - Túy Hồng có sự hiện diện của cụ ông Lâm Đình Chất và cụ bà Trần Thị Nho - song thân của nhạc sĩ Lam Phương. Gia đình nhỏ trở thành một dịp để hạnh ngộ một gia đình lớn nhiều tháng năm ly tan trôi nổi.

Nhạc sĩ Lam Phương

 

Hình Internet

Hồng Anh st tổng hợp

 

Chỉnh sửa lần cuối vào %PM, %02 %808 %2019 %13:%12
back to top